Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tiểu luận tn vận dụng tư tưởng hồ chí minh về xây dựng nhà nước kiểu mới trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.92 KB, 33 trang )

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Số phách
(Do Ban khảo thí ghi)

Điểm
Bằng số

Họ và tên: TRẦN VĂN CƯỜNG

Số phách

Ngày sinh: 04/9/1976

Người chấm
(Ký ghi rõ họ tên)

Lớp, trường: Hồn chỉnh CT CCLLCT/Trường

Khoa: Hồ Chí Minh học
Lớp, trường: Hồn chỉnh chương trình cao
cấp lý luận chính trị/Trường Q
Khóa: 11
Ngày nộp: 24.8.2022

QSKhóa:11

Chủ đề: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng nhà nước kiểu mới trong xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay



Ngày nộp: 24.8.2022

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Bằng chữ

MỞ ĐẦU

Trang


NỘI DUNG
SỰ CẦN THIẾT PHẢI VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
I.
VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN,
VÌ NHÂN DÂN
1.1 Xuất phát từ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân
1.1.1 Nhà nước của dân
1.1.2 Nhà nước do dân
1.1.3 Nhà nước vì dân
1.2 Xuất phát từ thực trạng xây dựng Nhà nước ta hiện nay
1.2.1 Về thành tựu
1.2.2 Về hạn chế, khuyết điểm
Xuất phát từ bối cảnh tình hình mới và những thời cơ, thách thức tác
1.3 động đến phương hướng, mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam trong thời gian tới
NỘI DUNG VẬN DỤNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN
II. DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN HIỆN NAY THEO TƯ

TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1 Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân, tính Nhân dân,
tính dân tộc của Nhà nước
2.2 Đẩy mạnh tinh giản bộ máy, nâng cao phẩm chất và năng lực quản lý,
điều hành của cán bộ, công chức Nhà nước
2.3 Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm quyền làm chủ thực sự của Nhân dân
2.4 Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ, công chức
2.5 Đẩy mạnh đấu tranh phịng chống tham nhũng, lãng phí
2.6 Phát huy vai trò Quân đội trong xây dựng và bảo vệ Nhà nước
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
III. MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN
DÂN, VÌ NHÂN DÂN
3.1 Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng
lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị
3.2 Hồn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận
hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền XHCN
3.3 Hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ
máy Nhà nước
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính
3.4 Nhà nước theo hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên
nghiệp, năng động, phục vụ Nhân dân, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả
3.5 Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
1

1

1
3
4
5
5
6
7
10
11
12
13
15
15
17
18

18
19
19
21
22
25
26


MỞ ĐẦU

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhà lãnh đạo kiệt xuất, vị lãnh tụ thiên tài - danh
nhân văn hoá thế giới; người thầy vĩ đại của Đảng ta, dân tộc ta. Người đã để
lại cho dân tộc ta một di sản văn hóa, tư tưởng, tinh thần hết sức to lớn. Cuộc

đời của Người là một tấm gương sáng ngời để Đảng, Nhà nước và Nhân dân
ta học tập và làm theo.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về xây dựng Nhà nước
kiểu mới của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân là nội dung cơ bản
chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống quan điểm, tư tưởng cách
mạng của Người. Đây là một hệ thống các luận điểm về nhà nước kiểu mới ở
một nước thuộc địa nửa phong kiến, thể hiện sự vận dụng trung thành và phát
triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước chuyên chính vơ sản
vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Trải qua hơn 75 năm, ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra
đời đến nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới,
xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn nhất quán
chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt
Nam thực sự của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Điều đó được khẳng định qua các kỳ Đại hội, được cụ thể hóa bằng
pháp luật và bảo đảm thực hiện trên thực tế. Tổng kết 35 năm đổi mới, Đại
hội XIII của Đảng đã đánh giá: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy Nhà nước tiếp tục được hoàn thiện,
hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp”1. Tuy nhiên, “Xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
và quản lý đất nước trong tình hình mới” 2. Bên cạnh đó là những khó khăn,
thách thức đến từ sự chống phá của các thế lực thù địch với mức độ, thủ đoạn
ngày càng tinh vi, sâu hiểm. Trong bối cảnh đó, yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục
1
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H.2021, tr.71
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H.2021, tr.89



xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân
dân và vì Nhân dân đặt ra rất cấp bách, đòi hỏi sự nhạy bén cả về tư duy lẫn
cách thức tổ chức thực hiện linh hoạt, sáng tạo với sự vào cuộc của cả hệ
thống chính trị. Đó là cơ sở chính trị cho việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu
về Nhà nước pháp quyền và thúc đẩy việc đổi mới một cách căn bản, có hệ
thống tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi
mới hệ thống chính trị” 3. Đây chính là bước đột phá trong tư duy đổi mới,
sáng tạo, thể hiện sự phát triển mới về chất so với các kỳ đại hội trước.
Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng nhà nước kiểu mới trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn
sâu sắc đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế.

