Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Tội sản xuất buôn bán hàng giả theo điều 156 bộ luật hình sự lý luân và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.08 KB, 58 trang )

MỤC LỤC
LỜI NĨI ĐẦU
CHƯƠNG MỘT: LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH
VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ.
1.1.Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi có BLHS năm 1985.
1.2.Giai đoạn từ khi BLHS năm 1985 ra đời đến khi ban hành BLHS năm 1999.
1.2.1.BLHS năm 1985 quy định về tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả.
1.2.2.BLHS năm 1999 và những tiến bộ của nó về tội sản xuất, buôn bán
hàng giả so với BLHS năm 1985.

CHƯƠNG HAI: TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ QUY ĐỊNH TẠI
ĐIỀU 156 BLHS
2.1.Dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
2.1.1.Khách thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
2.1.2.Mặt khách quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
2.1.3.Chủ thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
2.1.4.Mặt chủ quan của tội sản xuất, bn bán hàng giả.
2.2.Hình phạt đối với tội sản xuất, bn bán hàng giả.
2.2.1.Hình phạt chính.
2.2.2.Hình phạt bổ sung.
2.3.Phân biệt tội sản xuất, buôn bán hàng giả với một số tội phạm khác của BLHS
năm 1999.
2.3.1.Phân biệt tội sản xuất, buôn bán hàng giả với tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp tại Điều171 BLHS.
2.3.1.Phân biệt tội sản xuất, buôn bán hàng giả với các tội sản xuất, buôn
bán hàng giả khác tại Điều 157,158 BLHS.


2.3.3.Phân biệt tội sản xuất, buôn bán hàng giả với một số tội làm giả khác
tại các Điều 164, 180, 181 BLHS.


CHƯƠNG BA : THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN
HÀNG GIẢ TRONG NĂM NĂM GẦN ĐÂY(2003-2007).
3.1. Thực tiễn xét xử tội sản xuất, buôn bán hàng giả từ năm 2003 đến năm 2007
3.2.Những hạn chế của hoạt động xét xử tội sản xuất, buôn bán hàng giả và những
nguyên nhân của những hạn chế đó.
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử tội sản xuất,
buôn bán hàng giả.

KẾT LUẬN.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.


CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

:

Bộ luật hình sự.

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa.

TNHS

:


Trách nhiệm hình sự.

XPTTQLKT

:

Xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.

CTTP

:

Cấu thành tội phạm.


LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện đường nối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đã được đề ra từ Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ sáu năm 1986 trong hơn 20 năm qua nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn như: chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng cao, trật tự an ninh xã hội được
giữ vững, tỷ lệ xóa mù chữ là cao nhất thế giới….mặc dù bước đầu đã gặp khơng ít chơng
gai. Hiện nay trong mắt bạn bè thế giới Việt Nam đã trở thành đối tác đáng tin cậy. Để đưa
đất nước tiến lên CNXH thì vấn đề phát triển kinh tế có ý nghĩa then chốt, quyết định. Với
mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong bối cảnh tồn cầu hóa
hiện nay, chúng ta đang phải đương đầu với rất nhiều những khó khăn thử thách rất lớn.
Tình hình tội phạm kinh tế trong giai đoạn hiện nay đang ngày càng gia tăng, tinh vi và
phức tạp, trong đó tội sản xuất, bn bán hàng giả đang có chiều hướng gia tăng và diễn
biến phức tạp.
Theo đánh giá của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) tổng giá trị hàng giả
được mua bán hàng năm trên thế giới khoảng 500 tỷ Euro gấp đôi ngân sách nước Đức.
Hiện nay hàng giả chiếm lĩnh 1/10 thương mại thế giới, trong đó các loại hàng được làm

giả nhiều nhất có: cứ 3 chiếc đĩa CD thì có 1 chiếc được sao chép trái phép; các mặt hàng
như: quần áo, phụ kiện may mặc, mỹ phẩm và nước hoa chiếm khoảng 1/3 tổng số hàng
giả thế giới, phần mềm máy tính là 35%, video, DVD và CD là 25%. Đồng hồ Thụy Sỹ
giả mạo được bán nhiều hơn hàng thật: 40 triệu chiếc giả so với 26 triệu chiếc đồng hồ
thật. Ta có thể thấy hàng giả đang lan tran khắp mọi nơi và trở thành vấn nạn của các quốc
gia, Việt Nam chúng ta cũng phải đối mặt với vấn nạn này. Nạn hàng giả này không chỉ
gây ra những thiêt hại to lớn về kinh tế, làm tổn hại về vật chất, mất uy tín quốc gia, nhà
sản xuất, người tiêu dùng mà tai hại hơn nó cịn có thể gây ra những thiêt hại về sức khỏe,
tính mạng của con người. Từ thực tế này địi hỏi phải có những biệm pháp để ngăn chăn
đẩy lùi nạn hàng giả, trong đó pháp luật hình sự là một biện pháp hữu hiệu. Do đó vấn đề


