Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Tội sản xuất, buôn bán hàng giả lý luận và thực tiễn tội phạm nay tại địa bàn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.06 KB, 44 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện đường nối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đã được đề ra
từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ sáu năm 1986 trong hơn 20 năm qua nước
ta đã đạt được những thành tựu to lớn như : chính trị ổn định, kinh tế tăng
trưởng cao, trật tự an ninh xã hội được giữ vững, tỷ lệ xóa mù chữ là cao
nhõt thế giới….mặc dù bước đầu đã gặp không ít chông gai. Hiện nay trong
mắt bạn bè thế giới Việt Nam đã trở thành đối tác đáng tin cậy. Để đưa đất
nước tiến lên CNXH thì vấn đề phát triển kinh tế có ý nghĩa then chốt, quyờt
định. Với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong
bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, chúng ta đang phải đương đầu với rất nhiều
những khó khăn thử thách rất lớn. Tỡnh hình tội phạm kinh tế trong giai
đoạn hiện nay đang ngày càng gia tăng, tinh vi và phức tạp, trong đó tội sản
xuõt, buôn bán hàng giả đang có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp.
Theo đánh giá của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) tổng
giá trị hàng giả được mua bán hàng năm trên thế giới khoảng 500 tỷ Euro
gấp đôi ngân sách nước Đức. Hiện nay hàng giả chiếm lĩnh 1/10 thương mại
thế giới, trong đó các loại hàng được làm giả nhiều nhất có: cứ 3 chiếc đĩa
CD thỡ cú 1 chiếc được sao chép trái phép; các mặt hàng như: quần áo, phụ
kiện may mặc, mỹ phẩm và nước hoa chiếm khoảng 1/3 tổng số hàng giả thế
giới, phần mềm máy tính là 35%, video, DVD và CD là 25%. Đồng hồ Thụy
Sỹ giả mạo được bán nhiều hơn hàng thật: 40 triệu chiếc giả so với 26 triệu
chiếc đồng hồ thật. Ta có thể thấy hàng giả đang lan tran khắp mọi nơi và trở
thành vấn nạn của cỏc quục gia, Việt Nam chúng ta cũng phải đối mặt với
vấn nạn này, đặc biệt là Hà Nội. Nạn hàng giả này không chỉ gây ra những
thiờt hại to lớn về kinh tế, làm tổn hại về vật chất, mất uy tín quốc gia, nhà
sản xuất, người tiêu dùng mà tai hại hơn nú cũn có thể gây ra những thiờt hại
về sức khỏe, tính mạng của con người. Từ thực tế này đòi hỏi phải có những
11
biệm pháp để ngăn chăn đẩy lùi nạn hàng giả, trong đó pháp luật hình sự là
một biện pháp hữu hiệu. Do đó vấn đề nghiên cứu khoa học, phân tích, đưa
ra quan điểm, giai pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự


cũng như nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử đối với tội sản xuất, buôn
bán hàng giả trong giai đoạn hiện nay.Chớnh vì vậy, chúng tôi chọn đề tài :
“Tội sản xuất, buôn bán hàng giả lý luân và thực tiễn tội phạm nay tại địa
bàn Hà Nội” để làm khóa luận tốt nghiệp.
Mục đích của khúa luõn là nghiên cứu một cách có hệ thống các quy
định về tôi sản xuất, buôn bán hàng giả theo BLHS năm 1999, từ đó đối
chiếu quy định pháp luật với thực tiễm xết xử để tìm ra những bất cập,
vướng mắc, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của tội
sản xuất, buôn bán hàng giả.
Nhiệm vụ của đề tài lai khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về
tội sản xuất, buôn bán hàng giả; nghiên cứu quy định của Điều 156,157,158
BLHS năm 1999 để thấy những tiến bộ, hạn chế cần khấc phục, sửa chữa;
tìm hiểu thực tiễn xét xử, đưa ra giải pháp để nâng cao hiệu quả của hoat
động này đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
Đối tượng nghiên cứu của đè tài là quy định của BLHS năm 1999 về tội
sản xuất, buôn bán hàng giả, thực tiễn xét xử tội phạm này trên địa bàn Hà
Nội những năm gần đây.
Phạm vi của đè tài là tội sản xuất, buôn bán hàng giả dưới góc độ luật
hình sự trong khoảng thời gian từ 2003 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu được sử dung trong khóa luận bao gồm:
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử, thống kờ….dựa trờn nền
tảng Chủ nghĩa Mỏc-Lờnin.
Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, thì khóa luận này có kết cấu như
sau:
12
Chương một: Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội sản xuất, buôn bán
hàng giả.
Chương hai : Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo BLHS năm 1999.
Chương ba : Thực tiễn xét xử tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn
Hà Nội.

13
CHƯƠNG MỘT
LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH
VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ
Bước vào những năm đầu thế kỷ 21, nước ta đang ngày càng tiến sâu hơn vào
quá trình hội nhập toàn diện với quốc tế và khu vực. Trước những tác động và
yêu cầu của quá trình hội nhập, đất nước ta đã có những thay đổi lớn về mọi
mặt của đời sống xã hội, trong đó sự thay đổi trong kinh tế là lớn nhất và quan
trọng nhất. Để quản lý “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh những
chính sách nhằm phát triển kinh tế thì pháp luật hình sự về các tội phạm xâm
hại đến trật tự quản lý kinh tế cũng phải ra đời và phù hợp, linh hoạt, chặt chẽ
hơn. Chương XVI – Bộ luật hình sự 1999 quy định “Các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế” đã đáp ứng phần nào những đòi hỏi này. Trong 29 điều luật
(từ điều 153 đến điều 181) thì tội sản xuất, buôn bán hàng giả được quy định
tại Điều 156,157,158 nhằm đấu tranh chống nạn hàng giả và buôn bán hàng
giả nói riêng và tội phạm kinh tế nói chung. Trong lịch sử lập pháp hình sự
nước ta, tội sản xuất, buôn bán hàng giả cũng đã được quy định và có sự trừng
trị rất nghiêm khắc. Có thể khái quát như sau:
1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi có BLHS năm 1985.
Ngày 2/9/1945, Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà - “Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á”. Nhà
nước và bộ máy của nó vừa mới được thành lập đã phải đương đầu với bao
khó khăn và thử thách: “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”… Để bảo vệ
thành quả của cách mạng, bảo vệ quyền và lợi Ých của giai cấp mình, nhiệm
vụ quan trọng và hàng đầu của Nhà nước ta là giữ vững an ninh quốc gia, ổn
định kinh tế đảm bảo đời sống của người dân. Nhiều chính sách luật được ra
đời (sắc luật) nhưng chưa thể cho ra đời một chính sách luật hình sự được
pháp điểm hoá do hoàn cảnh chưa cho phép. Trong khoảng thời gian từ năm
1945 đến năm 1975, đất nước ta liên tục có chiến tranh, cả nước tập trung toàn

