Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo điều 156 bộ luật hình sự lý luân và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.67 KB, 56 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện đường nối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đã được đề ra từ Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ sáu năm 1986 trong hơn 20 năm qua nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn như: chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng cao, trật tự
an ninh xã hội được giữ vững, tỷ lệ xóa mù chữ là cao nhất thế giới….mặc dù bước
đầu đã gặp không ít chông gai. Hiện nay trong mắt bạn bè thế giới Việt Nam đã trở
thành đối tác đáng tin cậy. Để đưa đất nước tiến lên CNXH thì vấn đề phát triển
kinh tế có ý nghĩa then chốt, quyết định. Với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, chúng ta đang
phải đương đầu với rất nhiều những khó khăn thử thách rất lớn. Tình hình tội
phạm kinh tế trong giai đoạn hiện nay đang ngày càng gia tăng, tinh vi và phức tạp,
trong đó tội sản xuất, buôn bán hàng giả đang có chiều hướng gia tăng và diễn biến
phức tạp.
Theo đánh giá của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) tổng giá trị
hàng giả được mua bán hàng năm trên thế giới khoảng 500 tỷ Euro gấp đôi ngân
sách nước Đức. Hiện nay hàng giả chiếm lĩnh 1/10 thương mại thế giới, trong đó
các loại hàng được làm giả nhiều nhất có: cứ 3 chiếc đĩa CD thì có 1 chiếc được
sao chép trái phép; các mặt hàng như: quần áo, phụ kiện may mặc, mỹ phẩm và
nước hoa chiếm khoảng 1/3 tổng số hàng giả thế giới, phần mềm máy tính là 35%,
video, DVD và CD là 25%. Đồng hồ Thụy Sỹ giả mạo được bán nhiều hơn hàng
thật: 40 triệu chiếc giả so với 26 triệu chiếc đồng hồ thật. Ta có thể thấy hàng giả
đang lan tran khắp mọi nơi và trở thành vấn nạn của các quốc gia, Việt Nam chúng
ta cũng phải đối mặt với vấn nạn này. Nạn hàng giả này không chỉ gây ra những
thiêt hại to lớn về kinh tế, làm tổn hại về vật chất, mất uy tín quốc gia, nhà sản xuất,
người tiêu dùng mà tai hại hơn nó còn có thể gây ra những thiêt hại về sức khỏe,
tính mạng của con người. Từ thực tế này đòi hỏi phải có những biệm pháp để ngăn
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chăn đẩy lùi nạn hàng giả, trong đó pháp luật hình sự là một biện pháp hữu hiệu.
Do đó vấn đề nghiên cứu khoa học, phân tích, đưa ra quan điểm, giải pháp nhằm


hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự cũng như nâng cao hiệu quả của hoạt
động xét xử đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả trong giai đoạn hiện nay. Chính
vì vậy, chúng tôi chọn đề tài : “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo Điều 156
Bộ luật hình sự lý luân và thực tiễn” để làm khóa luận tốt nghiệp.
Mục đích của khóa luân là nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định về
tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo BLHS năm 1999, từ đó đối chiếu quy định
pháp luật với thực tiễn xét xử để tìm ra những bất cập, vướng mắc, qua đó đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử tội sản xuất, buôn
bán hàng giả.
Nhiệm vụ của đề tài là khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tội
sản xuất, buôn bán hàng giả; nghiên cứu quy định của Điều 156 BLHS năm 1999
để thấy những tiến bộ, hạn chế cần khắc phục, sửa chữa; tìm hiểu thực tiễn xét xử,
đưa ra giải pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động này đối với tội sản xuất, buôn
bán hàng giả.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy định của Điều156 BLHS năm 1999
về tội sản xuất, buôn bán hàng giả, thực tiễn xét xử tội phạm này trong những năm
gần đây(2003-2007).
Phạm vi của đề tài là tội sản xuất, buôn bán hàng giả dưới góc độ luật hình
sự trong khoảng thời gian từ 2003 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong khóa luận bao gồm: phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử, thống kê….dựa trên nền tảng Chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, thì khóa luận này có kết cấu như sau:
Chương một: Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội sản xuất, buôn bán
hàng giả.
Chương hai: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo BLHS năm 1999.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương ba: Thực tiễn xét xử tội sản xuất, buôn bán hàng giả trong những
năm gần đây(2003-2007).

3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH VỀ
TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ
Bước vào những năm đầu của thế kỷ 21, nước ta đang tiến sâu hơn vào quá
trình hội nhập toàn diện với quốc tế và khu vực. Trước những tác động và yêu cầu
của quá trình hội nhập đất nước ta đã có những thay đổi lớn về mọi mặt, trong đó
sự thay đổi trong kinh tế là lớn nhất và quan trọng nhất. Để quản lý tốt “nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” theo đúng chủ trương đường nối của
Đảng và Nhà nước. Bên cạnh những chính sách về phát triển kinh tế thì chính sách
hình sự về các tội phạm xâm hại tới trật tự quản lý kinh tế cũng phải ra đời và phù
hợp, linh hoạt, chặt chẽ hơn. Chương XVI- BLHS năm 1999 quy định “Các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” đã đáp ứng phần nào đòi hỏi này. Trong 29 điều
luật (từ Điều 153 đến Điều 181) thì “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” được quy
định tại Điều 156 nhằm đấu tranh chống nạn hàng giả, buôn bán hàng giả nói riêng
và các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung. Lịch sử lập pháp hình
sự nước ta về “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả”cũng đã được quy định và có sự
trừng trị rất nghiêm khắc đối với các hành vi phạm tội này. Có thể khái quát như
sau:
1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi có BLHS năm 1985
Ngày 2/9/1945 Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời - “Nhà nước công
nông đầu tiên của Đông nam á”. Nhà nước và bộ máy của nó vừa mới được thành
lập đã phải đương đầu với bao khó khăn và thử thách: “giặc đói, giặc dốt, giặc
ngoại xâm,…” Để bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng tháng tám năm 1945, bảo
vệ quyền và lợi ích của giai cấp mình, nhiệm vụ quan trọng và hàng đầu của nhà
nước ta là giữ vững an ninh quốc gia, ổn định kinh tế đảm bảo đời sống cho nhân
dân. Nhiều chính sách luật được ra đời (Sắc luật) nhưng chưa thể cho ra đời một
chính sách Luật hình sự được pháp điển hóa do hoàn cảnh lịch sử chưa cho phép.
4