nghiên cứu khoa học, phân tích, đưa ra quan điểm, giải pháp nhằm hồn thiện quy định
của pháp luật hình sự cũng như nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử đối với tội sản
xuất, buôn bán hàng giả trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, chúng tơi chọn đề tài : “
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo Điều 156 Bộ luật hình sự lý luân và thực tiễn” để
làm khóa luận tốt nghiệp.
Mục đích của khóa luân là nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định về tội sản
xuất, buôn bán hàng giả theo BLHS năm 1999, từ đó đối chiếu quy định pháp luật với thực
tiễn xét xử để tìm ra những bất cập, vướng mắc, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
Nhiệm vụ của đề tài là khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tội sản xuất,
buôn bán hàng giả; nghiên cứu quy định của Điều 156 BLHS năm 1999 để thấy những
tiến bộ, hạn chế cần khắc phục, sửa chữa; tìm hiểu thực tiễn xét xử, đưa ra giải pháp để
nâng cao hiệu quả của hoạt động này đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy định của Điều156 BLHS năm 1999 về tội sản
xuất, buôn bán hàng giả, thực tiễn xét xử tội phạm này trong những năm gần đây(20032007).
Phạm vi của đề tài là tội sản xuất, buôn bán hàng giả dưới góc độ luật hình sự trong
khoảng thời gian từ 2003 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong khóa luận bao gồm: phương pháp phân

tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử, thống kê….dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Ngồi phần lời nói đầu và kết luận, thì khóa luận này có kết cấu như sau:

Chương một: Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
Chương hai : Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo BLHS năm 1999.
Chương ba : Thực tiễn xét xử tội sản xuất, buôn bán hàng giả trong những năm gần
đây(2003-2007).


CHƯƠNG MỘT
LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH VỀ
TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ
Bước vào những năm đầu của thế kỷ 21, nước ta đang tiến sâu hơn vào q
trình hội nhập tồn diện với quốc tế và khu vực. Trước những tác động và yêu cầu
của q trình hội nhập đất nước ta đã có những thay đổi lớn về mọi mặt, trong đó
sự thay đổi trong kinh tế là lớn nhất và quan trọng nhất. Để quản lý tốt “nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” theo đúng chủ trương đường nối của
Đảng và Nhà nước. Bên cạnh những chính sách về phát triển kinh tế thì chính sách
hình sự về các tội phạm xâm hại tới trật tự quản lý kinh tế cũng phải ra đời và phù
hợp, linh hoạt, chặt chẽ hơn. Chương XVI- BLHS năm 1999 quy định “Các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” đã đáp ứng phần nào đòi hỏi này. Trong 29 điều
luật (từ Điều 153 đến Điều 181) thì “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” được quy
định tại Điều 156 nhằm đấu tranh chống nạn hàng giả, buôn bán hàng giả nói
riêng và các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung. Lịch sử lập
pháp hình sự nước ta về “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả”cũng đã được quy định
và có sự trừng trị rất nghiêm khắc đối với các hành vi phạm tội này. Có thể khái
quát như sau:
1.1.Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi có BLHS năm 1985.
Ngày 2/9/1945 Nước Việt Nam dân chủ cộng hịa ra đời - “Nhà nước cơng
nơng đầu tiên của Đông nam á”. Nhà nước và bộ máy của nó vừa mới được thành

lập đã phải đương đầu với bao khó khăn và thử thách: “giặc đói, giặc dốt, giặc
ngoại xâm,…” Để bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng tháng tám năm 1945, bảo
vệ quyền và lợi ích của giai cấp mình, nhiệm vụ quan trọng và hàng đầu của nhà
nước ta là giữ vững an ninh quốc gia, ổn định kinh tế đảm bảo đời sống cho nhân


dân. Nhiều chính sách luật được ra đời (Sắc luật) nhưng chưa thể cho ra đời một
chính sách Luật hình sự được pháp điển hóa do hồn cảnh lịch sử chưa cho phép.
Trong khoảng tời gian từ năm 1945 đến năm 1975, đất nước ta liên tục có chiến
tranh, cả nước tập trung toàn bộ sinh lực vào cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước, các
văn bản pháp luật mang tính hình sự ra đời cũng chỉ tập chung vào quy định các
tội có liên quan đến cuộc chiến như: tội phản cách mạng; tội xâm phạm tài sản xã
hội chủ nghĩa; các tội về kinh tế thì là: tội đầu cơ, bn bán hàng cấm…có ảnh
hưởng nhiều tới cuộc chiến tranh. “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” trong giai
đoạn này không hề được quy định trong bất kỳ một văn bản pháp luật mang tính
hình sự nào. Do tại thời điểm này, nền kinh tế nước ta còn bao cấp mà tất cả sinh
lực của đất nước đều tập chung cho cuộc chiến tranh, hành hóa lưu thơng trên thị
trường đều do các doanh nghiệp nhà nước sản xuất hoặc do các nước viên trợ,
chính vì vậy mà hàng giả gần như là khơng có cơ hội phát triển.
Năm 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, nền kinh tế đất nước sau chiến
tranh hết sức nghèo nàn và lạc hậu, bọn tư sản mại bản được sự tiếp tay của tư sản
nước ngồi khơng ngừng gây rối loạn thị trường, trong đó nạn hàng giả cũng là
một trong những nguyên nhân gây rối loạn. Nhằm ổn định thị trường, thắt chặt sự
quản lý nhà nước đối với nền kinh tế, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa
miền nam Việt Nam ban hành Sắc luật số: 03.SL ngày 15/3/1976 quy định về tội
phạm và hình phạt. “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” cũng được quy định tại
Sắc luật này trong các tội kinh tế:
“Điều 6. Tội kinh tế.
Tội kinh tế là tội gây thiệt hại về tài chính cho Nhà nước, cho Hợp tác xã
hoặc cho tập thể nhân dân, gây trở ngại cho việc khôi phục và phát triển sãn xuất,