14
bộ sinh lực vào cuộc chiến đấu các văn bản pháp luật mang tính hình sự ra đời
cũng chỉ tập trung vào việc quy định các tội liên quan đến cuộc chiến: như tội
phản cách mạng, tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa; các tội về kinh tế thì
là các tội đầu cơ; buôn bán hàng cấm… có ảnh hưởng nhiều đến cuộc đấu
tranh. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả trong giai đoạn này không hề được quy
định trong một văn bản pháp luật mang tính hình sự nào do hàng giả gây ra
được tác hại lớn nào đến đời sống nhân dân, việc sản xuất hàng hoá chỉ tập
trung cho cuộc chiến đấu và nhu cầu của người dân cũng được phần nào đáp
ứng đủ, bởi vậy hàng giả hầu như không có cơ hội phát triển. Năm 1975, đất
nước hoàn toàn giải phóng, nền kinh tế đất nước sau chiến tranh hết sức nghèo
nàn, lạc hậu; bọn tư sản mại bản được tiếp tay bởi tư sản nước ngoài không
ngừng gây rối loạn thị trường, trong đó nạn hàng giả cũng là một nguyên nhân
gây ra sự rối loạn đó. Nhằm ổn định thị trường, thắt chặt sự quản lý của Nhà
nước đối với nền kinh tế, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam
Việt Nam ban hành sắc luật số 03.SL ngày 15/3/1976 quy định về tội phạm và
hình phạt. Tội sản xuất hàng giả là mét trong các tội kinh tế.
“Điều 6. Tội kinh tế.
Tội kinh tế là tội gây thiệt hại về tài chính cho Nhà nước, cho Hợp tác xã
hoặc cho tập thể nhân dân, gây trở ngại cho việc khôi phục và phát triển sản
xuất, cho việc ổn định và cải thiện đời sống của nhân dân, gồm các tội:
- Sản xuất hàng giả cố ý lừa gạt người tiêu thụ;
- Kinh doanh trái phép, cố ý trốn tránh quy định của Nhà nước;
- Làm bạc giả, hoặc tiêu thụ bạc giả;

Phạm mét trong các tội trên đây, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm
năm và phạt tiền đến năm mươi nghìn đồng Ngân hàng hoặc một trong hai
hình phạt đó. Trường hợp nghiêm trọng, thì bị phạt tù đến hai mươi năm, tù
chung thân hoặc xử tử hình và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Việc quy định tội sản xuất hàng giả trong sắc lệnh 03.SL đã đáp ứng

được yêu cầu đấu tranh chống tội phạm về hàng giả trong tội phạm kinh tế.
15
Qua đó thể hiện được tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội sản xuất hàng giả
và thái độ của Nhà nước đối với tội phạm này là rất nghiêm khắc. Nhưng sắc
luật số 03.SL bên cạnh những ý nghĩa tích cực còn bộc lộ những hạn chế nhất
định và quy định tội sản xuất hàng giả cũng vậy. Sắc luật chưa thể hiện được
sự phân hoá cần thiết đối với tội phạm về kinh tế nói chung và tội sản xuất
hàng giả nói riêng. Điều 6 của sắc luật chỉ quy định “sản xuất hàng giả cố ý
lừa gạt người tiêu thụ” mà không quy định hành vi buôn bán hàng giả cũng là
tội phạm, không đưa ra các đối tượng hàng giả cụ thể như: hàng giả, hàng giả
là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh… mà chỉ quy định hàng giả chung
chung, việc quy định như vậy là không chính xác do nếu hàng giả là lương
thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh thì tính nguy hiểm của nó cao hơn hàng giả
là các vật dụng thông thường khác.Về hình phạt, điều luật quy định hình phạt
được áp dụng chung cho các tội phạm, việc quy định như vậy chưa cho thấy
được mức độ nguy hiểm của từng loại tội phạm. cũng nh chế tài áp dụng đối
với tội phạm đó. Nhưng sắc luật này vẫn được áp dụng chung trong cả nước từ
năm 1978. Để khắc phục hạn chế của sắc luật 03.SL và phù hợp hơn với tình
hình tình mới của nền kinh tế – xã hội, trên cơ sở của Hiến pháp năm 1985,
pháp lệnh số 7-LCT/HĐNN7 ban hành ngày 10/7/1982 - pháp lệnh trừng trị
các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, đây là văn bản
pháp luật đầu tiên quy định về các tội này cho đến trước khi BLHS năm 1985.
“Tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả” quy định tại Điều 5 pháp lệnh,
trong đó:
“Điều 5. Tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả.
1. Người nào làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả nhằm thu lợi bất
chính, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm và bị phạt tiền từ năm nghìn
đồng đến năm vạn đồng;
2. Phạm tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả là lương thực, thực
phẩm, thuốc chữa bệnh hoặc phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng quy

định ở khoản 1 điều 9 pháp lệnh này thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai
16
năm, bị phạt tiền đến năm trăm nghìn đồng và có thể bị tịch thu một phần tài
sản;
3. Phạm tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả có chất độc hại hoặc
các chất khác có thể nguy hiểm đến sức khoẻ, tính mạng người tiêu dùng,
hoặc phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định ở khoản 2
Điều 9 pháp lệnh này thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù
chung thân, bị phạt tiền đến một triệu đồng, và có thể bị tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản”.
“Tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả” được quy định trong pháp
lệnh đã thể hiện sự thay đổi cơ bản trong trình độ lập pháp so với sắc luật số
03.SL. Tội phạm này đã được quy định trong một điều luật riêng, trong đó:
hành vi buôn bán hàng giả đã được coi là tội phạm có tính nguy hiểm cho xã
hội tương đương với hành vi làm hàng giả; hàng giả đã được phân định thành
nhiều loại hàng với mức độ nguy hiểm khác nhau và chế tài áp dụng khác
nhau. Tuy nhiên pháp lệnh cũng có những hạn chế nhất định, các tình tiết như
“phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều
9 Pháp lệnh này” mà tại Điều 5 quy định hình phạt cao nhất là “tù chung
thân” thì Điều 8 quy định hình phạt có thể lên tới “tử hình”. Điều này thể hiện
tính không nhất quán của pháp luật đối với một hành vi phạm tội. Pháp lệnh
cũng chưa phân định được tội phạm và vi phạm pháp luật khác mà phải áp
dụng Nghị định 46/HĐBT ngày 10/5/1983 quy định về việc xử lý bằng biện
pháp hành chính các hành vi đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái
phép. Nghị định đưa ra một số các dấu hiệu định lượng và định tính để xác
định đâu là tội phạm, đâu là vi phạm pháp luật bị xử phạt hành chính đó là:
“vi phạm nhỏ là vi phạm trong trường hợp giá trị hàng phạm pháp dưới hai
vạn đồng, tính chất việc vi phạm không nghiêm trọng, tác hại gây ra cho sản
xuất, đời sống nhân dân, trật tự và an toàn xã hội là không nhiều, người vi
phạm không có tiền án, tiền sự, khi bị phát hiện không có hành động chống