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong khoảng tời gian từ năm 1945 đến năm 1975, đất nước ta liên tục có chiến
tranh, cả nước tập trung toàn bộ sinh lực vào cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước, các
văn bản pháp luật mang tính hình sự ra đời cũng chỉ tập chung vào quy định các tội
có liên quan đến cuộc chiến như: tội phản cách mạng; tội xâm phạm tài sản xã hội
chủ nghĩa; các tội về kinh tế thì là: tội đầu cơ, buôn bán hàng cấm…có ảnh hưởng
nhiều tới cuộc chiến tranh. “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” trong giai đoạn này
không hề được quy định trong bất kỳ một văn bản pháp luật mang tính hình sự nào.
Do tại thời điểm này, nền kinh tế nước ta còn bao cấp mà tất cả sinh lực của đất
nước đều tập chung cho cuộc chiến tranh, hành hóa lưu thông trên thị trường đều
do các doanh nghiệp nhà nước sản xuất hoặc do các nước viên trợ, chính vì vậy mà
hàng giả gần như là không có cơ hội phát triển.
Năm 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, nền kinh tế đất nước sau chiến
tranh hết sức nghèo nàn và lạc hậu, bọn tư sản mại bản được sự tiếp tay của tư sản
nước ngoài không ngừng gây rối loạn thị trường, trong đó nạn hàng giả cũng là một
trong những nguyên nhân gây rối loạn. Nhằm ổn định thị trường, thắt chặt sự quản
lý nhà nước đối với nền kinh tế, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền nam
Việt Nam ban hành Sắc luật số: 03.SL ngày 15/3/1976 quy định về tội phạm và
hình phạt. “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” cũng được quy định tại Sắc luật này
trong các tội kinh tế:
“Điều 6. Tội kinh tế.
Tội kinh tế là tội gây thiệt hại về tài chính cho Nhà nước, cho Hợp tác xã
hoặc cho tập thể nhân dân, gây trở ngại cho việc khôi phục và phát triển sãn xuất,
cho việc ổn định đời sống nhân dân, gồm các tội:
- Sản xuất hàng giả cố ý lừu gạt người tiêu thụ;
- Kinh doanh trái phép, cố ý trốn tránh quy định của Nhà nước;
- Làm bạc giả, hoặc tiêu thụ bạc giả;

5
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Phạm một trong các tội trên đây, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm và
phạt tiền đến năm mươi nghìn đồng Ngân hàng hoặc một trong hai hình phạt đó.
Trong trường hợp nghiêm trọng, thì phạt tù đến hai mươi9 năm, tù chung thân
hoặc xử tử hình và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Việc quy định tội sản xuất hàng giả trong Sắc luật số: 03.SL đã đáp ứng phần
nào yêu cầu đấu tranh chống tội phạm về hàng giả trong tội phạm về kinh tế. Qua
đó thể hiện được tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội sản xuất hàng giả và thái
độ của Nhà nước đối với tội phạm này là rất nghiêm khắc. Nhưng Sắc luật số:
03.SL bên cạnh những ý nghĩa tích cực còn bộc lộ những hạn chế nhất định và quy
định tội sản xuất hàng giả cũng vậy. Sắc luật chưa có sự phân hóa các tội phạm về
kinh tế nói chung và tội sản xuất hàng giả nói riêng. Điều 6 của Sắc luật chỉ quy
định “Sản xuất hàng giả cố ý lừu gạt người tiêu thụ” mà không quy định hành vi
buôn bán hàng giả cũng là tội phạm, không đưa ra những đối tượng hàng giả cụ thể
như: hàng giả; hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, …mà chỉ quy
định hàng giả chung chung, thậm chí còn không có một văn bản pháp luật nào
hướng dẫn hàng giả là loại hàng hóa như thế nào? Việc quy định như vậy là không
cụ thể và đầy đủ. Về hình phạt, điều luật quy định hình phạt áp dụng chung cho các
tội phạm, việc quy định như vậy chưa cho thấy rõ mức độ nguy hiểm cho xã hội
của từng loại tội phạm, cũng như chế tài áp dụng đối với tội phạm đó. Là văn bản
pháp luật đầu tiên quy định về các tội phạm thuộc lĩnh vực kinh tế như thế này thì
Sắc luật còn quá nhiều những hạn chế cả về kỹ thuật lập pháp cũng như khả năng
áp dụng trong thực tiễn của pháp luật, gây ra không ít những khó khăn trong việc
giải quyết các vụ án trong thực tiễn xét xử của tòa án. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử
mà Sắc luật này vẫn được áp dụng trong cả nước từ năm 1978 cho đến năm 1982.
Để khắc phục những hạn chế, thiếu xót của Sắc luật số: 03.SL và phù hợp
hơn với tình hình mới của nền kinh tế, trên cơ sở của Hiến pháp năm 1980, Pháp
lệnh số: 07-LCT/HĐNN7 ban hành ngày 10/7/1982 pháp lênh trừng trị các tội đầu
cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368

quy định về các tội này cho đến trước khi có BLHS năm 1985. “Tội làm hàng giả
hoặc buôn bán hàng giả” quy định tại Điều 5 Pháp lệnh, trong đó:
“Điều 5. Tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả.
1. Người nào làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả nhằm thu lợi bất chính,
thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm và bị phạt tiền từ năm nghìn đồng đến
năm vạn đồng;
2. Phạm tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm,
thuốc chữa bệnh hoặc phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng quy định tại Khoản
1 Điều 9 pháp lệnh này thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm, bị phạt tiền đến
năm trăm nghìn đồng và có thể bị tịch thu một phần tài sản;
3. Phạm tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả có chất độc hại hoặc các
chất khác có thể nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng, hoặc phạm
tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Khoản2 Điều 9 Pháp lệnh
này thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân, bị phạt tiền
đến một triệu đồng, và có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
“Tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả” được quy định trong Pháp lệnh
đã thể hiện một sự thay đổi căn bản về trình độ lập pháp so với Sắc luật số:03/SL.
Không còn quy định đơn giản chỉ một câu mà tội phạm này đã được quy định trong
một điều luật riêng, trong đó hành vi buôn bán hàng giả đã được coi là tội phạm và
có tính nguy hiểm cho xã hôi tương đương với hành vi làm hàng giả; hàng giả đã
được phân định thành nhiều loại hàng giả với mức độ nguy hiểm khác nhau và chế
tài áp dụng với từng loại hàng giả khác nhau. Tuy nhiên, Pháp lệnh cũng có những
hạn chế nhất định. Các tình tiết như: “ phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm
trọng quy định tại Khoản 2 Điều 9 Pháp lệnh này thì bị phạt tù từ mười năm đến
hai mươi năm hoặc tù chung thân” mà theo quy định tai Điều 8 của Pháp lệnh thì
trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì hình phạt cao nhất là “tử hình”. Những
quy định này thể hiện tính không nhất quán của pháp luật đối với hành vi phạm tội.
Pháp lệnh cũng chưa phân định được tội phạm và vi phạm pháp luật khác mà phải
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368