cho việc ổn định đời sống nhân dân, gồm các tội:
-Sản xuất hàng giả cố ý lừu gạt người tiêu thụ;
-Kinh doanh trái phép, cố ý trốn tránh quy định của Nhà nước;


- Làm bạc giả, hoặc tiêu thụ bạc giả;

Phạm một trong các tội trên đây, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm và
phạt tiền đến năm mươi nghìn đồng Ngân hàng hoặc một trong hai hình phạt đó.
Trong trừong hợp nghiêm trọng, thì phạt tù đến hai mươi9 năm, tù chung thân
hoặc xử tử hình và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Việc quy định tội sản xuất hàng giả trong Sắc luật số: 03.SL đã đáp ứng phần
nào yêu cầu đấu tranh chống tội phạm về hàng giả trong tội phạm về kinh tế. Qua
đó thể hiện được tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội sản xuất hàng giả và thái
độ của Nhà nước đối với tội phạm này là rất nghiêm khắc. Nhưng Sắc luật số:
03.SL bên cạnh những ý nghĩa tích cực cịn bộc lộ những hạn chế nhất định và
quy định tội sản xuất hàng giả cũng vậy. Sắc luật chưa có sự phân hóa các tội
phạm về kinh tế nói chung và tội sản xuất hàng giả nói riêng. Điều 6 của Sắc luật
chỉ quy định “Sản xuất hàng giả cố ý lừu gạt người tiêu thụ” mà không quy định
hành vi buôn bán hàng giả cũng là tội phạm, không đưa ra những đối tượng hàng
giả cụ thể như: hàng giả; hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, …
mà chỉ quy định hàng giả chung chung, thậm chí cịn khơng có một văn bản pháp
luật nào hướng dẫn hàng giả là loại hàng hóa như thế nào? Việc quy định như vậy
là khơng cụ thể và đầy đủ. Về hình phạt, điều luật quy định hình phạt áp dụng
chung cho các tội phạm, việc quy định như vậy chưa cho thấy rõ mức độ nguy
hiểm cho xã hội của từng loại tội phạm, cũng như chế tài áp dụng đối với tội phạm
đó. Là văn bản pháp luật đầu tiên quy định về các tội phạm thuộc lĩnh vực kinh tế
như thế này thì Sắc luật cịn q nhiều những hạn chế cả về kỹ thuật lập pháp cũng
như khả năng áp dụng trong thực tiễn của pháp luật, gây ra khơng ít những khó
khăn trong việc giải quyết các vụ án trong thực tiễn xét xử của tịa án. Nhưng do

hồn cảnh lịch sử mà Sắc luật này vẫn được áp dụng trong cả nước từ năm 1978
cho đến năm 1982.


Để khắc phục những hạn chế, thiếu xót của Sắc luật số: 03.SL và phù hợp hơn
với tình hình mới của nền kinh tế, trên cơ sở của Hiến pháp năm 1980, Pháp lệnh
số: 07-LCT/HĐNN7 ban hành ngày 10/7/1982 pháp lênh trừng trị các tội đầu cơ,
buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên
quy định về các tội này cho đến trước khi có BLHS năm 1985. “Tội làm hàng giả
hoặc buôn bán hàng giả” quy định tại Điều 5 Pháp lệnh, trong đó:
“Điều 5. Tội làm hàng giả hoặc bn bán hàng giả.
1.Người nào làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả nhằm thu lợi bất chính,
thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm và bị phạt tiền từ năm nghìn đồng đến
năm vạn đồng;
2. Phạm tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm,
thuốc chữa bệnh hoặc phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng quy định tại
Khoản 1 Điều 9 pháp lệnh này thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm, bị phạt
tiền đến năm trăm nghìn đồng và có thể bị tịch thu một phần tài sản;
3. Phạm tội làm hàng giả hoặc bn bán hàng giả có chất độc hại hoặc các
chất khác có thể nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng, hoặc phạm
tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Khoản2 Điều 9 Pháp lệnh
này thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân, bị phạt tiền
đến một triệu đồng, và có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
“Tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả” được quy định trong Pháp lệnh
đã thể hiện một sự thay đổi căn bản về trình độ lập pháp so với Sắc luật số:03/SL.
Khơng cịn quy định đơn giản chỉ một câu mà tội phạm này đã được quy định
trong một điều luật riêng, trong đó hành vi bn bán hàng giả đã được coi là tội
phạm và có tính nguy hiểm cho xã hôi tương đương với hành vi làm hàng giả;
hàng giả đã được phân định thành nhiều loại hàng giả với mức độ nguy hiểm khác
nhau và chế tài áp dụng với từng loại hàng giả khác nhau. Tuy nhiên, Pháp lệnh