lại cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ”, nhưng Nghị định cũng quy định nếu
“ hàng giả thuộc loại lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh thì bất cứ
17
trường hợp nào cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự” do loại hàng giả này có
tác động nguy hiểm hơn so với loại hàng giả khác. Trên thực tế khi áp dụng
pháp luật để xử lý một hành vi làm hoặc buôn bán hàng giả các cơ quan chức
năng phải căn cứ vào cả hai văn bản pháp luật này để xác định truy cứu trách
nhiệm hình sự hay xử lý bằng biện pháp hành chính phần nào gây những trở
ngại nhất định, không thuận tiện. Việc ra đời một BLHS là vấn đề cần thiết để
quy định cụ thể và khoa học về tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả nói riêng
và các tội phạm hình sự nói chung.
1.2. Giai đoạn từ khi BLHS năm 1985 ra đời đến khi ban hành BLHS
năm 1999.
1.2.1. BLHS năm 1985 quy định về tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng
giả.
Năm 1985, Bộ luật Hình sự Việt Nam đầu tiên và cũng là Bộ luật đầu
tiên của chúng ta được ban hành. Đây được coi là một mốc son trong lịch sử
lập pháp của nước ta. Từ đây các tội phạm không còn quy định riêng lẻ trong
các văn bản pháp luật dưới luật nữa mà được tập hợp trong mét BLHS. Mỗi
một tội phạm và hình phạt đối với tội đó được quy định trong một điều luật
riêng và được sắp xếp vào từng nhóm tội khác nhau. Cũng như vậy, “Tội làm
hàng giả, tội buôn bán hàng giả” thuộc nhóm “các tội phạm kinh tế” quy định
tại Điều 167 của Bộ luật.
“Điều 167. Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả
1. Người nào làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả thì bị phạt tù từ sáu
tháng đến 5 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây bị phạt tù từ ba
năm đến mười hai năm.
a. Hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, phòng bệnh;
b. Có tổ chức;

c. Lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc danh nghĩa Nhà nước, tổ chức xã
hội;
d. Hàng giả có số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn;
18
đ. Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ
mười năm đến hai mươi năm tù chung thân hoặc tử hình”.
Quy định trên cho thấy Điều 167-BLHS năm 1985 đã có tính kế thừa
pháp lệnh số 07-LCT/HĐNN7 nhưng cũng có những thay đổi có tính tiến bộ
hơn: ở khoản 2 của điều luật không đưa ra, thuật ngữ “Phạm tội trong trường
hợp nghiêm trọng” mà thay vào đó là các trường hợp cụ thể; về hình phạt,
Điều 167 chỉ quy định một loại hình phạt là tước tự do (tù). Việc quy định
hình phạt như thế này chưa thật khoa học nhưng cũng có sự tiến bộ hơn so với
Điều 5 pháp lệnh.
Để giải thích thế nào là hàng giả thì Nghị định 140/HĐBT ngày
25/4/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về kiểm tra xử lý việc sản xuất buôn bán
hàng giả và Thông tư liên Bộ số 1254-TTLB ngày 8/11/1991 của UBKHNN,
Bộ Thương mại và du lịch hướng dẫn thực hiện Nghị định 140/HĐBT đã đưa
ra định nghĩa hàng giả, dấu hiệu nhận biết hàng giả và phân biệt hàng giả với
hàng kém chất lượng. Trong đó: “hàng giả theo Nghị định này là những sản
phẩm, hàng hoá được sản xuất ra trái pháp luật có hình dáng giống như
những sản phẩm, hàng hoá được Nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và
tiêu thụ trên thị trường, hoặc những sản phẩm, hàng hoá không có giá trị sử
dụng đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên tên gọi công dụng của nó” (Điều
3 – Nghị định 140/HĐBT).
“Điều 4: Sản phẩm, hàng hoá có một trong những dấu hiệu dưới đây
được coi là hàng giả.
1. Sản phẩm, hàng hoá (kể cả nhập khẩu) có nhãn sản phẩm giả mạo
hoặc nhãn sản phẩm của một số cơ sở sản xuất khác mà không được chủ
nhãn đồng ý;

2. Sản phẩm, hàng hoá mang nhãn hiệu hàng hoá giống hệt hoặc tương
tự có khả năng làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá
của cơ sở sản xuất, buôn bán khác đã đăng ký với cơ quan bảo hộ quyền sở
19
hữu công nghiệp (Cục sáng chế) hoặc đã được bảo hộ theo Điều ước quốc tế
mà Việt Nam tham gia;
3. Sản phẩm, hàng hoá mang nhãn không đúng với nhãn sản phẩm đã
đăng ký với cơ quan tiêu chuẩn đo lường chất lượng;
4. Sản phẩm, hàng hoá ghi dấu phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam khi chưa
được cấp giấy chứng nhận và dấu phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam.
5. Sản phẩm, hàng hoá đã đăng ký hoặc chưa đăng ký chất lượng với cơ
quan tiêu chuẩn đo lường chất lượng mà có mức chất lượng thấp hơn mức tối
thiểu cho phép;
6. Sản phẩm, hàng hoá có giá trị sử dụng không đúng với nguồn gốc,
bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó”.
Từ đây ta có thể thấy hàng giả được chia thành 2 loại: hàng giả về hình
thức (sản xuất và sử dụng nhãn giả và bao bì mang nhãn giả hoặc sử dụng
nhãn của người khác, của cơ sở sản xuất khác mà không được phép của chủ
nhãn (bao gồm nhãn sản phẩm, nhãn hiệu hàng hoá và dấu phù hợp Tiêu
chuẩn Việt Nam); hàng giả về nội dung (hàng không có giá trị sử dụng, không
đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó; hoặc có
chất lượng dưới mức tối thiểu do Nhà nước quy định; nhằm đánh lừa gây thiệt
hại cho người tiêu dùng để thu lợi bất chính). Hàng giả là hàng có mức chất
lượng thấp hơn mức chất lượng tối thiểu còn hàng kém chất lượng là hàng có
mức chất lượng thấp hơn mức chất lượng ghi trên nhãn đăng ký song chưa vi
phạm mức chất lượng tối thiểu.
Qua những quy định trên, hàng giả đã được phần nào làm rõ hơn với
những dấu hiệu cụ thể của nó mà trước đây chưa hề có một văn bản pháp luật
nào của Nhà nước đưa ra khái niệm hàng giả. Nó có một ý nghĩa lớn trong
việc áp dụng để phân định hàng giả với hàng thật và hàng kém chất lượng.