áp dụng Nghị định 46/HĐBT ngày 10/5/1983 quy định về việc xử lý bằng biện
pháp hành chính các hành vi đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép,
Nghị định này đưa ra một số các dấu hiệu định lượng và định tính để xác định tội
phạm và vi phạm pháp luật bị xử phạt vi phạm hành chính, cụ thể là:
“Mọi hành vi đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép thuộc
loại vi phạm nhỏ chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự đêù bị xử lý bằng các
biện pháp hành chính theo quy định của Nghị định này.
Vi phạm nhỏ là vi phạm trong trường hợp giá trị hàng phạm pháp dưới hai
vạn đồng, tính chất việc vi phạm không nghiêm trọng, tác hại gây ra cho sản xuất,
đời sống nhân dân, trật tự và an toàn xã hội là không nhiều, người vi phạm không
có tiền án, tiền sự, khi bị phát hiện không có hành vi chống lại cán bộ, nhân viên
làm nhiệm vụ”, nhưng Nghị định cũng nêu “…hàng giả thuộc loại lương thực,
thực phẩm, thuốc chữa bệnh thì bất cứ trường hợp nào cũng bị truy cứu trách
nhiệm hình sự” do loại hàng giả này có mức độ nguy hiểm cao hơn so với các loại
hàng giả khác. Trên thực tế khi áp dụng pháp luật để xử lý một hành vi làm hoặc
buôn bán hàng giả các cơ quan chức năng phải căn cứ vào cả hai văn bản pháp luật
này để xác định truy cứu TNHS hay xử lý bằng các biện pháp hành chính, phần nào
đã gây ra những trở ngại nhất định, không thuận tiện. việc cho ra đời một BLHS là
vấn đề cần thiết để quy định cụ thể và khoa học về tội làm hàng giả, buôn bán hàng
giả nói riêng và các tội phạm hình sự nói chung.
2. Giai đoạn từ khi BLHS năm 1985 ra đời đến khi ban hành BLHS năm 1999
2.1. BLHS năm 1985 quy định về tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả
Năm 1985, BLHS Việt Nam đầu tiên và cũng là bộ luật đầu tiên của nước ta
được ban hành. Đây được coi là một mốc son trong lịch sử lập pháp của nước ta.
Từ đây các tội phạm không còn được quy định riêng lẻ trong các văn bản pháp luật
dưới luật nữa mà được tập hợp trong một BLHS. Mỗi một tội phạm và hình phạt
đối với tội phạm đó được quy định trong một điều luật riêng và được sắp xếp vào
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
từng nhóm tội khác nhau. Cũng như vậy, “Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng

giả” thuộc nhóm “Các tội kinh tế” quy định tại Điều 167 của Bộ luật.
“Điều 167. Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả.
1. Người nào làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả thì bị phạt tù từ sáu
tháng đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây bị phạt tù từ ba năm
đến mười hai năm.
a. Hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, phòng bệnh;
b. Có tổ chức;
c. Lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc danh nghĩa Nhà nước, tổ chức xã hội;
d. Hàng giả có số lương lớn thu lợi bất chính lớn;
đ. Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong những truờng hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ
mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.”
Quy định trên cho thấy Điều 167 BLHS năm 1985 đã có tính kế thừa Pháp
lệnh số: 07-LCT/HĐNN7 nhưng cũng có những thay đổi có tính tiến bộ hơn:
Khoản 1 không đổi so với Pháp lệnh mà chỉ thay đổi về hình phạt; ở Khoản 2
không đưa ra thuật ngữ “ phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng” mà thay vào
đó là các trường hợp cụ thể; về hình phạt, Điều 167 chỉ quy định một loại hình phạt
là tước tự do (tù) khác so với tại Pháp lệnh 07 quy định hai loại hình phạt là hình
phạt tù và hình phạt tiền. Việc quy định như vậy theo chúng tôi thì chưa thực sự
khoa học.
Để giải thích thế nào là hàng giả thì tại Nghị định 140/HĐBT ngày
25/4/1991 của Hội đồng bộ trưởng về kiểm tra xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng
giả và Thông tư liên bộ số: 1254-TTLB ngày 8/11/1991 của Ủy ban khoa học Nhà
nước, Bộ thương mại và du lịch hướng dẫn thực hiện Nghị định 140/HĐBT đã đưa
ra định nghĩa hàng giả, các dấu hiệu nhận biết hàng giả và phân biệt hàng giả với
hàng kém chất lượng. Trong đó: “ Hàng giả theo Nghị định này là những sản
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phẩm, hàng hóa được sản xuất ra trái pháp luật có hình dáng giống như những sản

phẩm, hàng hóa được Nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ trên thị
trường, hoặc những sản phẩm, hàng hóa không có giá trị sử dụng đúng với nguồn
gốc, bản chất tự nhiên tên gọi công dụng của nó.” (Điều 3- Nghị định 140/HĐBT).
“Điều 4: Sản phẩm, hàng hóa có một trong những dấu hiệu dưới đây được
coi là hàng giả.
1. Sản phẩm, hàng hóa (kể cả nhập khẩu) có nhãn sản phẩm giả mạo hoặc
nhãn sản phẩm của một cơ sở sản xuất khác mà không được chủ nhãn đồng ý;
2. Sản phẩm, hàng hóa mang nhãn hiệu hàng hóa giống hệt hoặc tương tự
có khả năng làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hóa của cơ sở
sản xuất, buôn bán khác đã đăng ký với cơ quan bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
(Cục sáng chế) hoặc đã được bảo hộ theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia;
3. Sản phẩm, hàng hóa mang nhãn không đúng với nhãn sản phẩm đã đăng
ký với cơ quan tiêu chuẩn đo lường chất lượng;
4. Sản phẩm, hàng hóa ghi dấu phù hợp tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam khi
chưa được cấp giấy chứng nhận và dấu phù hợp tiêu chuẩn Viêt Nam;
5. Sản phẩm, hàng hóa đã đăng ký hoặc chưa đăng ký chất lượng với cơ
quan tiêu chuẩn đo lường chất lượng mà có mức chất lượng thấp hơn mức chất
lượng tối thiểu cho phép;
6. Sản phẩm, hàng hóa có giá trị sử dụng không đúng với nguồn gốc, bản
chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó.”
Từ đây, ta có thể thấy hàng giả được chia làm hai loại: hàng giả về hình thức
(sản xuất và sử dụng nhãn giả và bao bì mang nhãn giả hoặc sử dụng nhãn của
người khác, của cơ sở sản xuất khác mà không được phép của chủ nhãn (bao gồm
nhãn sản phẩm, nhãn hiệu hàng hóa và dấu hiệu phù hợp tiêu chuẩn chất lượng Việt
Nam)); hàng giả về nội dung (hàng không có giá trị sử dụng, không đúng với
nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó; hoặc có mức chất lượng
dưới mức tối thiểu do Nhà nước quy định, nhằm đánh lừa gây thiệt hại cho người
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiêu dùng để thu lợi bất chính). Hàng giả là hàng có mức chất lượng thấp hơn mức