3

Đảng cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQG Sự Thật, H. 2021, tr. 174


1
NỘI DUNG
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN
DÂN


1.1. Xuất phát từ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà
nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân
Tư tưởng cốt lõi và nhất quán của Hồ Chí Minh về Nhà nước Việt
Nam, đó là một chính quyền mạnh, một chính quyền sáng suốt, một chính
quyền của dân, do dân, thành lập và hoạt động vì nhân dân.
1.1.1. Nhà nước của dân

Đó là Nhà nước thể hiện đầy đủ tư tưởng “Bao nhiêu quyền hạn đều
vì dân”. Nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước. Nguồn gốc của quyền
lực Nhà nước bắt nguồn từ Nhân dân. Để Nhà nước thực sự của dân, Hồ
Chí Minh u cầu khơng chỉ thể hiện bằng những khẩu hiệu trừu tượng, mà
phải xác lập bằng một cơ chế khoa học. Đó là cơ chế Nhân dân tạo ra quyền
lực Nhà nước một cách dân chủ, Nhân dân có quyền kiểm sốt quyền lực
Nhà nước một cách hữu hiệu và Nhân dân có quyền thu hồi lại quyền lực
Nhà nước nếu có sự tha hố từ chính cán bộ của Nhà nước. Để xây dựng
Nhà nước của dân, Hồ Chí Minh đã nêu lên và thực hiện 3 vấn đề sau:
1. Xây dựng một chế độ dân bầu cử dân chủ nhằm bảo đảm “chính
quyền từ xã đến chính phủ, Trung ương do Nhân dân bầu cử ra”. Cách mạng
Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động xây dựng Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà nước pháp quyền, hợp pháp, hợp
hiến, dân chủ và coi trọng tính hiệu lực, hiệu quả thực tế - một cách bài
bản, quy củ, đúng đắn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm cả hai mặt:
nhanh chóng tổ chức các thiết chế của bộ máy Nhà nước và ban hành các
thể chế (hiến pháp và pháp luật) tạo cơ sở pháp lý và khoa học để tổ chức
"một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của Nhân dân".
Trong bối cảnh cực kỳ khó khăn, phức tạp của ngày đầu giành được
chính quyền, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, ngày 3 -91945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị: "Chính phủ tổ chức càng sớm càng


hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công

dân trai, gái, mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, khơng phân
biệt giàu nghèo, tơn giáo, dịng giống..."4, và "Tổng tuyển cử là một dịp cho
toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác
cơng việc nước nhà... Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc
hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của tồn dân”5.
2. Xây dựng một cơ chế bảo đảm “quyền kiểm soát của Nhân dân đối
với đại biểu của mình” làm cho “tất cả các cơ quan Nhà nước là phải dựa
vào Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự
kiểm soát của Nhân dân”. Sự kiểm tra giám sát của Nhân dân là một yêu
cấu rất cần thiết nhằm tiếp tục giữ vững quyền lực của mình.
3. Xây dựng cơ chế pháp lý để Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu
quốc hội và đại biểu hội đồng Nhân dân các cấp nếu những đại biểu ấy tỏ ra
khơng xứng đáng với tín nhiệm của Nhân dân. Người nói: “Nếu chính phủ
làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”6, “Nhân dân có quyền bãi miễn
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng Nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra
không xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân. Nguyên tắc ấy bảo đảm
quyền kiểm soát của Nhân dân đối với đại biểu của mình” 7. Trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, từ Chủ tịch nước đến giao thông viên, nếu khơng làm được việc
cho dân thì dân khơng cần nữa, và dân có quyền bãi miễn, tìm người khác có
đủ đức tài để thay thế. Cán bộ đó có biểu hiện tư túi, thối hố, biến chất thì
Nhân dân sẽ thu hồi những quyền đó bằng hình thức bãi miễn và trao lại
quyền hành cho những người khác mà Nhân dân tín nhiệm.
1.1.2. Nhà nước do dân