Tuy nhiên thì định nghĩa và dấu hiệu này vẫn chưa phản ánh đúng bản chất
của hàng giả; hàng giả được chia thành hai lại trong đó có hàng giả về hình
thức nhưng từ định nghĩa đến dấu hiệu của loại hàng này cho thấy đây không
phải là hàng giả mà là hàng xâm phạm sở hữu trí tuệ. Việc đưa ra “mức chất
20
lượng tối thiểu” để phân biệt hàng giả và hàng kém chất lượng nhưng không
phải bất cứ loại hàng hoá nào cũng được quy định mức chất lượng tối thiểu
mà đa phần là không có. Do vậy việc áp dụng trong thực tế là rất khó khăn.
Bộ luật Hình sự năm 1985 với những hạn chế lịch sử của nó là: được xây
dựng trên cơ sở kinh tế xã hội của nền kinh tế bao cấp và trên cơ sở thực tiễn
của tình hình tội phạm của thời kỳ đó. Do vậy có thể nói ngay từ khi ra đời
BLHS đã ở trong tình trạng không phù hợp với chủ trương đổi mới cũng như
những đòi hỏi đổi mới. Do vậy trong khoảng 15 năm tồn tại, BLHS năm 1985
được sửa đổi bổ sung bốn lần. Trong đó Điều 167 được sửa đổi bổ sung hai
lần, ở lần sửa đổi bổ sung thứ hai (1992) Điều 167 được sửa theo hướng tăng
hình phạt lên mức cao hơn và bổ sung thêm đối tượng hàng mới là: “Vật liệu
xây dựng, phân bón thuốc trừ sâu”. Với sự sửa bổ sung mới này ta thấy được
các loại hàng giả ngày càng đa dạng hơn và việc tăng hình phạt lên mức cao
hơn thể hiện thái độ của Nhà nước là nghiêm khắc hơn đối với loại tội phạm
này. Mặc dù đã sửa đổi bổ sung nhưng Điều 167 vẫn có những hạn chế về các
nội dung và kỹ thuật lập pháp, nó đã tạo ra những khó khăn nhất định trong
việc áp dụng pháp luật như: việc không đưa ra định lượng cũng như định tính
để xác định một hành vi làm, buôn bán hàng giả là tội phạm hay vi phạm pháp
luật khác do vậy một người khi có hành vi làm, buôn bán hàng giả sẽ có 3 khả
năng có thể xảy ra: người đó có thể bị truy cứu TNHS theo Điều 167 BLHS;
có thể bị xử phạt hành chính theo Nghị định 57/CP ngày 31/5/1997 quy định
việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng
hoá; hoặc có thể bị xử lý bằng các biện pháp khác như: cảnh cáo, bị tịch thu
tài sản… Cả ba khả năng này cũng tồn tại cho thấy Điều 167 còn không kế
thừa được cả theo văn bản pháp luật trước đó là Pháp lệnh số 07.LCT/HĐNN

và Nghị định 46/HĐBT ngày 10/5/1983.
Để đáp ứng yêu cầu cấp thiết của sự phát triển kinh tế – xã hội và phát
triển của tội phạm về kinh tế đòi hỏi phải có pháp luật hình sự mới phù hợp và
tiến bộ hơn. Bộ luật hình sự 1999 ra đời là điều cần thiết đối với pháp luật nói
chung và pháp luật hình sự nói riêng.
21
1.2.2. Bộ luật hình sự 1999 và những tiến bộ của nó về tội sản xuất, buôn
bán hàng giả so với Bộ luật hình sự năm 1985.
Trước yêu cầu thực tế, BLHS năm 1999 được xây dựng trên cơ sở sửa
đổi, bổ sung một cách tương đối toàn diện BLHS năm 1985 nhưng có sự kế
thừa những nội dung tích cực của BLHS sau 4 lần sửa đổi, bổ sung. Còng theo
hướng chung của BLHS thì “tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả” cũng
được sửa đổi một cách khá toàn diện thể hiện tại “Điều 156. Tội sản xuất,
buôn bán hàng giả”, “Điều 157. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương
thưc, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh”, “Điều 158. Tội sản
xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y,
thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng vật nuôi”. Điều 167 BLHS năm 1985
quy định về tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả trong đó bao gồm các loại
hàng giả là: hàng giả nói chung; hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc
chữa bệnh phòng bệnh, hàng giả là phân bán thuốc trừ sâu và về bản chất thì
hàng giả được chia thành 2 loại là hàng giả về hình thức và hàng giả về nội
dung, thì nay BLHS 1999 đã tách các loại hàng giả trên thành các đối tượng
hàng giả được quy định tại các điều luật riêng như: Điều 156. Tội sản xuất
buôn bán hàng giả, Điều 157. Tội sản xuất buôn bán hàng giả là lương thực,
thực phẩm, thuốc chữa bệnh phòng bệnh; Điều 158. Tội sản xuất, buôn bán
hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bán, thuốc thú y, thuốc bảo vệ
thực vật, giống cây trồng vật nuôi và Điều171. Tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp. Việc tách ra như vậy là hoàn toàn phù hợp vì mỗi loại hàng giả
khác nhau có những tác hại và tác động đến các đối tượng khác nhau. Từ đó
trách nhiệm hình sự được áp dụng một cách đúng đắn hơn. Điều 156 quy định

“Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” về mặt nội dung có thay đổi so với Điều
167, phạm vi của đối tượng tác động là hàng giả ở đây được thu hẹp lại không
còn các loại hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, phân bón,
thuốc trừ sâu, nay đã là đối tượng tác động của Điều 157, 158; về kỹ thuật
lập pháp các thuật ngữ “phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng”
được cụ thể hoá, “hàng giả có số lượng lớn” đã được định lượng rõ ràng; về
22
hình phạt, hình phạt đã được giảm nhẹ hơn so với Điều 167 với mức cao nhất
là tù đến mười lăm năm, hình phạt bổ sung được quy định trong khoản 4 Điều
156 khác so với BLHS năm 1985 hình phạt bổ sung được quy định trong một
điều luật riêng áp dụng cho các tội phạm trong nhóm tội.
Với những điểm mới này của Điều 156,157,158 so với các văn bản pháp
luật trước đây quy định về tội phạm này thì điều 156,157,158 thể hiện được
một sự tương đối hoàn thiện và đầy đủ hơn mặc dù điều luật vẫn chưa khái
quát được thế nào là sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả mà chỉ quy định
tính chất, mức độ, hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
23
CHƯƠNG HAI
TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ THEO QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ.
BLHS năm 1999 được đánh giá là một sự phát triển mới của luật hình sự
Việt Nam. Bộ luật được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách
tương đối toàn diện BLHS năm 1985 nhưng có kế thừa những nội dung tích
cực, hợp lý của BLHS này qua các lần sửa đổi, bổ sung. Các “tội sản xuất,
buôn bán hàng giả” nằm trong chương các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế gồm các điều luật có đổi mới là Điều 156, 157và 158. Với mục đích
của khóa luận là nghiên cứu quy định của pháp luật về các “tội sản xuất,
buôn bán hàng giả” theo BLHSnăm 1999, chúng ta cần tìm hiểu một cách
có hệ thống các dấu hiệu pháp lý, hình phạt và phân biệt tội phạm này với
một tội phạm khác được quy định trong bộ luật.