chất lượng tối thiểu, còn hàng kém chất lượng là hàng có mức chất lượng thấp hơn
mức chất lượng ghi trên nhãn đăng ký song chưa vi phạm mức chất lượng tối thiểu.
Qua những quy định trên đây, hàng giả đã được phần nào làm rõ hơn với
những dấu hiệu cụ thể của nó mà trước đây chưa hề có một văn bản pháp luật nào
của Nhà nước đưa ra khái niệm hàng giả. Nó có một ý nghĩa lớn trong việc áp dụng
để phân định hàng giả, hàng thật và hàng kém chất lượng. Tuy nhiên thì định nghĩa
và dấu hiệu này vẫn chưa phản ánh đúng bản chất của hàng giả. Hàng giả được chia
thành hai loại trong đó có hàng giả về hình thức, nhưng từ định nghĩa đến dấu hiệu
của loại hàng này cho thấy đây đây không phải là hàng giả mà là hàng xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp. Việc đưa ra quy định “mức chất lượng tối thiểu” để
phân định hàng giả và hàng kém chất lượng, nhưng thưc tế không phải bất cứ loại
hàng hóa nào cũng có được quy định mức chất lương tối thiếu mà đa phần là không
có. Do vậy việc áp dụng thực tế của các quy định này là rất khó khăn.
BLHS năm 1985 với những hạn chế lịch sử của nó là: được xây dựng trên cơ
sở kinh tế xã hội của nền kinh tế bao cấp và trên thực tiễn của tình hình tội phạm
của thời kỳ đó. Do vậy trong khoảng thời gian 15 năm tồn tại, BLHS năm 1985
được sửa đổi, bổ sung 4 lần. Trong đó Điều 167 được sửa đổi, bổ sung 2 lần, ở lần
sửa đổi, bổ sung thứ hai (năm 1992) Điều 167 được sử đổi, bổ sung theo hướng
tăng hình phạt nên mức cao hơn và bổ sung thêm đối tượng hàng giả mới là: “Vật
liệu xây dựng, phân bón thuốc trừ sâu”. Với sự sửa đổi, bổ sung mới này ta thấy
được cá loại hàng giả ngày càng đa dạng hơn và việc tăng hình phạt nên mức cao
hơn thể hiện thái độ của Nhà nước là nghiêm khắc hơn đối với loại tội phạm này.
Mặc dù đã sửa đổi, bổ sung nhưng Điều 167 vẫn có những hạn chế về cả nội dung
và kỹ thuật lập pháp, nó đã tạo ra những khó khăn nhất định trong việc áp dụng
pháp luật như: việc không đưa ra các tiêu chuẩn để định lượng cũng như định tính
để xác định một hành vi làm, buôn bán hàng giả là tội phạm hay vi phạm pháp luật
khác do vậy một người có hành vi làm, buôn bán hàng giả sẽ có 3 khả năng có thể
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
xảy ra: người đó có thể bị truy cứu TNHS theo Điều 167 BLHS; có thể bị xử phạt

hành chính theo Nghị định 57/CP ngày 31/5/1997 quy định về việc xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đo lường chất lượng hàng hóa; hoặc có thể bị xử lý bằng
các biện pháp khác như: cảnh cáo, bị tịch thu tài sản… Cả ba khả năng trên cùng
tồn tại cho thấy Điều 167 còn không kế thừa được cả điểm tích cực này của văn
bản pháp luật trước đó là Pháp lệnh số: 07.LCT/HĐNN7 và Nghị định46/HĐBT
ngày 10/5/1983.
Để đáp ứng yêu cầu cấp thiết của sự phát triển kinh tế - xã hội và phát triển
của tội phạm đòi hỏi phải có pháp luật hình sự phù hợp và tiến bộ hơn. BLHS năm
1999 ra đời là cần thiết đối với pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng.
2.2. BLHS năm 1999 và những tiến bộ của nó về tội sản xuất, buôn bán hàng
giả so với BLHS năm 1985
Trước yêu cầu thực tế, BLHS năm 1999 được xây dựng trên cơ sở sửa đổi,
bổ sung một cách tương đối toàn diện BLHS năm 1985 nhưng có sự kế thừa những
nội dung tích cực của BLHS sau 4 lần sửa đổi, bổ sung. Cũng theo hướng chung
của BLHS thì “Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả” được sửa đổi một cách
khá toàn diện thể hiện tại: Điều 156 “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả”. Điều 167
BLHS năm 1985 quy định về tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả trong đó bao
gồm các loại hàng giả là: hàng giả nói chung; hàng giả là lương thực, thực phẩm,
thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; hàng giả là vật liệu xây dựng, phân bón và về
bản chất thì hàng giả được chia làm hai loại là: hàng giả về hình thức, hàng giả về
nội dung. Thì nay BLHS năm 1999 đã tách các loại hàng giả trên thành các loại
hàng giả là đối tương tác động của các điều luật riêng như: Điều 156.Tội sản xuất,
buôn bán hàng giả; Điều 157.Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực
phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; Điều 158.Tội sản xuất, buôn bán hàng
giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật,
giống cây trồng vật nuôi và Điều 171. Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Việc tách ra như vậy là hoàn toàn phù hợp vì mỗi loại hàng giả khác nhau có những
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tác động và tác hại đến các đối tượng khác nhau, từ đó TNHS được áp dụng đối với

mỗi loại tội phạm được đúng đắn hơn. Điều 156 quy định “Tội sản xuât, buôn bán
hàng giả” về mặt nội dung có sự thay đổi so với Điều 167, phạm vi của đối tương
tác động là hàng giả ở đây đã được thu hẹp lại không còn các loại hàng giả là lương
thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh, phân bón,… nay đã là đối
tượng tác động của Điều 157,158; về kỹ thuật lập pháp các thuật “phạm tội trong
trường hợp đặc biệt nghiêm trọng” đã được cụ thể hóa bằng các dấu hiệu và được
các văn bản dưới luật quy định cụ thể, “hàng giả có số lượng lớn” đã được định
lượng rõ ràng; về hình phạt, hình phạt đã được giảm nhẹ hơn so với Điều 167 với
mức cao nhất của khung hình phạt là phạt tù đến mười lăm năm, việc tách tội phạm
quy định tại Điều 167 ra thành các điều luật khác nhau đã góp phần giảm nhẹ hình
phạt, hình phạt bổ sung được quy định tại Khoản 4 Điều 156 khác so với BLHS
năm 1985 hình phạt bổ sung quy định tại một điều luật riêng và áp dụng chung cho
các tội phạm thuộc nhóm tội (Điều 185 BLHS năm 1985).
Ngay cả tên của điều luật cũng có sự thay đổi Điều 167. “Tội làm hàng giả,
tội buôn bán hàng giả” quy định hai tội danh mỗi tội có một hành vi khách quan
riêng trong một điều luật, còn Điều 156. “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” quy
định một tôi danh những có hai hành vi khách quan. Về bản chất thì việc quy định
như vậy không có gì khác nhau, nhưng việc để tên gọi của điều luật như Điều 156
là hợp lý hơn, thể hiện được tính phân hóa tội phạm cao hơn. Theo Điều 156 thì
những người có hành vi sản xuất hàng giả thì vẫn bị tòa án xét xử về tội sản xuất
hàng giả, người có hành vi buôn bán hàng giả thì bị xét xử về tội buôn bán hàng
giả.
Với những điểm mới này của Điều 156 so với các văn bản pháp luật trước
đây quy định về tội phạm này thì Điều 156 thể hiện được một sự tương đối hoàn
thiện và đầy đủ hơn mặc dù điều luật chưa khái quát được thế nào là sản xuất hàng
giả, buôn bán hàng giả mà chỉ quy định tính chất, mức độ, hậu quả nguy hiểm cho
xã hội của hành vi.
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG HAI