cũng có những hạn chế nhất định. Các tình tiết như: “ phạm tội trong trường hợp


đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Khoản 2 Điều 9 Pháp lệnh này thì bị phạt tù từ
mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân” mà theo quy định tai Điều 8 của
Pháp lệnh thì trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì hình phạt cao nhất là “tử
hình”. Những quy định này thể hiện tính khơng nhất quán của pháp luật đối với
hành vi phạm tội. Pháp lệnh cũng chưa phân định được tội phạm và vi phạm pháp
luật khác mà phải áp dụng Nghị định 46/HĐBT ngày 10/5/1983 quy định về việc
xử lý bằng biện pháp hành chính các hành vi đầu cơ, bn lậu, làm hàng giả, kinh
doanh trái phép, Nghị định này đưa ra một số các dấu hiệu định lượng và định tính
để xác định tội phạm và vi phạm pháp luật bị xử phạt vi phạm hành chính, cụ thể
là:
“Mọi hành vi đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép thuộc loại
vi phạm nhỏ chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự đêù bị xử lý bằng các
biện pháp hành chính theo quy định của Nghị định này.
Vi phạm nhỏ là vi phạm trong trường hợp giá trị hàng phạm pháp dưới hai
vạn đồng, tính chất việc vi phạm không nghiêm trọng, tác hại gây ra cho sản xuất,
đời sống nhân dân, trật tự và an toàn xã hội là khơng nhiều, người vi phạm khơng
có tiền án, tiền sự, khi bị phát hiện khơng có hành vi chống lại cán bộ, nhân viên
làm nhiệm vụ”, nhưng Nghị định cũng nêu “…hàng giả thuộc loại lương thực,
thực phẩm, thuốc chữa bệnh thì bất cứ trường hợp nào cũng bị truy cứu trách
nhiệm hình sự” do loại hàng giả này có mức độ nguy hiểm cao hơn so với các loại
hàng giả khác. Trên thực tế khi áp dụng pháp luật để xử lý một hành vi làm hoặc
buôn bán hàng giả các cơ quan chức năng phải căn cứ vào cả hai văn bản pháp
luật này để xác định truy cứu TNHS hay xử lý bằng các biện pháp hành chính,
phần nào đã gây ra những trở ngại nhất định, không thuận tiện. việc cho ra đời
một BLHS là vấn đề cần thiết để quy định cụ thể và khoa học về tội làm hàng giả,
buôn bán hàng giả nói riêng và các tội phạm hình sự nói chung.



1.2. Giai đoạn từ khi BLHS năm 1985 ra đời đến khi ban hành BLHS năm
1999.
1.2.1. BLHS năm 1985 quy định về tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả.
Năm 1985, BLHS Việt Nam đầu tiên và cũng là bộ luật đầu tiên của nước ta
được ban hành. Đây được coi là một mốc son trong lịch sử lập pháp của nước ta.
Từ đây các tội phạm khơng cịn được quy định riêng lẻ trong các văn bản pháp
luật dưới luật nữa mà được tập hợp trong một BLHS. Mỗi một tội phạm và hình
phạt đối với tội phạm đó được quy định trong một điều luật riêng và được sắp xếp
vào từng nhóm tội khác nhau. Cũng như vậy, “Tội làm hàng giả, tội buôn bán
hàng giả” thuộc nhóm “Các tội kinh tế” quy định tại Điều 167 của Bộ luật.
“Điều 167. Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả.
1.Người nào làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả thì bị phạt tù từ sáu
tháng đến năm năm.
2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây bị phạt tù từ ba năm đến
mười hai năm.
a.Hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, phịng bệnh;
b.Có tổ chức;
c.Lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc danh nghĩa Nhà nước, tổ chức xã hội;
d.Hàng giả có số lương lớn thu lợi bất chính lớn;
đ.Tái phạm nguy hiểm.
3.Phạm tội trong những truờng hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ
mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.”
Quy định trên cho thấy Điều 167 BLHS năm 1985 đã có tính kế thừa Pháp
lệnh số: 07-LCT/HĐNN7 nhưng cũng có những thay đổi có tính tiến bộ hơn:
Khoản 1 không đổi so với Pháp lệnh mà chỉ thay đổi về hình phạt; ở Khoản 2
khơng đưa ra thuật ngữ “ phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng” mà thay vào
đó là các trường hợp cụ thể; về hình phạt, Điều 167 chỉ quy định một loại hình