Nhưng trước khi đi tìm hiểu những vấn đề trờn thỡ ta phải định nghĩa thế
nào là “tội sản xuất, buôn bán hàng giả”. Điều 156, 157, 158 không đưa ra
định nghĩa này, nhưng dưới góc độ khoa học pháp lý chúng ta có thể xây
dựng lên một định nghĩa về tội phạm này trên cơ sở của định nghĩa tội phạm
tại khoản 2 điều 8, Do đó:
“Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là hành vi làm ra, mua đi bán lại hàng
giả, do người có năng lực trỏch nhiờm hình sự thực hiện với lỗi cố ý xâm
phạm đến trật tự của nền sản xuất hàng hóa, làm mất ổn định thị trường,
xâm hại lợi ích người tiờu dựng”
2.1 Dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất buôn bán hàng giả:
Tội phạm được cấu thành bởi bốn yếu tố: khách thể của tội phạm, mặt
khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm.
Đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả thì bốn yếu tố này được thể hiện như
sau:
2.1.1 Khách thể của tội sản xuất buôn bán hàng giả :
24
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ
và bị tội phạm xâm hại. Khách thể của từng tội phạm cụ thể (khách thể trực
tiếp của tội phạm) là nhưng quan hệ xã hội cụ thể được quy phạm pháp luật
hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại trực tiếp của một tội phạm cụ thể.
Khách thể trực tiếp của tội sản xuất, buôn bán hàng giả là những quan hệ
xã hội trong lĩnh vực quản lý chất lượng hàng hóa, lưu thông, phân phối
hàng hóa trên thị trường và đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng.
Đối tượng của tội sản xuất và buôn bán hàng giả là các loại hàng giả. Vậy
hàng giả là gì? Và tại sao sản xuất buôn bán hàng giả lại xâm hại đến mối
quan hệ XH nêu trên.
Theo quan niệm chung thì hàng giả là những sản phẩm hàng hóa được
sản xuất trái pháp luật có như những sản phẩm, hàng hóa được nhà nước cho
phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ thị trường hoặc những sản phẩm, hàng
hóa không có giá trị sử dụng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi, công

dụng của nó.
Theo quy định của pháp luật, trước khi bộ luật hình sự 1999 ra đời, thì tại
Nghị Định 140/HĐBT ngày 25/4/1991cũng đưa ra định nghĩa về hàng giả và
6 dấu hiệu để hàng hóa bị coi là hàng giả, trong thông tư liên bộ 1254/TTLB
ngày 8/11/1991 cũng phân loại hàng giả và phân biệt hàng giả và hàng kém
chất lượng. Như đã phân tích ở mục 1.2.1 chương 1 khóa luận này thì những
định nghĩa, dấu hiệu và sự phân biệt này chưa chính xác và đầy đủ để nhận
biết hàng giả. Do vậy để giải thích đầy đủ và chính xác hơn thế nào là hàng
giả, tại thông tư liên tịch số 10/2001/TTLT ngày 27/4/2000 của Bộ thương
mại, Bộ tài chính, Bộ công an, Bộ khoa học công nghệ và môi trường hướng
dẫn chỉ thị số 31/1999/CT-TTG của thủ tướng chính phủ về đấu tranh chống
sản xuất và buôn bán hàng giả thì:
“ Hàng hóa có một trong những dấu hiệu sau đây được coi là hàng giả:
1. Hàng giả chất lượng hoặc công dụng:
25
1.1 Hàng hóa không có giá trị sử dụng hoặc giá trị sứ dụng không đúng
như ban chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó.
1.2 Hàng hóa đưa thêm tạp chất, chất phụ gia không được phép sử dụng
làm thay đổi chất lượng, không có hoặc cú ớt dược chất khác với tên dược
chất được ghi trờn nhón hoặc bao bì, không có hoặc không đủ hoạt chất,
chất hữu hiệu khác với tên hoạt chất, chất hữu hiệu ghi trên bao bì.
1.3 Hàng hóa không đủ thành phần nguyên liệu hoặc bị thay thế bằng
những nguyên liệu phụ tùng khỏc khụng bảm bảo chất lượng so với tiêu
chuẩn chất lượng hàng hóa đã công bố, gây hậu quả xấu đối với sản xuất,
sức khỏe người, động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi trường.
1.4 Hàng hóa thuộc danh mục tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng mà không thực
hiện gây hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khỏe người, động vật, thực vật
và môi sinh, môi trường.
1.5 Hàng hóa chưa được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn mà áp dụng giấy
chứng nhận hoặc dấu phù hợp tiêu chuẩn (đối với danh mục hàng hóa bắt

buộc).
2. Giả về nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc, xuất xứ hàng
hóa:
2.1 Hàng hóa có nhãn hiệu hàng hóa trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn
với nhãn hiệu hàng hóa của người khác đang được bảo hộ cho cùng loại
hàng hóa kể cả nhãn hiệu hàng hóa đang được bảo hộ theo các điều ước
quốc tế mà Việt Nam tham gia, mà không được phép của chủ nhãn hiệu.
2.2 Hàng hóa có dấu hiệu hoặc bao bì mang dấu hiệu trùng hoặc tương tự
gây nhầm lẫm với tên thương mại được bảo hộ hoặc với tên xuất xứ hàng
hóa được bảo hộ.
2.3 Hàng hóa, bộ phận của hàng hóa có hình dáng bên ngoài trùng với
kiểu dáng công nghiệp đang được bảo hộ mà không được phép của chủ kiểu
dáng công nghiệp.
26
2.4 Hàng hóa có dấu hiệu giả mạo về chỉ dẫn nguồn gốc, xuất xứ hàng
hóa gây hiểu sai lệch về nguồn gốc, nơi sản xuất, nơi đóng gói, lắp ráp
hàng hóa.
3.Giả về nhãn hàng hóa :
3.1 Hàng hóa cú nhón hàng hóa giống hệt hoặc tương tự với nhãn hàng
hóa của cơ sơ khỏc đó công bố.
3.2 Những chỉ tiêu ghi trờn nhón hàng hóa không phù hợp với chất lượng
hàng hóa nhằm lừa dối người tiêu dùng.
3.3 Nội dung ghi trờn nhón bị cạo, tẩy xóa, sửa đổi ghi không đúng thời
hạn sử dụng để lừa dối khách hàng.
4.Các ấn phẩm hàng hóa đã in sử dụng vào viờc sản xuất, tiêu thụ hàng
giả;
4.1 Các loại đề can, tem sản phẩm, nhãn hàng hóa, mẫu nhãn hiệu hàng
hóa, bao bì sản phẩm có dấu hiệu vi phạm như: trùng hoặc tương tự gây
nhầm lẫn với nhãn hàng hóa cùng loại, với nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng
công nghiệp, tên gọi xuất xứ hàng hóa được bảo hộ.