TỘI SẢN XUÂT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ THEO QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 156
BỘ LUẬT HÌNH SỰ
BLHS năm 1999 được đánh giá là một sự phát triển mới của luật hình sự
Việt Nam. Bộ luật được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách tương đối
toàn diện BLHS năm 1985 nhưng có kế thừa những nội dung tích cực, hợp lý của
BLHS này qua các lần sửa đổi, bổ sung. Điều 156 quy định “Tội sản xuất, buôn
bán hàng giả” nằm trong Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là một
điều luật có đổi mới. Với mục đích của khóa luận là nghiên cứu quy định của pháp
luật về “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” theo BLHS năm 1999, chúng ta cần tìm
hiểu một cách có hệ thống các dấu hiệu pháp lý, hình phạt và phân biệt tội phạm
này với một số tội phạm khác được quy định trong bộ luật.
Nhưng trước khi đi tìm hiểu những vấn đề trên thì ta phải định nghĩa thế nào
là “tội sản xuất, buôn bán hàng giả”. Điều 156 không đưa ra định nghĩa này,
nhưng dưới góc độ khoa học pháp lý chúng ta có thể xây dựng lên một định nghĩa
về tội phạm này trên cơ sở của định nghĩa tội phạm tại Khoản 2 Điều 8, Do đó:
“Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là hành vi làm ra, mua đi bán lại hàng
giả, do người có năng lực trách nhiêm hình sự thực hiện với lỗi cố ý xâm phạm đến
trật tự của nền sản xuất hàng hóa, làm mất ổn định thị trường, xâm hại lợi ích
người tiêu dùng”
1. Dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất, buôn bán hàng giả
Tội phạm được cấu thành bởi bốn yếu tố: khách thể của tội phạm, mặt khách
quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm. Đối với tội
sản xuất, buôn bán hàng giả thì bốn yếu tố này được thể hiện như sau:
1.1. Khách thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại. Khách thể của từng tội phạm cụ thể (khách thể trực tiếp của
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tội phạm) là nhưng quan hệ xã hội cụ thể được quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ
khỏi sự xâm hại trực tiếp của một tội phạm cụ thể.

Khách thể trực tiếp của tội sản xuất, buôn bán hàng giả là những quan hệ xã
hội trong lĩnh vực quản lý chất lượng hàng hóa, lưu thông, phân phối hàng hóa trên
thị trường và đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng.
Đối tượng của tội sản xuất và buôn bán hàng giả là các loại hàng giả. Vậy
hàng giả là gì? Và tại sao sản xuất buôn bán hàng giả lại xâm hại đến mối quan hệ
xã hội nêu trên? Theo quan niệm chung thì hàng giả là những sản phẩm hàng hóa
được sản xuất trái pháp luật có như những sản phẩm, hàng hóa được nhà nước cho
phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường hoặc những sản phẩm, hàng
hóa không có giá trị sử dụng đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi, công
dụng của nó.
Theo quy định của pháp luật trước khi BLHS năm 1999 ra đời, thì tại Nghị
Định 140/HĐBT ngày 25/4/1991cũng đưa ra định nghĩa về hàng giả và 6 dấu hiệu
để hàng hóa bị coi là hàng giả, trong Thông tư liên bộ 1254/TTLB ngày 8/11/1991
cũng phân loại hàng giả và phân biệt hàng giả và hàng kém chất lượng. Như đã
phân tích ở mục 1.2.1 Chương một khóa luận này thì những định nghĩa, dấu hiệu và
sự phân biệt này chưa chính xác và đầy đủ để nhận biết hàng giả. Do vậy để giải
thích đầy đủ và chính xác hơn thế nào là hàng giả, tại Thông tư liên tịch số:
10/2001/TTLT ngày 27/4/2000 của Bộ thương mại, Bộ tài chính, Bộ công an, Bộ
khoa học công nghệ và hướng dẫn Chỉ thị số 31/1999/CT-TTG của Thủ tướng
Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả thì:
“ Hàng hóa có một trong những dấu hiệu sau đây được coi là hàng giả
1. Hàng giả chất lượng hoặc công dụng:
1.1 Hàng hóa không có giá trị sử dụng hoặc giá trị sứ dụng không đúng như
ban chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó.
1.2 Hàng hóa đưa thêm tạp chất, chất phụ gia không được phép sử dụng làm
thay đổi chất lượng, không có hoặc có ít dược chất khác với tên dược chất được
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ghi trên nhãn hoặc bao bì, không có hoặc không đủ hoạt chất, chất hữu hiệu khác
với tên hoạt chất, chất hữu hiệu ghi trên bao bì.

1.3 Hàng hóa không đủ thành phần nguyên liệu hoặc bị thay thế bằng những
nguyên liệu phụ tùng khác không bảm bảo chất lượng so với tiêu chuẩn chất lượng
hàng hóa đã công bố, gây hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khỏe người, động vật,
thực vật hoặc môi sinh, môi trường.
1.4 Hàng hóa thuộc danh mục tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng mà không thực
hiện gây hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khỏe người, động vật, thực vật và môi
sinh, môi trường.
1.5 Hàng hóa chưa được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn mà áp dụng giấy
chứng nhận hoặc dấu phù hợp tiêu chuẩn (đối với danh mục hàng hóa bắt buộc).
2. Giả về nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc, xuất xứ hàng
hóa:
2.1 Hàng hóa có nhãn hiệu hàng hóa trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với
nhãn hiệu hàng hóa của người khác đang được bảo hộ cho cùng loại hàng hóa kể
cả nhãn hiệu hàng hóa đang được bảo hộ theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia, mà không được phép của chủ nhãn hiệu.
2.2 Hàng hóa có dấu hiệu hoặc bao bì mang dấu hiệu trùng hoặc tương tự
gây nhầm lẫm với tên thương mại được bảo hộ hoặc với tên xuất xứ hàng hóa được
bảo hộ.
2.3 Hàng hóa, bộ phận của hàng hóa có hình dáng bên ngoài trùng với kiểu
dáng công nghiệp đang được bảo hộ mà không được phép của chủ kiểu dáng công
nghiệp.
2.4 Hàng hóa có dấu hiệu giả mạo về chỉ dẫn nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa
gây hiểu sai lệch về nguồn gốc, nơi sản xuất, nơi đóng gói, lắp ráp hàng hóa.
3. Giả về nhãn hàng hóa :
3.1 Hàng hóa có nhãn hàng hóa giống hệt hoặc tương tự với nhãn hàng hóa
của cơ sơ khác đã công bố.
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3.2 Những chỉ tiêu ghi trên nhãn hàng hóa không phù hợp với chất lượng
hàng hóa nhằm lừa dối người tiêu dùng.