Nhà nước do dân là phản ánh mối quan hệ giữa Nhân dân với Nhà
nước. Hồ Chí Minh khẳng định “Khơng có Nhân dân thì Nhà nước khơng có
đủ lực lượng”, “Lực lượng bao nhiêu là ở dân hết”, “công việc đổi mới, xây
dựng là
4


Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 7
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 153
6
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 75
7
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 375
5


trách nhiệm của Nhân dân”. Như vậy, Nhân dân ở đây đóng vai trị là lực
lượng của mọi hoạt động xây dựng và bảo vệ đất nước, còn Nhà nước đóng
vai trị dẫn đường. Nhà nước có nhiệm vụ “đem tài dân, sức dân, của dân để
làm lợi cho dân. Nhà nước phải tạo khung pháp lý để cho Nhân dân tự do lao
động sáng tạo, để tự nuôi bản thân họ và có trách nhiệm đóng góp cho Nhà
nước như nộp thuế để nuôi bộ máy Nhà nước. Nhà nước có nhiệm vụ tổ chức
sắp đặt kế hoạch để mỗi công dân phát huy tốt quyền và nghĩa vụ của mình.
Trong chiến tranh cũng như trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, mọi thắng lợi của các phong trào cách mạng đều xuất phát từ lực lượng
Nhân dân. Sự đóng góp của Nhân dân đối với Nhà nước khơng ngồi mục
đích là lấy tài dân, sức dân để làm những việc cho dân. Nó vừa là nghĩa vụ
vừa là trách nhiệm, tình cảm của mỗi người dân.
Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm đến cơng tác phê bình, kiểm điểm
của cán bộ Nhà nước trước Nhân dân thành một chế độ thường xuyên để
thu nhận được những nguyện vọng, ý kiến đóng góp của Nhân dân đối với
cán bộ. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phỉa đi sâu, đi sát Nhân
dân, học hỏi Nhân dân, đúc kết ý kiến của Nhân dân để khái quát thành chủ
trương, kế hoạch của người lãnh đạo rồi trở lại phục vụ Nhân dân.
Ngoài những nội dung Nhân dân thực hiện theo pháp luật, thì cịn có
những vấn đề xã hội hoá sâu sắc trên các địa bàn dân cư phải do dân cư bàn
bạc, tự tổ chức, tự quản lý. Vấn đề này đồng nghĩa với việc Nhân dân làm

chủ.
1.1.3. Nhà nước vì dân

Trước hết Nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người và
quyền công dân trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, đảm bảo quyền
làm chủ của Nhân dân trong phạm vi cả nước, từng địa phương, từng cơ sở
và tập thể lao động. Trong thực tế, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc thảo
luận, phát huy sáng kiến và tìm cách giải quyết mọi vấn đề của Nhân dân.
Người chỉ rõ rằng: "Nghị quyết gì mà dân chúng cho là khơng hợp thì để


họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và
tổ chức của ta"8.
Nhà nước vì dân thể hiện ở tinh thần “bao nhiêu lợi ích đều vì dân” để
thực sự Nhà nước vì dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ:Các cơ quan của chính phủ, cán
bộ từ Trung ương đến cơ sở là người “đầy tớ”, “công bộc” của Nhân dân, ở
đây cũng phải hiểu rằng “đầy tớ” khơng có nghĩa là người ăn ở, phục dịch “bị
sai khiến” mà là những công chức chuyên thực thi công vụ (tức là việc công)
trong các cơ quan Nhà nước, khơng vì tư lợi, mà vì lợi ích của tồn thể Nhân
dân, trước hết là Nhân dân lao động. Vì vậy, Hồ Chí Minh u cầu “Muốn
cho dân u, muốn được lịng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm,
việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”9. Người nhấn mạnh: “phải thường
xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ”. Cán bộ trong tư tưởng Hồ Chí
Minh là người phải là cho dân yêu, yêu dân, không tự kiêu, không mắc các
bệnh làm quan cách mạng, phải siêng năng, siêng nghe, siêng đi, siêng nghĩ
và siêng làm. Một Nhà nước vì dân khơng chỉ thể hiển trên lời nói mà phải
bằng những việc làm thiết thực như: bảo đảm nhu cầu của Nhân dân về ăn,
mặc, ở, đi lại, học tập, chữa bệnh, quyền tự do dân chủ. Nhà nước phấn đấu
không ngừng để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân, ban hành
nhiều chế độ chính sách như; xố đói giảm nghèo, xây dựng quỹ giúp đỡ