4.2 Các loại hóa đơn, chứng từ, chứng chỉ, tem,vộ, tiền, ấn phẩm có giá
trị như tiền, ấn phẩm và sản phẩm văn hóa giả mạo khỏc.”
Từ những quy định trờn thỡ hàng giả được chia làm ba loại:
-Hàng giả về nội dung: là hàng giả về chất lượng hoặc công dụng. Đây là
loại hàng hóa không có giá trị sử dụng hoặc có giá trị sử dụng không đúng
bản chất tự nhiên tên gọi và công dụng của loại hàng húa đú.
Ví dụ: Dùng bột mỳ để làm thuốc B1, dùng nước tinh khiết với muối để
làm thuốc nhỏ mắt…
-Hàng giả về hình thức: là hàng giả về nhãn hàng hóa, kiểu dáng công
nghiệp, nguồn gốc xuất xứ … Đây là loại hàng hóa mang nhãn hiệu, kiểu
dỏng… của cơ sở sản xuất khác nhưng có giá trị sử dụng.
Ví dụ: Những chiếc đồng hồ mang nhãn hiệu nổi tiếng của Thụy Sỹ
nhưng thực ra là đồng hồ Trung Quốc được làm với kiểu dáng và hình thức
27
giống hệt đồng hồ Thụy Sỹ. Hay những chiếc tỳi sỏch của hãng nổi tiếng
Louis Vuitton của Pháp được làm giả kiểu dáng giống hệt và chất liệu kém
hơn.
-Hàng giả về nội dung và hình thức: Đây là loại hàng hóa mang nhãn
hiệu kiểu dỏng… của cơ sở sản xuất khác vừa không có giá trị sử dụng mà
nó mang tên.
Ví dụ: Những chiếc tivi mang nhón mỏc và kiểu dáng của hãng Sony
nhưng thực tế bên trong là những linh kiện cũ và búng hỡnh được thay thế
bằng búng hỡnh của màn hình máy tính cũ và chỉ dùng một thời gian là bị
hỏng.
Hàng giả được phân ra là các loại như vậy là tương đối hợp lý và cũng
tạo điều kiện cho việc nhận biết hàng giả. Tuy nhiên trong thực tiễn đấu
tranh chống lại các tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả đều thống nhất coi
hai loại hang giả về nội dung và hàng giả cả về nội dung và hình thức là
hàng giả. Là đối tượng của tội phạm quy định tại các điều 156, 157, 158 của
Bộ luật hình sự năm 1999. Còn đối với loại hàng giả về hình thức thỡ cú hai

quan điểm khác nhau:
Có quan điểm cho rằng đây là hàng giả dự cú hay không có giá trị sử
dụng, thì hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả này thỏa mãn các cấu thành tội
phạm quy định tại điều 156, 157, 158 Bộ luật hình sự thì đều bị phải định tội
theo các điều này.
Có quan điểm khác lại coi loại hàng giả này là hàng hóa vi phạm quyền
sở hữu công nghiệp là đối tượng của tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp quy định tại Điều 171 BLHS vì hành vi sản xuất, mua bán hàng giả
này là sử dụng trái phép kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa của cơ
sở khác.
Vậy loại hàng hóa về hình thức là đối tượng của Điều 156, 157, 158 là
loại hàng giả như thế nào? Theo quy định của pháp luật Việt Nam về sở hữu
trí tuệ, cũng như quy định của các ĐƯQT về sở hữu trí tuệ mà Việt Nam ký
28
kết hoặc tham gia, thì nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn
gốc, xuất xứ, chỉ dẫn địa lý là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp. Và
việc bảo hộ của Nhà Nước đối với quyền của sở hữu công nghiệp là thông
qua văn bằng bảo hộ. Quy định này có nghĩa là muốn được nhà nước bảo hộ
quyền của mình đối với sáng chế, giải pháp hữu ích nhãn hiệu hàng hóa,
kiều dáng công nghiệp… thì phải đăng ký cơ quan quản lý nhà nước về sở
hữu công nghiệp và được cấp văn băng bảo hộ. Theo luật Tư Pháp Quốc tế
thì quyền sở hữu công nghiệp chỉ có hiệu lực trên phạm vi lãnh thổ mà nó
đăng ký bảo hộ và được cấp văn bằng bảo hộ. Căn cứ theo quy định trên của
pháp luật thì hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là loại hàng hóa
mang nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc xuất sứ của cơ
sở sản xuất khác đã đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp hoặc có văn
bản bảo hộ những loại hàng hóa này là đối tượng của điều 171 BLHS. Còn
loại hàng giả về hình thức là đổi tượng của điều 156,157,158 BLHS là loại
hàng hóa về nhãn hiệu, kiểu dỏng cụng nghiệp, nguồn gốc, xuất xứ… của cơ
sơ sản xuất khác chưa đăng ký bảo hộ quyên sở hữu công nghiệp hoặc

không có văn bằng bảo hộ sở hữu công nghiệp. Do vậy hai quan điểm trên
đều chưa chính xác.
Cũng tại Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT ngày 27/4/2000 tại mục IV
có đưa ra một số tiêu chí về hàng kém chất lượng. Theo đây:
“ Hàng hóa có một trong các dấu hiệu sau đây được coi là hàng kém chất
lượng:
1.Hàng hóa có giá trị sử dụng, công dụng nhưng các chỉ tiêu, thành
phần cấu tạo về chất lượng chưa đầy đủ như công bố trờn nhón hang hóa
hoặc quảng cáo, tiếp thị nhưng không gây hại đến sản xuất, sức khỏe người,
động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi trường.
2.Hàng hóa có một trong các chỉ tiêu chất lượng thuộc danh mục bắt
buộc áp dụng thấp hơn mức chất lượng tối thiểu đã công bố, nhưng không
29
gây hại đến sản xuất, sức khỏe người, động vật, thực vật, môi sinh, môi
trường.
3.Hàng hóa có chất lượng thực tế thấp hơn mức ghi trờn nhón hàng hóa
hoặc quảng cáo công bố nhưng không gây hại đến sức khỏe người, động
vật, thực vật.
4.Hàng hóa cũ tân trang, sửa chữa lại rồi mạo hàng mới để lừa dối
khách hàng, bán theo đơn giá của hàng mới.
5.Hàng húa đó bị đưa thêm tạp chất hoặc các nguyên liệu khác nhau làm
thay đổi định lượng hàng húa,nhưng khụng gây hại đối với sản xuất, sức
khỏe người, động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi trường”.
Qua quy định cho thấy, hàng kém chất lượng không còn được quy định
một cách chung chung như Thông tư liên bộ 1254/TTLB ngày 8/11/1999 là
những “sản phẩm có mức chất lượng thấp hơn mức chất lượng đã đăng ký
và ghi nhãn sản phẩm, song chưa vi phạm chất lượng tối thiểu” thì dấu hiệu
đưa ra ở thông tư số 10/2000/TTLT đã được cụ thể và rõ ràng hơn. Qua đõy
thỡ hàng giả và hàng kém chất lượng giống nhau ở chỗ là không đạt chất
lượng như đã đăng ký hay ghi trên bao bì nhón mỏc nhưng hàng giả khác