3.3 Nội dung ghi trên nhãn bị cạo, tẩy xóa, sửa đổi ghi không đúng thời hạn
sử dụng để lừa dối khách hàng.
4. Các ấn phẩm hàng hóa đã in sử dụng vào viêc sản xuất, tiêu thụ hàng giả;
4.1 Các loại đề can, tem sản phẩm, nhãn hàng hóa, mẫu nhãn hiệu hàng
hóa, bao bì sản phẩm có dấu hiệu vi phạm như: trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn
với nhãn hàng hóa cùng loại, với nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, tên
gọi xuất xứ hàng hóa được bảo hộ.
4.2 Các loại hóa đơn, chứng từ, chứng chỉ, tem,vé, tiền, ấn phẩm có giá trị
như tiền, ấn phẩm và sản phẩm văn hóa giả mạo khác.”
Từ những quy định trên thì hàng giả được chia làm ba loại:
- Hàng giả về nội dung: là hàng giả về chất lượng hoặc công dụng. Đây là
loại hàng hóa không có giá trị sử dụng hoặc có giá trị sử dụng không đúng bản chất
tự nhiên tên gọi và công dụng của loại hàng hóa đó.
Ví dụ: Dùng bột mỳ để làm thuốc B1, dùng nước tinh khiết hòa với muối để
làm thuốc nhỏ mắt…
- Hàng giả về hình thức: là hàng giả về nhãn hàng hóa, kiểu dáng công
nghiệp, nguồn gốc xuất xứ … Đây là loại hàng hóa mang nhãn hiệu, kiểu dáng…
của cơ sở sản xuất khác nhưng có giá trị sử dụng.
Ví dụ: Những chiếc đồng hồ mang nhãn hiệu nổi tiếng của Thụy Sỹ nhưng
thực ra là đồng hồ do Trung Quốc được làm với kiểu dáng và hình thức giống hệt
đồng hồ Thụy Sỹ. Hay những chiếc túi sách của hãng thời trang nổi tiếng Louis
Vutton của Pháp được làm giả kiểu dáng giống hệt và chất liệu kém hơn…
- Hàng giả về nội dung và hình thức: Đây là loại hàng hóa mang nhãn hiệu
kiểu dáng… của cơ sở sản xuất khác vừa không có giá trị sử dụng mà nó mang tên.
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ví dụ: Những chiếc tivi mang nhãn mác và kiểu dáng của hãng Sony nhưng
thực tế bên trong là những linh kiện cũ và bóng hình được thay thế bằng bóng hình
của màn hình máy tính cũ và chỉ dùng một thời gian là bị hỏng.
Hàng giả được phân ra là các loại như vậy là tương đối hợp lý và cũng tạo

điều kiện cho việc nhận biết hàng giả. Tuy nhiên trong thực tiễn đấu tranh chống lại
các tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả đều thống nhất coi hai loại hàng giả về
nội dung và hàng giả cả về nội dung và hình thức là hàng giả. Là đối tượng của tội
phạm quy định tại Điều 156 của BLHS năm 1999. Còn đối với loại hàng giả về
hình thức thì có hai quan điểm khác nhau:
Có quan điểm cho rằng đây là hàng giả dù có hay không có giá trị sử dụng,
thì hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả này thỏa mãn các cấu thành tội phạm quy
định tại Điều 156 BLHS thì đều bị phải định tội theo điều này.
Có quan điểm khác lại coi loại hàng giả này là hàng hóa vi phạm quyền sở
hữu công nghiệp là đối tượng của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp quy
định tại Điều 171 BLHS vì hành vi sản xuất , mua bán hàng giả này là sử dụng trái
phép kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa của cơ sở khác.
Vậy loại hàng giả về hình thức là đối tượng của Điều 156 là loại hàng giả
như thế nào? Theo quy định của pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ(Luật sở hữu
trí tuệ 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật sở hữu trí tuệ), cũng như quy
định của các ĐƯQT về sở hữu trí tuệ mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia(Công ước
Berne, Công ước Paris, Hiệp định Trips…), thì nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công
nghiệp, nguồn gốc, xuất xứ, chỉ dẫn địa lý là đối tượng của quyền sở hữu công
nghiệp. Và việc bảo hộ của Nhà Nước đối với quyền của sở hữu công nghiệp là
thông qua văn bằng bảo hộ và đăng ký với cơ quan có thẩm quyền. Quy định này
có nghĩa là muốn được nhà nước bảo hộ quyền của mình đối với sáng chế, giải
pháp hữu ích nhãn hiệu hàng hóa, kiều dáng công nghiệp… thì phải đăng ký cơ
quan quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp và được cấp văn băng bảo hộ. Theo
luật Tư pháp quốc tế thì quyền sở hữu công nghiệp chỉ có hiệu lực trên phạm vi
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lãnh thổ mà nó đăng ký bảo hộ và được cấp văn bằng bảo hộ. Căn cứ theo quy định
trên của pháp luật thì hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là loại hàng
hóa mang nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc xuất sứ của cơ sở
sản xuất khác đã đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp hoặc có văn bản bảo hộ

những loại hàng hóa này là đối tượng của Điều 171 BLHS. Còn loại hàng giả về
hình thức là đối tượng của Điều 156 BLHS là loại hàng hóa về nhãn hiệu, kiểu
dáng công nghiệp , nguồn gốc, xuất xứ… của cơ sơ sản xuất khác chưa đăng ký
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp hoặc không có văn bằng bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp. Do vậy hai quan điểm trên đều chưa chính xác.
Cũng tại Thông tư liên tịch số: 10/2000/TTLT ngày 27/4/2000 tại mục IV có
đưa ra một số tiêu chí về hàng kém chất lượng. Theo đây:
“ Hàng hóa có một trong các dấu hiệu sau đây được coi là hàng kém chất
lượng:
1. Hàng hóa có giá trị sử dụng , công dụng nhưng các chỉ tiêu, thành phần
cấu tạo về chất lượng chưa đầy đủ như công bố trên nhãn hang hóa hoặc quảng
cáo, tiếp thị nhưng không gây hại đến sản xuất, sức khỏe người, động vật, thực vật
hoặc môi sinh, môi trường.
2. Hàng hóa có một trong các chỉ tiêu chất lượng thuộc danh mục bắt buộc
áp dụng thấp hơn mức chất lượng tối thiểu đã công bố, nhưng không gây hại đến
sản xuất, sức khỏe người , động vật, thực vật, môi sinh, môi trường.
3. Hàng hóa có chất lượng thực tế thấp hơn mức ghi trên nhãn hàng hóa
hoặc quảng cáo công bố nhưng không gây hại đến sức khỏe người, động vật, thực
vật.
4. Hàng hóa cũ tân trang, sửa chữa lại rồi mạo hàng mới để lừa dối khách
hàng, bán theo đơn giá của hàng mới.
5. Hàng hóa đã bị đưa thêm tạp chất hoặc các nguyên liệu khác nhau làm
thay đổi định lượng hàng hóa,nhưng không gây hại đối với sản xuất, sức khỏe
người, động vật , thực vật hoặc môi sinh, môi trường”.
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Qua quy định cho thấy, hàng kém chất lượng không còn được quy định một
cách chung chung như Thông tư liên bộ 1254/TTLB ngày 8/11/1999 là những “sản
phẩm có mức chất lượng thấp hơn mức chất lượng đã đăng ký và ghi nhãn sản
phẩm, song chưa vi phạm chất lượng tối thiểu” thì dấu hiệu đưa ra ở Thông tư số:

10/2000/TTLT đã được cụ thể và rõ ràng hơn. Qua đây thì hàng giả và hàng kém
chất lượng giống nhau ở chỗ là không đạt chất lượng như đã đăng ký hay ghi trên
bao bì nhãn mác nhưng hàng giả khác với hàng kém chất lượng ở chỗ: hàng giả
không có giá trị sử dụng hoặc có giá trị sử dụng nhưng thấp hơn “mức chất lượng
tối thiểu” còn hàng kém chất lượng là có giá trị sử dụng nhưng giá trị sử dụng của
hàng hóa này là trên “mức chất lượng tối thiểu” đã công bố. Theo quy định này, thì
mức chất lượng tổi thiểu của hàng hóa đươc quy định tại các danh mục các loại
hàng hóa phải đạt chất lượng bắt buộc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành và mức chất lượng tổi thiều do cơ sở sản xuất công bố đối với sản phẩm của
mình. Hàng giả còn khác hàng kém chất lượng ở chỗ, việc sử dụng hàng giả có thể
dẫn đến những tổn hại về sức khỏe, tính mạng sức khỏe con người, động vật, thực
vật hoặc môi sinh, môi trường. Còn hàng kém chất lượng thì không gây hại đến sức
khỏe người, động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi trường.
Hiện nay, trên thị trường hàng hóa rất đa dạng với rất nhiều chủng loại. Hàng
giả cũng như vậy, nó rất đa dạng từ hàng giả là đồ sản xuất trong nước đến những
hàng hóa nhập khẩu, từ những đồ dùng vật dụng thông thường đến những hàng hóa
cao cấp như chai nước khoáng, đồ điện tử, đồng hồ đeo tay, nước hoa…
Từ những phân tích trên đây, chúng ta có thể khái quát như sau:
“ Hàng giả là tất cả những loại hàng hóa từ thông thường đến cao cấp được
sản xuất trái pháp luật, có hình dáng bên ngoài giống như những sản phẩm, hàng
hóa được nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu, tiêu thụ trên thị trường không
đủ tiêu chuẩn chất lượng của nhà nươc; hoặc những sản phẩm, hàng hóa không có
giá trị sử dụng đúng nguồn gốc bản chất tự nhiên tên gọi và công dụng của nó
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhằm lừa dối người tiêu dùng với mục đích cạnh tranh không lành mạnh và thu lợi
bất chính”.
Vậy hàng giả là đối tương tác động của tội phạm quy định tại Điều 156 là
các loại hàng giả nói chung trừ nhưng loại hàng giả là đối tượng tác động của các
tội phạm khác quy định trong các điều luật khác.

Hiên nay, Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, cho nên nền sản xuất hàng hóa có một ý nghĩa quyết
định đến sự phát triển này. Chúng ta không chỉ cần sản xuất ra nhiều hàng hóa mà
chất lượng của những loại hàng đó còn phải đáp ứng được yêu cầu của con người
đang ngày một tăng lên. Hàng giả xuất hiện trên thị trường với nhiều hình thức tinh
vi, bề ngoài giống như hàng thật lưu thông, phân phối trên thị trường hoặc được
trộn lẫn với hàng thật để dễ bán. Từ đó gây ra những tác động xấu về mặt kinh tế,
xã hội, giảm lòng tin của người tiêu dùng với nhà sản xuất nhằm cạnh tranh không
lành mạnh và còn có thể gây thiệt hại tính mạng sức khỏe con người. Đối với nền
kinh tế, hàng giả và buôn bán hàng giả có ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế quốc
dân, đến việc thực hiện chính sách kinh tế gây khó khăn cho việc quản lý thị trường
của cơ quan chức năng, nhà nước sẽ mất đi một khoản thu cho ngân sách, gặp
nhiều khó khăn trong lĩnh vực quản lý các lĩnh vực sản xuất, điều phối, lưu thông
hàng hóa. Là nguyên nhân gây mất ổn định thị trường, ảnh hưởng tới hợp tác kinh
tế quốc tế. Đối với nhà sản xuất thì hàng giả không chỉ gây ra những thiệt hại về tài
chính mà nó còn giảm uy tín, lòng tin của người tiêu dùng đối với nhà sản xuất, đây
là một thủ đoạn canh tranh không lành mạnh. Đối với người tiêu dùng thì ngoài
những thiệt hại về tiền bạc, nhu cầu sử dụng không được đáp ứng thì hàng giả
không có giá trị sử dụng hoặc có giá trị sử dụng nhưng không đạt tiêu chuẩn cho
phép có thể gây ra những tổn hai sức khỏe và tính mạng đối với người tiêu dùng.
Ví dụ : Đầu năm 2008, dư luận trong nước đang xôn xao vì vụ mỹ phẩm giả
gây chết người, đó là trường hợp của nạn nhân Nguyễn Ngọc Bích ở Châu Thành
–Đồng Tháp chết vì sử dụng kem tắm trắng giả…
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Do vậy, hàng giả và buôn bán hàng giả cần phải được ngăn chặn và xử lý
nghiêm minh để bảo vệ những quan hệ xã hội nêu trên.
1.2. Mặt khách quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả
Bất kỳ một tội phạm nào khi xảy ta cũng đều có những biểu hiện diễn ra
hoặc tồn tại bên ngoài mà con người có thể trực tiếp nhận biết được nó như: hành

vi, hậu quả cho xã hội, mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả, các điều kiện bên
ngoài khi thực hiện hành vi. Tổng hợp những điều kiện trên tạo thành mặt khách
quan của tội pham. Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm
bao gồm những biểu hiện của tội phạm bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn
ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Mặt khách quan của tội phạm là một
trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm không có mặt khách quan thì cũng không có
các yếu tố khác của tội phạm và cũng không có tội phạm.
“ Trong mặt khách quan của tội phạm thì hành vi khách quan là biểu hiện
cơ bản, những biểu hiện khác của mặt khách quan chỉ có ý nghĩa khi có hành vi
khách quan”. Điều 156 “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” thọat nhìn ban đầu thì
có thể cho đây là điều luật quy định một hành vi khách quan là hành vi sản xuất
buôn bán hàng giả nhưng khi xem xét ta thấy đây là một điều luật nhưng quy định
hai hành vi khách quan đó là: hành vi sản xuất hàng giả và hành vi buôn bán hàng
giả
Hành vi sản xuất hàng giả là hành vi làm ra (tạo ra) các loại hàng giả (như
đã nêu ở 2.1.1). Làm ra hàng giả là làm với hoàn toàn hoặc lắp ráp từ những bộ
phận giả của hàng hóa. Người phạm tội có thể tham gia vào cả quá trình làm ra
hàng giả từ đầu đến cuối hoặc chỉ có thể tham gia vào một công đoạn của quá trình
làm ra hàng giả như: lắp ráp, chế biến, đóng gói, dán nhãn hiệu để tạo ra hàng giả.
Hàng giả được sản xuất ra chủ yếu bằng phương pháp công nghiệp theo một quy
trình từ nguyên liệu đến sản phẩm. Điều 156 BLHS năm 1999 không sử dụng thuật
ngữ “làm” hàng giả như Điều 167 BLHS năm 1985 mà sử dụng thuật ngữ “sản
xuất” hàng giả, sự khác biệt này có những ý nghĩa nhất định. Sản xuất hàng hóa là
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kiểu tổ chức sản xuất mà trong đó có sự phân công lao động và sản phẩm được làm
ra phải trải qua nhiều khâu khác nhau của một quá trình sản xuất, được thực hiện
theo một quy trình từ nguyên liệu đến sản phẩm. Sản xuất hàng giả như vậy, việc
sản xuất hàng giả là việc tạo ra hàng giả trong đó cũng có sự phân công lao động ra
các khâu của quá trình sản xuất, hàng giả làm ra phải trải qua các khâu đó. Do vậy