phạt là tước tự do (tù) khác so với tại Pháp lệnh 07 quy định hai loại hình phạt là
hình phạt tù và hình phạt tiền. Việc quy định như vậy theo chúng tơi thì chưa thực
sự khoa học.
Để giải thích thế nào là hàng giả thì tại Nghị định 140/HĐBT ngày 25/4/1991
của Hội đồng bộ trưởng về kiểm tra xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả và
Thông tư liên bộ số: 1254-TTLB ngày 8/11/1991 của Ủy ban khoa học Nhà nước,
Bộ thương mại và du lịch hướng dẫn thực hiện Nghị định 140/HĐBT đã đưa ra
định nghĩa hàng giả, các dấu hiệu nhận biết hàng giả và phân biệt hàng giả với
hàng kém chất lượng. Trong đó: “ Hàng giả theo Nghị định này là những sản
phẩm, hàng hóa được sản xuất ra trái pháp luật có hình dáng giống như những
sản phẩm, hàng hóa được Nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ
trên thị trường, hoặc những sản phẩm, hàng hóa khơng có giá trị sử dụng đúng
với nguồn gốc, bản chất tự nhiên tên gọi cơng dụng của nó.” (Điều 3- Nghị định
140/HĐBT).
“Điều 4: Sản phẩm, hàng hóa có một trong những dấu hiệu dưới đây được
coi là hàng giả.
1.Sản phẩm, hàng hóa (kể cả nhập khẩu) có nhãn sản phẩm giả mạo hoặc
nhãn sản phẩm của một cơ sở sản xuất khác mà không được chủ nhãn đồng ý;
2.Sản phẩm, hàng hóa mang nhãn hiệu hàng hóa giống hệt hoặc tương tự có
khả năng làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hóa của cơ sở
sản xuất, bn bán khác đã đăng ký với cơ quan bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp (Cục sáng chế) hoặc đã được bảo hộ theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia;
3.Sản phẩm, hàng hóa mang nhãn khơng đúng với nhãn sản phẩm đã đăng ký
với cơ quan tiêu chuẩn đo lường chất lượng;
4.Sản phẩm, hàng hóa ghi dấu phù hợp tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam khi
chưa được cấp giấy chứng nhận và dấu phù hợp tiêu chuẩn Viêt Nam;


5.Sản phẩm, hàng hóa đã đăng ký hoặc chưa đăng ký chất lượng với cơ quan

tiêu chuẩn đo lường chất lượng mà có mức chất lượng thấp hơn mức chất lượng
tối thiểu cho phép;
6.Sản phẩm, hàng hóa có giá trị sử dụng không đúng với nguồn gốc, bản chất
tự nhiên, tên gọi và cơng dụng của nó.”
Từ đây, ta có thể thấy hàng giả được chia làm hai loại: hàng giả về hình thức
(sản xuất và sử dụng nhãn giả và bao bì mang nhãn giả hoặc sử dụng nhãn của
người khác, của cơ sở sản xuất khác mà không được phép của chủ nhãn (bao gồm
nhãn sản phẩm, nhãn hiệu hàng hóa và dấu hiệu phù hợp tiêu chuẩn chất lượng
Việt Nam)); hàng giả về nội dung (hàng không có giá trị sử dụng, khơng đúng với
nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và cơng dụng của nó; hoặc có mức chất
lượng dưới mức tối thiểu do Nhà nước quy định, nhằm đánh lừa gây thiệt hại cho
người tiêu dùng để thu lợi bất chính). Hàng giả là hàng có mức chất lượng thấp
hơn mức chất lượng tối thiểu, cịn hàng kém chất lượng là hàng có mức chất lượng
thấp hơn mức chất lượng ghi trên nhãn đăng ký song chưa vi phạm mức chất
lượng tối thiểu.
Qua những quy định trên đây, hàng giả đã được phần nào làm rõ hơn với
những dấu hiệu cụ thể của nó mà trước đây chưa hề có một văn bản pháp luật nào
của Nhà nước đưa ra khái niệm hàng giả. Nó có một ý nghĩa lớn trong việc áp
dụng để phân định hàng giả, hàng thật và hàng kém chất lượng. Tuy nhiên thì định
nghĩa và dấu hiệu này vẫn chưa phản ánh đúng bản chất của hàng giả. Hàng giả
được chia thành hai loại trong đó có hàng giả về hình thức, nhưng từ định nghĩa
đến dấu hiệu của loại hàng này cho thấy đây đây không phải là hàng giả mà là
hàng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Việc đưa ra quy định “mức chất
lượng tối thiểu” để phân định hàng giả và hàng kém chất lượng, nhưng thưc tế
khơng phải bất cứ loại hàng hóa nào cũng có được quy định mức chất lương tối


thiếu mà đa phần là khơng có. Do vậy việc áp dụng thực tế của các quy định này
là rất khó khăn.
BLHS năm 1985 với những hạn chế lịch sử của nó là: được xây dựng trên cơ