với hàng kém chất lượng ở chỗ: hàng giả không có giá trị sử dụng hoặc có
giá trị sử dụng nhưng thấp hơn “mức chất lượng tối thiểu” còn hàng kém
chất lượng là có giá trị sử dụng nhưng giá trị sử dụng của hàng hóa này là
trên “ mức chất lượng tối thiểu” đã công bố. Theo quy định này, thì mức
chất lượng tổi thiểu của hàng hóa đươc quy định tại các danh mục các loại
hang hóa phải đạt chất lượng bắt buộc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành và mức chất lượng tổi thiều do cơ sở sản xuất công bố đối với sản
phẩm của mình. Hàng giả cũn khỏc hàng kém chất lượng ở chỗ, việc sử
dụng hàng giả có thể dẫn đến những tổn hại về sức khỏe, tính mạng sức
khỏe con người, động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi trường. Còn hàng
kém chất lượng thỡ khụng gây hại đến sức khỏe người, động vật, thực vật
hoặc môi sinh, môi trường.
30
Hiện nay, trên thị trường hàng hóa rất đa dạng với rất nhiều chủng loại.
Hàng giả cũng như vậy nó rất đa dạng từ hang hóa làm giả đồ sản xuất trong
nước đến những hàng hóa nhập khẩu, từ những đồ dùng vật dụng thông
thường đến những hàng hóa cao cấp như chai nước khoáng, đồ điện tử, đồng
hồ đeo tay, nước hoa…
Từ những phân tích trên đây, chúng ta có thể khái quát như sau:
“Hàng giả là tất cả những loại hàng hóa từ thông thường đến cao cấp
được sản xuất trái pháp luật, có hình dỏng bờn ngoài giống như những sản
phẩm, hàng hóa được nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu, tiêu thụ trên
thị trường không đủ tiêu chuẩn chất lượng của nhà nươc; hoặc những sản
phẩm, hàng hóa không có giá trị sử dụng đúng nguồn gốc bản chất tự nhiên
tên gọi và công dụng của nó nhằm lừa dối người tiêu dùng với mục đích
cạnh tranh không lành mạnh và thu lợi bất chính”.
Hiên nay, Đảng và nhà nước ta đang chủ trương phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, cho nên nền sản xuất hàng hóa có một ý nghĩa
quyết định đến sự phát triển này. Chúng ta không chỉ cần sản xuất ra nhiều
hàng hóa mà chất lượng của những loại hàng đú cũn phải đáp ứng được yêu

cầu của con người đang ngày một tăng lên. Hàng giả xuất hiện trên thị
trường với nhiều hình thức tinh vi, bề ngoài giống như hàng thật lưu thông,
phân phối trên thị trường hoặc được trộn lẫn với hàng thật dễ bán. Từ đó gây
ra những tác động xấu về mặt kinh tế, xã hội , giảm lòng tin của người tiêu
dùng với nhà sản xuất nhằm cạnh tranh không lành mạnh và còn có thể gây
thiệt hại tính mạng, sức khỏe con người. Đối với nên kinh tế, hàng giả và
buôn bán hàng giả có ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế quốc dân, đến việc
thực hiện chính sách kinh tế gây khó khăn cho việc quản lý thị trường của cơ
quan chức năng, nhà nước sẽ mất đi một khoản thu cho ngân sách, gặp nhiều
khó khăn trong lĩnh vực quản lý các lĩnh vực sản xuất, điều phối, lưu thông
hàng hóa. Là nguyên nhân gây mất ổn định thị trường, ảnh hưởng tới hợp tác
kinh tế quốc tế. Đối với nhà sản xuất thì hàng giả không chỉ gây ra những
31
thiệt hại về tài chính mà nú cũn giảm uy tín, lòng tin của người tiêu dùng đối
với nhà sản xuất, đây là một thủ đoạn canh tranh không lành mạnh. Đối với
người tiêu dùng thì ngoài những thiệt hại về tiền bạc, nhu cầu sử dụng không
được đáp ứng thì hàng giả không có giá trị sử dụng hoặc có giá trị sử dụng
nhưng không đạt tiêu chuẩn cho phép có thể gây ra những tổn hai sức khỏe
và tính mạng đối với người tiêu dùng. Đặc biệt, hàng giả là lương thực, thực
phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh thì nhưng tác hại mà nó có thể
gây ra cho con người là rất nhanh chóng và rất lớn, nó trực tiếp ảnh hưởng
tới sức khỏe và sinh mệnh của người dân.
Ví dụ: Vụ án Quách Thị Lành – Công ty TNHH dược phẩm Anh Ngọc
(Cầu Giấy- Hà Nội) sản xuất thuốc tránh thai bằng bột mỳ, thuốc giảm đau
bằng nước cất, dùng thuốc quá date đòng bao bì thuốc mới…Những loại
thuốc giả nay khi vào cơ thể người bệnh vốn sức khỏe đã yếu, không có tác
dụng chữa bệnh mà còn có thể dẫn đến những tác động xấu hơn cho sức
khỏe của họ, cũn cú nguy cơ dẫn đến tử vong. Hay rượu ngoại giả được pha
bằng cồn có nồng độ cao, hương liệu và phẩm màu gây ngộ độc cho người
uống…Trứng gà giả, bỏnh bao nhõn bỡa cỏttụng…

Hàng giả là các loại thức ăn dùng để chăn nuôi, phõn bón, thuốc thú y,
thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi, nước ta hiên nay vẫn là một
nước nông nghiệp việc sản xuất nông nghiệp vẫn được coi là chủ chốt của
nền kinh tế cho nên việc sản xuất, buôn bán những loai hàng giả trên gây
thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng thu nhập của người nông dân,
đe dọa an ninh lương thực của quốc gia, ành hưởng tới môi trường, môi sinh
…thờm vào đó những loại hàng giả là thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y,
giống cây trồng, vật nuôi không những giả mà còn có thể mang trong nó
những chất độc hại, khi con người sử dụng chúng những chất độc nay tích
trữ trong cơ thể con người gõy bờnh.
32
Ví dụ : phân bón được làm từ cát, muối, bột màu trộn đều và đóng bao
giả hiệu phõn lân, kali…không có tác dụng bón cho cây mà còn có thể gây
bạc màu cho đất. Giống ngô giả khi trồng có bắp mà không có hạt ….
Hàng giả là các loai hàng hóa khác (trừ những loại hàng đã nêu trên).
Những mặt hàng này có nguy cơ gây thiệt hai trực tiếp cho con người về sức
khỏe là không nhiều nhưng thiệt hại mà nó gây ra cho nền sản xuõt hàng hóa
và tài chính của nhà sản xuất là không nhỏ.
Ví dụ: Đồng hồ Thụy Sỹ giả được bán nhiều hơn là đồng hồ thật, 40 triệu
chiếc giả so với 26 triệu chiếc đồng hồ thật. Hay 10% tổng số sản phẩm
công nghệ cao đang bày bỏn trờn toàn thế giới là hàng giả- nhà sản xuất
thiờt hại về doanh thu mỗi năm lên tới 100 tỷ USD. Dây điện giả không đạt
chất lượng khi sử dụng có thể mát và hở điện khi có người chạm vào có thể
gây ra điện giật dẫn đến chết người.
Do vậy, hàng giả và buôn bán hàng giả cần phải được ngăn chặn và xử lý
nghiêm minh để bảo vệ những quan hệ xã hội trên.
2.1.2 Mặt khách quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
Bất kỳ một tội phạm nào khi xảy ta cũng đều có những biểu hiện diễn ra
hoặc tồn tại bên ngoài mà con người có thể trực tiếp nhận biết được nó như:
hành vi, hậu quả cho xã hội, mối quan hệ giữa hành vi va hậu quả, các điều