để sản xuất phải có từ hai người trở lên hoặc phải có máy móc và trang thiết bị kỹ
thuật số lượng hàng giả làm ra là tương đối nhiều. Còn việc “làm” hàng giả là tạo
ra sản phẩm giả trên cơ sở bắt chước kiểu dáng, tính năng của một loại hàng hóa
nào đó, người làm hàng giả làm ra nó theo phương pháp thủ công, không có quy
trình kỹ thuật nhất định nào, số lượng hàng giả làm ra là không nhiều. Việc Điều
156 quy định như vậy có tính hợp lý hơn rất nhiều, do mục đích của tội phạm là
hàng giả làm ra để lừa dối khách hàng nhằm thu lợi bất chính. Với mục đích như
vậy mà sử dụng thuật ngữ “làm” để chỉ hành vi khách quan của tội phạm này có
thể dẫn đến nhầm lẫn với hành vi khách quan của tội phạm khác và cũng có thể là
hành vi khác mà không phải tội phạm. Cụ thể là: nếu một người làm ta một sản
phẩm được coi là hàng giả, người này đem bán cho người khác nói dối về chất
lượng của sản phẩm hay tên gọi của sản phẩm đó để thu tiền “từ 500 nghìn đồng
đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 500 nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm
trọng” thì người đó phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139
BLHS. Nhưng nếu người đó chỉ làm ra sản phẩm giả đó để sử dụng cho nhu cầu
sinh hoạt của bản thân và gia đình mình thì người đó không được coi là hành vi làm
hàng giả và không vi pham pháp luật. Do vậy việc sử dụng thuật ngữ “sản xuất”
để thực hiện hành vi khách quan của tội sản xuất hàng giả là chính xác và không
gây nhầm lẫn.
Đối với hành vi buôn bán hàng giả thì hành vi buôn bán hàng giả là hành vi
dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để mua đi, bán lại những hàng hóa mà biết là
hàng giả để thu lợi bất chính.
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Có thể thấy hành vi khách quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả đều được
thể hiện dưới dạng hành động. Người phạm tội phải tiến hành một hoạt động cụ thể
tác động một cách trực tiếp vào quan hệ xã hội cụ thể.
Đối với hành vi sản xuất hàng giả người phạm tội phải tiến hành một loạt
các hành động như: lắp ráp, dán nhãn… ngoài ra người phạm tội phải chuẩn bị
trước mọi thứ như nguyên liệu, máy móc, nhà xưởng, dự trù loại hàng hóa sản xuất,

móc nối để tiêu thụ do vậy họ bắt buộc phải thể hiện bằng hành động.
Đối với hành vi buôn bán hàng giả: là hành vi mua đi bán lại hàng hóa giả.
Người phạm tội phải tìm mối mua hàng giả sau đó bán lại hàng giả đó cho người
khác để thu lợi bất chính.
Về thời gian thực hiện tội phạm, thì hành vi sản xuất hàng giả phải xảy ra
trong một thời gian dài có tính liên tục còn hành vi buôn bán hàng giả thì khác nó
vừa có thể xảy ra trong một thời gian dài liên tục, có thể xảy ra trong thời gian ngắn
và không liên tục.
Hành vi sản xuất hàng giả và hành vi buôn bán hàng giả có mối quan hệ
khăng khít với nhau. Người phạm tội có thể thực hiện một trong hai hành vi hoặc là
sản xuất hàng giả hoặc là buôn bán hàng giả; hoặc thực hiện cả hai hành vi vừa sản
xuất vừa buôn bán hàng giả. Có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả thì hàng giả
mới đến tay người tiêu dùng và gây hậu quả. Có hành vi buôn bán hàng giả thì mới
tạo ra nhu cầu, và cần có sản xuất để đáp ứng cho nhu cầu này.
Ví dụ: Ngày 10/9/2007 Viện kiểm soát nhân dân tối cao đã hoàn thành bản
cáo trạng vụ án “cố ý làm trái, buôn bán hàng giả, trốn thuế” xảy ra tại Công ty
điện lực thành phố Hồ Chí Minh. Tại bản cáo trạng số: 11/ VKSNDTC – V1B của
Viện kiểm sóat nhân dân tối cao thì nhóm bị can nguyên là lãnh đạo nhân viên
Công ty Linkton Vina gồm:
Trần Thị Liên (Phó chủ tịch hội đồng quản trị); Trần Công Điền (Phó Tổng
giám đốc); Phạm Huy Quang (Quản đốc phân xưởng); Nguyễn Trọng Hiển
(Trưởng phòng kinh doanh); Đặng Thị Kim Liên (Kế toán trưởng) bị truy tố về tội
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sản xuất, buôn bán hàng giả theo Khoản 3 Điều 156 BLHS. Những bị can này đã có
vi phạm sản xuất ra 312.000 chiếc điện kế điện tử mang nhãn hiệu Linkton
Xingapo nhưng thực chất là dùng những linh kiện mua ở trong nước cũ hỏng lắp
vào vỏ điện kế điện tử Linkton Xingapo 312.000 chiếc điện kế điện tử này là hàng
giả về nguồn gốc xuất xứ, nơi đóng gói, lắp ráp hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp.
Những đối tượng này đã móc nối với nhiều người có chức năng tại công ty điện lực

thành phố Hồ Chí Minh để tiêu thụ những chiếc điện kế điện tử giả này với giá
580.000đ/ cái. Tổng giá trị hàng giả tương đương với giá trị hàng thật là 181 tỷ
đồng.
Hành vi của các đối tượng trên là vừa sản xuất vừa có hành vi buôn bán hàng
giả.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội tác động lên các bộ phận cấu thành quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ không phải theo hướng có lợi mà gây thiệt hại cho
quan hệ đó.
Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã
hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Thiệt hại gây ra cho khách thể được thể
hiện qua sự biến đổi tình trạng bình thường của các bộ phận cấu thành quan hệ xã
hội là khách thể của tội phạm. Tính chất, mức độ của thiệt hại được xác định bởi
tính chất; mức độ biến đổi của các đối tượng tác động của tội phạm.
Hậu quả của tội sản xuất, buôn bán hàng giả là từ sự biến đổi về chất của
hàng hóa dẫn đến những thiệt hại cho khách thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả
đó là những thiết hại vật chất và phi vật chất cho xã hội như: tính mạng, nhân
phẩm, danh dự của con người, những thiệt hại về tài sản cho xã hội và những thiệt
hại về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Theo quy định của Điều 156 BLHS thì
yếu tố hậu quả của tội phạm không phải lúc nào cũng là dấu hiệu bắt buộc đối với
mặt khách quan của tội phạm. Nó chỉ có ý nghĩa là dấu hiệu bắt buộc trong trường
hợp “…hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị…dưới 30 triệu
đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng…”
25

×