sở kinh tế xã hội của nền kinh tế bao cấp và trên thực tiễn của tình hình tội phạm
của thời kỳ đó. Do vậy trong khoảng thời gian 15 năm tồn tại, BLHS năm 1985
được sửa đổi, bổ sung 4 lần. Trong đó Điều 167 được sửa đổi, bổ sung 2 lần, ở lần
sửa đổi, bổ sung thứ hai (năm 1992) Điều 167 được sử đổi, bổ sung theo hướng
tăng hình phạt nên mức cao hơn và bổ sung thêm đối tượng hàng giả mới là: “Vật
liệu xây dựng, phân bón thuốc trừ sâu”. Với sự sửa đổi, bổ sung mới này ta thấy
được cá loại hàng giả ngày càng đa dạng hơn và việc tăng hình phạt nên mức cao
hơn thể hiện thái độ của Nhà nước là nghiêm khắc hơn đối với loại tội phạm này.
Mặc dù đã sửa đổi, bổ sung nhưng Điều 167 vẫn có những hạn chế về cả nội dung
và kỹ thuật lập pháp, nó đã tạo ra những khó khăn nhất định trong việc áp dụng
pháp luật như: việc không đưa ra các tiêu chuẩn để định lượng cũng như định tính
để xác định một hành vi làm, buôn bán hàng giả là tội phạm hay vi phạm pháp luật
khác do vậy một người có hành vi làm, bn bán hàng giả sẽ có 3 khả năng có thể
xảy ra: người đó có thể bị truy cứu TNHS theo Điều 167 BLHS; có thể bị xử phạt
hành chính theo Nghị định 57/CP ngày 31/5/1997 quy định về việc xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường chất lượng hàng hóa; hoặc có thể bị xử
lý bằng các biện pháp khác như: cảnh cáo, bị tịch thu tài sản… Cả ba khả năng
trên cùng tồn tại cho thấy Điều 167 cịn khơng kế thừa được cả điểm tích cực này
của văn bản pháp luật trước đó là Pháp lệnh số: 07.LCT/HĐNN7 và Nghị định46/
HĐBT ngày 10/5/1983.
Để đáp ứng yêu cầu cấp thiết của sự phát triển kinh tế - xã hội và phát triển
của tội phạm địi hỏi phải có pháp luật hình sự phù hợp và tiến bộ hơn. BLHS năm
1999 ra đời là cần thiết đối với pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng.


1.2.2.BLHS năm 1999 và những tiến bộ của nó về tội sản xuất, buôn bán hàng
giả so với BLHS năm 1985.
Trước yêu cầu thực tế, BLHS năm 1999 được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ
sung một cách tương đối tồn diện BLHS năm 1985 nhưng có sự kế thừa những
nội dung tích cực của BLHS sau 4 lần sửa đổi, bổ sung. Cũng theo hướng chung

của BLHS thì “Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả” được sửa đổi một cách
khá toàn diện thể hiện tại: Điều 156 “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả”. Điều 167
BLHS năm 1985 quy định về tội làm hàng giả, tội bn bán hàng giả trong đó bao
gồm các loại hàng giả là: hàng giả nói chung; hàng giả là lương thực, thực phẩm,
thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; hàng giả là vật liệu xây dựng, phân bón và về
bản chất thì hàng giả được chia làm hai loại là: hàng giả về hình thức, hàng giả về
nội dung. Thì nay BLHS năm 1999 đã tách các loại hàng giả trên thành các loại
hàng giả là đối tương tác động của các điều luật riêng như: Điều 156.Tội sản xuất,
buôn bán hàng giả; Điều 157.Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực
phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; Điều 158.Tội sản xuất, buôn bán hàng
giả là thức ăn dùng để chăn ni, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật,
giống cây trồng vật nuôi và Điều 171. Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Việc tách ra như vậy là hồn tồn phù hợp vì mỗi loại hàng giả khác nhau có
những tác động và tác hại đến các đối tượng khác nhau, từ đó TNHS được áp dụng
đối với mỗi loại tội phạm được đúng đắn hơn. Điều 156 quy định “Tội sản xuât,
buôn bán hàng giả” về mặt nội dung có sự thay đổi so với Điều 167, phạm vi của
đối tương tác động là hàng giả ở đây đã được thu hẹp lại khơng cịn các loại hàng
giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phịng bệnh, phân bón,…
nay đã là đối tượng tác động của Điều 157,158; về kỹ thuật lập pháp các thuật
“phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng” đã được cụ thể hóa bằng các
dấu hiệu và được các văn bản dưới luật quy định cụ thể, “hàng giả có số lượng
lớn” đã được định lượng rõ ràng; về hình phạt, hình phạt đã được giảm nhẹ hơn so


với Điều 167 với mức cao nhất của khung hình phạt là phạt tù đến mười lăm năm,
việc tách tội phạm quy định tại Điều 167 ra thành các điều luật khác nhau đã góp
phần giảm nhẹ hình phạt, hình phạt bổ sung được quy định tại Khoản 4 Điều 156
khác so với BLHS năm 1985 hình phạt bổ sung quy định tại một điều luật riêng và
áp dụng chung cho các tội phạm thuộc nhóm tội (Điều 185 BLHS năm 1985).
Ngay cả tên của điều luật cũng có sự thay đổi Điều 167. “Tội làm hàng giả,