kiện bên ngoài khi thực hiện hành vi. Tổng hợp những điều kiện trên tạo
thành mặt khách quan của tội pham. Mặt khách quan của tội phạm là mặt
bên ngoài của tội phạm bao gồm những biểu hiện của tội phạm bao gồm
những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách
quan . Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội
pham không có mặt khách quan thì cũng không cú cỏc yếu tố khác của tội
phạm và cũng không có tội phạm.
“Trong mặt khách quan của tội phạm thì hành vi khách quan là biểu hiện
cơ bản, những biểu hiện khác của mặt khách quan chỉ có ý nghĩa khi có
hành vi khách quan”. Các “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” thọat nhìn ban
33
đầu thì có thể cho đây là điều luật quy định một hành vi khách quan là hành
vi sản xuất buôn bán hàng giả, nhưng khi xem xét ta thấy đây là một điều
luật nhưng quy định một tội danh nhưng bao gồm hai hành vi khách quan đó
là hành vi sản xuất hàng giả và hành vi buôn bán hàng giả. Mỗi hành vi
khách quan này có thể độc lập riêng rẽ với nhau tạo thành các tội như tội
sản xuất hàng giả, tội buôn bán hàng giả, hoặc có thể đi liên nhau hành vi
nay là tiền đè cho hành vi kia và ngược lại tạo cấu thành tội sản xuất, buôn
bán hàng giả.
Hành vi sản xuất hàng giả là hành vi làm ra (tạo ra) các loại hàng giả
(như đó nêu ở 2.1.1). Làm ra hàng giả là làm với hoàn toàn hoặc lắp ráp từ
những bộ phận giả của hàng hóa. Người phạm tội có thể tham gia vào cả quá
trình làm ra hàng giả từ đầu đến cuối hoặc chỉ có thể tham gia vào một công
đoạn của quá trình làm ra hàng giả như: lắp ráp, chế biến, đóng gói, dán
nhãn hiệu để tạo ra hàng giả. Hàng giả được sản xuất ra chủ yếu bằng
phương pháp công nghiệp theo một quy trình từ nguyên liệu đến sản phẩm.
BLHS năm 1999 không sử dụng thuật ngữ “làm” hàng giả như Điều 167
BLHS năm 1985 mà sử dụng thuật ngữ “Sản xuất” hàng giả, sự khác biệt
này có những ý nghĩa nhất định. Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức sản xuất
mà trong đó có sự phân công lao động và sản phẩm được làm ra phải trải

qua nhiều khâu khác nhau của một quá trình sản xuất, được thực hiện theo
một quy trình từ nguyên liệu đến sản phẩm. Sản xuất hàng giả như vậy, việc
sản xuất hàng giả là việc tạo ra hàng giả trong đó cũng có sự phân công lao
động ra cỏc khõu của quá trình sản xuất, hàng giả làm ra phải trải qua cỏc
khõu đú. Do vậy để sản xuất phải có từ hai người trở lên hoặc phải có máy
móc và trang thiết bị kỹ thuật số lượng hàng giả làm ra là tương đối nhiều.
Còn việc “làm” hàng giả là tạo ra sản phẩm giả trên cơ sở bắt chước kiểu
dáng, tính năng của một loại hàng hóa nào đó, người làm hàng giả làm ta nó
theo phương pháp thủ công, không có quy trình kỹ thuật nhất định nào, số
lượng hàng giả làm ra là không nhiều. Việc Điều 156, 157,158 quy định như
34
vậy có tính hợp lý hơn rất nhiều, do mục đích của tội phạm là hàng giả làm
ra để lừa dối khách hàng nhằm thu lợi bất chính. Với mục đích như vậy mà
sử dụng thuật ngữ “làm” để chỉ hành vi khách quan của tội phạm này có thể
dẫn đến nhầm lẫn với hành vi khách quan của tội phạm khác hoặc cũng có
thể là hành vi khác mà không phải tội phạm. Cụ thể là: nếu một người làm ta
một sản phẩm được coi là hàng giả, người này đem bán cho người khác nói
dối về chất lượng của sản phẩm hay tên gọi của sản phẩm đó để thu tiền “từ
500 nghìn đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 500 nghìn đồng nhưng
gây hậu quả nghiờm trọng” thì người đó phạm tội tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản theo quy định tại Điều 139 BLHS. Nhưng nếu người đó chỉ làm ra sản
phẩm giả đó để sử dụng cho nhu cầu sinh hoạt của bản thân và gia đình
mỡnh thỡ người đó không được coi là hành vi làm hàng giả và không vi
pham pháp luật.
Do vậy việc sử dụng thuật ngữ “sản xuất” để thực hiện hành vi khách
quan của tội sản xuất hàng giả là chính xác và khụng gõy nhầm lẫn.
Hành vi buôn bán hàng giả là hành vi dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác
để mua đi, bán lại những hàng hóa mà biết là hàng giả để thu lợi bất chính.
Có thể thấy các hành vi khách quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả
đều được thể hiện dưới dạng hành động. Người phạm tội phải tiến hành một

hoạt động cụ thể tác động một cách trực tiếp vào quan hệ xã hội cụ thể.
Đối với hành vi sản xuất hàng giả người phạm tội phải tiến hành một
loạt các hành động như: lắp ráp, dỏn nhón… ngoài ra người phạm tội phải
chuẩn bị trước mọi thứ như nguyên liệu, máy móc, nhà xưởng, dự trù loại
hàng hóa sản xuất, móc nối để tiêu thụ, do vậy họ bắt buộc phải thể hiện
bằng hành động.
Đối với hành vi buôn bán hàng giả là hành vi mua đi bán lại hàng hóa
giả. Người phạm tội phải tìm mối mua hàng giả, chuẩn bị kho bãi tập kết
hàng, vẫn chuyển hàng, sau đó bán lại hàng giả đó cho người khác để thu lợi
bất chính.
35

×