tội buôn bán hàng giả” quy định hai tội danh mỗi tội có một hành vi khách quan
riêng trong một điều luật, còn Điều 156. “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” quy
định một tơi danh những có hai hành vi khách quan. Về bản chất thì việc quy định
như vậy khơng có gì khác nhau, nhưng việc để tên gọi của điều luật như Điều 156
là hợp lý hơn, thể hiện được tính phân hóa tội phạm cao hơn. Theo Điều 156 thì
những người có hành vi sản xuất hàng giả thì vẫn bị tòa án xét xử về tội sản xuất
hàng giả, người có hành vi bn bán hàng giả thì bị xét xử về tội buôn bán hàng
giả.
Với những điểm mới này của Điều 156 so với các văn bản pháp luật trước đây
quy định về tội phạm này thì Điều 156 thể hiện được một sự tương đối hoàn thiện
và đầy đủ hơn mặc dù điều luật chưa khái quát được thế nào là sản xuất hàng giả,
buôn bán hàng giả mà chỉ quy định tính chất, mức độ, hậu quả nguy hiểm cho xã
hội của hành vi.


CHƯƠNG HAI
TỘI SẢN XUÂT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ THEO QUY ĐỊNH TẠI
ĐIỀU 156 BỘ LUẬT HÌNH SỰ.
BLHS năm 1999 được đánh giá là một sự phát triển mới của luật hình sự Việt Nam.
Bộ luật được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách tương đối toàn diện BLHS
năm 1985 nhưng có kế thừa những nội dung tích cực, hợp lý của BLHS này qua các lần
sửa đổi, bổ sung. Điều 156 quy định “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” nằm trong
Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là một điều luật có đổi mới. Với mục
đích của khóa luận là nghiên cứu quy định của pháp luật về “Tội sản xuất, buôn bán
hàng giả” theo BLHS năm 1999, chúng ta cần tìm hiểu một cách có hệ thống các dấu
hiệu pháp lý, hình phạt và phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác được quy
định trong bộ luật.
Nhưng trước khi đi tìm hiểu những vấn đề trên thì ta phải định nghĩa thế nào là “tội
sản xuất, buôn bán hàng giả”. Điều 156 không đưa ra định nghĩa này, nhưng dưới góc
độ khoa học pháp lý chúng ta có thể xây dựng lên một định nghĩa về tội phạm này trên

cơ sở của định nghĩa tội phạm tại Khoản 2 Điều 8, Do đó:
“Tội sản xuất, bn bán hàng giả là hành vi làm ra, mua đi bán lại hàng giả, do
người có năng lực trách nhiêm hình sự thực hiện với lỗi cố ý xâm phạm đến trật tự của
nền sản xuất hàng hóa, làm mất ổn định thị trường, xâm hại lợi ích người tiêu dùng”
2.1. Dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất, buôn bán hàng giả:
Tội phạm được cấu thành bởi bốn yếu tố: khách thể của tội phạm, mặt khách quan
của tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm. Đối với tội sản xuất,
bn bán hàng giả thì bốn yếu tố này được thể hiện như sau:
2.1.1. Khách thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả :


Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại. Khách thể của từng tội phạm cụ thể (khách thể trực tiếp của tội phạm) là
nhưng quan hệ xã hội cụ thể được quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại
trực tiếp của một tội phạm cụ thể.
Khách thể trực tiếp của tội sản xuất, buôn bán hàng giả là những quan hệ xã hội
trong lĩnh vực quản lý chất lượng hàng hóa, lưu thơng, phân phối hàng hóa trên thị
trường và đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng.
Đối tượng của tội sản xuất và buôn bán hàng giả là các loại hàng giả. Vậy hàng giả
là gì? Và tại sao sản xuất buôn bán hàng giả lại xâm hại đến mối quan hệ xã hội nêu
trên? Theo quan niệm chung thì hàng giả là những sản phẩm hàng hóa được sản xuất trái
pháp luật có như những sản phẩm, hàng hóa được nhà nước cho phép sản xuất, nhập
khẩu và tiêu thụ trên thị trường hoặc những sản phẩm, hàng hóa khơng có giá trị sử dụng
đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi, cơng dụng của nó.
Theo quy định của pháp luật trước khi BLHS năm 1999 ra đời, thì tại Nghị Định
140/HĐBT ngày 25/4/1991cũng đưa ra định nghĩa về hàng giả và 6 dấu hiệu để hàng
hóa bị coi là hàng giả, trong Thông tư liên bộ 1254/TTLB ngày 8/11/1991 cũng phân
loại hàng giả và phân biệt hàng giả và hàng kém chất lượng. Như đã phân tích ở mục
1.2.1 Chương một khóa luận này thì những định nghĩa, dấu hiệu và sự phân biệt này
chưa chính xác và đầy đủ để nhận biết hàng giả. Do vậy để giải thích đầy đủ và chính

xác hơn thế nào là hàng giả, tại Thông tư liên tịch số: 10/2001/TTLT ngày 27/4/2000 của
Bộ thương mại, Bộ tài chính, Bộ cơng an, Bộ khoa học công nghệ và hướng dẫn Chỉ thị
số 31/1999/CT-TTG của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và bn bán
hàng giả thì:
“ Hàng hóa có một trong những dấu hiệu sau đây được coi là hàng giả
1. Hàng giả chất lượng hoặc công dụng:
1.1 Hàng hóa khơng có giá trị sử dụng hoặc giá trị sứ dụng không đúng như ban
chất tự nhiên, tên gọi và cơng dụng của nó.


1.2 Hàng hóa đưa thêm tạp chất, chất phụ gia không được phép sử dụng làm thay đổi
chất lượng, không có hoặc có ít dược chất khác với tên dược chất được ghi trên nhãn
hoặc bao bì, khơng có hoặc không đủ hoạt chất, chất hữu hiệu khác với tên hoạt chất,
chất hữu hiệu ghi trên bao bì.
1.3 Hàng hóa không đủ thành phần nguyên liệu hoặc bị thay thế bằng những nguyên
liệu phụ tùng khác không bảm bảo chất lượng so với tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa đã
cơng bố, gây hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khỏe người, động vật, thực vật hoặc môi
sinh, môi trường.
1.4 Hàng hóa thuộc danh mục tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng mà không thực hiện gây
hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khỏe người, động vật, thực vật và mơi sinh, mơi
trường.
1.5 Hàng hóa chưa được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn mà áp dụng giấy chứng nhận
hoặc dấu phù hợp tiêu chuẩn (đối với danh mục hàng hóa bắt buộc).
2. Giả về nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc, xuất xứ hàng
hóa:
2.1 Hàng hóa có nhãn hiệu hàng hóa trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
hàng hóa của người khác đang được bảo hộ cho cùng loại hàng hóa kể cả nhãn hiệu
hàng hóa đang được bảo hộ theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, mà không
được phép của chủ nhãn hiệu.
2.2 Hàng hóa có dấu hiệu hoặc bao bì mang dấu hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm

lẫm với tên thương mại được bảo hộ hoặc với tên xuất xứ hàng hóa được bảo hộ.
2.3 Hàng hóa, bộ phận của hàng hóa có hình dáng bên ngồi trùng với kiểu dáng công
nghiệp đang được bảo hộ mà không được phép của chủ kiểu dáng cơng nghiệp.
2.4 Hàng hóa có dấu hiệu giả mạo về chỉ dẫn nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa gây hiểu
sai lệch về nguồn gốc, nơi sản xuất, nơi đóng gói, lắp ráp hàng hóa.
3.Giả về nhãn hàng hóa :


3.1 Hàng hóa có nhãn hàng hóa giống hệt hoặc tương tự với nhãn hàng hóa của cơ sơ
khác đã cơng bố.
3.2 Những chỉ tiêu ghi trên nhãn hàng hóa khơng phù hợp với chất lượng hàng hóa
nhằm lừa dối người tiêu dùng.
3.3 Nội dung ghi trên nhãn bị cạo, tẩy xóa, sửa đổi ghi khơng đúng thời hạn sử dụng
để lừa dối khách hàng.
4.Các ấn phẩm hàng hóa đã in sử dụng vào viêc sản xuất, tiêu thụ hàng giả;
4.1 Các loại đề can, tem sản phẩm, nhãn hàng hóa, mẫu nhãn hiệu hàng hóa, bao bì
sản phẩm có dấu hiệu vi phạm như: trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hàng
hóa cùng loại, với nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng cơng nghiệp, tên gọi xuất xứ hàng hóa
được bảo hộ.
4.2 Các loại hóa đơn, chứng từ, chứng chỉ, tem,vé, tiền, ấn phẩm có giá trị như tiền,
ấn phẩm và sản phẩm văn hóa giả mạo khác.”
Từ những quy định trên thì hàng giả được chia làm ba loại:
- Hàng giả về nội dung: là hàng giả về chất lượng hoặc công dụng. Đây là loại hàng hóa
khơng có giá trị sử dụng hoặc có giá trị sử dụng không đúng bản chất tự nhiên tên gọi và
cơng dụng của loại hàng hóa đó.
Ví dụ: Dùng bột mỳ để làm thuốc B1, dùng nước tinh khiết hòa với muối để làm
thuốc nhỏ mắt…
- Hàng giả về hình thức: là hàng giả về nhãn hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn
gốc xuất xứ … Đây là loại hàng hóa mang nhãn hiệu, kiểu dáng… của cơ sở sản xuất
khác nhưng có giá trị sử dụng.

Ví dụ: Những chiếc đồng hồ mang nhãn hiệu nổi tiếng của Thụy Sỹ nhưng thực ra
là đồng hồ do Trung Quốc được làm với kiểu dáng và hình thức giống hệt đồng hồ Thụy
Sỹ. Hay những chiếc túi sách của hãng thời trang nổi tiếng Louis Vutton của Pháp được
làm giả kiểu dáng giống hệt và chất liệu kém hơn…



×