những gia đình chính sách, người có cơng với cách mạng, người già cơ đơn,
người khơng cịn nơi lương tựa, người tàn tật… để mọi người đều được hưởng
những quyền lợi như những người khác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu Nhà nước phải biết u dân, kính dân
có trách nhiệm và chịu trách nhiệm trước dân. Sau cách mạng Tháng 8 năm
1945, Người đã sớm nhận ra và cảnh báo về những hiện tượng suy thoái
đạo đức trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và chỉ rõ những biện pháp
phòng ngừa, sửa chữa để chấn chỉnh bộ máy chính quyền, làm cho Nhà
nước ta thực sự là Nhà nước của dân, do dân vì dân.

8
9

Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 338
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 51


Như vậy, tin vào dân, dựa vào dân là một nguyên tắc căn bản trong
chiến lược đoàn kết của Hồ Chí Minh. Đối với người, yêu dân, tin dân, dựa
vào dân, sống đấu tranh vì dân là nguyên tắc tối cao xuyên suốt trong tư
duy chiến lược và hoạt động thực tiễn. Người khái quát ngắn gọn: “gốc có
vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân”, “Dễ trăm lần dân
khơng cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
1.2. Xuất phát từ thực trạng xây dựng Nhà nướcta hiện nay
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là quá trình đúc kết,
kế thừa, vận dụng tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử của nhân
loại, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực
tiễn hơn 35 năm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Trên cơ sở đánh giá tổng
kết 35 năm đổi mới,Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá như sau:
1.2.1. Về thành tựu


Hệ thống pháp luật được hoàn thiện một bước cơ bản. Vai trò của pháp
luật và thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt
động của Nhà nước và đời sống xã hội. Cơ chế phân cơng, phối hợp và kiểm
sốt quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực. Đề
cao hiệu quả giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, coi trọng hơn cơng
tác thanh tra, kiểm tra hành chính, phát huy vai trị của thiết chế kiểm tốn
Nhà nước. Bộ máy nhà nước bước đầu được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn
gắn với tinh giản biên chế, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Hoạt động của Quốc hội trong xây dựng pháp luật, giám sát tối cao và
quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước có nhiều đổi mới, chất
lượng và hiệu quả được nâng cao. Quốc hội đã ban hành được nhiều nhiều bộ
luật, luật, pháp lệnh, thể chế hố đường lối, chính sách của Đảng, cụ thể hoá
các quy định của của Hiến pháp nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Quy trình xây dựng
pháp luật ngày càng được cải tiến và khơng ngừng hồn thiện.Vai trò, trách
nhiệm


của đại biểu Quốc hội thể hiện rõ hơn. Hoạt động của Hội đồng nhân dân các
cấp có nhiều đổi mới. Hoạt động của Chính phủ và các bộ, ngành chủ động,
tích cực, tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô; tháo gỡ các rào cản;
phục vụ, hỗ trợ phát triển. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp trên một số
lĩnh vực có bước đột phá. Tổ chức bộ máy của toà án nhân dân, viện kiểm sát
nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn,
chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân; tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền
con người, quyền cơng dân. Tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương
được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn; quan tâm xây dựng chính quyền đơ thị,

chính quyền nơng thơn, khẩn trương triển khai xây dựng chính quyền điện tử.
Tổng kết 35 năm đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng đã đánh giá:“Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có
nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy Nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động
hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp”10.
1.2.2. Về hạn chế, khuyết điểm

Bên cạnh những thành tựu đạt được, xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩavẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm:
Vấn đề đổi mới đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hố, xã
hội, giữa đổi mới kinh tế với đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước có một số mặt cịn lúng túng. Cơ chế kiểm sốt quyền lực chưa hồn
thiện; vai trị giám sát của nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ.
Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng
kịp thời yêu cầu thực tiễn. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ
cương, phép nước có nơi cịn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp

10

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H.2021, tr.71


thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp
chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước.
Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương chưa đổi mới mạnh
mẽ; chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa thật rõ ràng, hiệu lực,
hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Số lượng cán bộ cấp xã và đội ngũ viên chức
trong các đơn vị sự nghiệp cơng vẫn cịn q lớn; phẩm chất, năng lực, uy tín
cịn hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ

trong tình hình mới.
Tổng kết 35 năm đổi mới, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ
những hạn chế, khuyết điểm, đó là:“Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và
quản lý đất nước trong tình hình mới” 11.Những hạn chế, yếu kém trong lĩnh
vực xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã gây ra những khó
khăn, cản trở, làm hạn chế thành tựu của đất nước, trong một số lĩnh vực còn
tạo nên bức xúc xã hội.
1.3. Xuất phát từ bối cảnh tình hình mới và những thời cơ, thách
thức tác động đến phương hướng, mục tiêu xây dựng và hoàn thiện Nhà
nướcpháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian tới
Hiện nay, trong giai đoạn cách mạng mới, thế giới đã có nhiều thay đổi
và diễn biến phức tạp, khó lường. Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá toàn
diện, sâu sắc về cục diện và những xu hướng lớn. Cách nhìn nhận biện chứng
cả hai mặt thách thức và cơ hội của tình hình thế giới được thể hiện trên một
số nét lớn là:
Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh
chóng, phức tạp, khó dự báo. Hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế
lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược
giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức,
phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với mơi trường kinh tế,
chính trị, an ninh quốc
11

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H.2021, tr.89


tế.Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang bị thách
thức bởi sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn và sự trỗi dậy của chủ
nghĩa dân tộc cực đoan. Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu

đứng trước những thách thức lớn.
Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm;
các nước lớn vẫn hợp tác, thỏa hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay
gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ
nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng. Các nước đang phát triển,
nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới.
Kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thối nghiêm trọng và có thể
cịn kéo dài do tác động của đại dịch Covid-19. Các quốc gia, nhất là các
nước lớn điều chỉnh chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên
ngoài, làm thay đổi các chuỗi cung ứng. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh
thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân
lực chất lượng cao, thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng quyết
liệt, tác động mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát
triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức
đối với mọi quốc gia, dân tộc.
Những vấn đề toàn cầu, như: bảo vệ hịa bình, an ninh con người, thiên
tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh
mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường… tiếp tục diễn
biến phức tạp.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đơng Nam Á có vị trí
chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các
cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền
biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hịa bình, ổn định, tự
do, an ninh, an tồn hàng hải, hàng khơng trên Biển Đơng đứng trước thách
thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. ASEAN có vai trị quan trọng trong duy
trì hịa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng cũng đứng trước nhiều
khó khăn.



Qua35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn
diện so với những năm trước đổi mới. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ
đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.Đây là niềm tự hào, là động
lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, tồn dân và tồn qn ta
vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất
nước, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát
triển nhanh và bền vững đất nước.
Tuy nhiên, nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế,
yếu kém, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới do tác động của đại địch
Covid-19 và khủng hoảng kinh tế tồn cầu gây ra.Xu hướng già hóa dân số
nhanh; tốc độ cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa tăng mạnh; đặc biệt biến đổi khí
hậu, thiên tai, dịch bệnh gay gắt, phức tạp… ngày càng tác động mạnh đến sự
phát triển của đất nước.
Bốn nguy cơ mà Đảng chỉ ra cịn tồn tại, có mặt cịn gay gắt hơn. Nguy
cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình cịn lớn. Có biểu hiện chưa quan
tâm đúng mức bảo đảm phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát
triển văn hóa, bảo đảm phúc lợi xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
trong phát triển kinh tế thị trường; chưa bảo đảm phát triển tổng thể, đồng bộ
các vùng, miền, địa phương theo lợi thế so sánh và phát huy điều kiện kinh tế
- xã hội đặc thù. Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thối về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như
những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục
tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta. Bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định
và thích ứng với biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp thiết, đồng thời là những
thách thức rất lớn đối với nước ta trong thời gian tới.



Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn,
thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp
hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Đặc biệt trong điều kiện
hiện nay, những thách thức phi truyền thống đang tác động mạnh mẽ đến mọi
ngõ ngách của đời sống xã hội như tình hình dịch bệnh covid-19, biến đổi khí
hậu, cạnh tranh… đặt ra yêu cầu xây dựng nhà nước đủ sức mạnh để quản lý
xã hội, hóa giải những thách thức, tận dụng và phát huy những thuận lợi đưa
đất nước phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của đất nước ta trong thời kỳ mới đòi hỏi phải tiếp
tục đẩy mạnh, thực hiện tốt hơn, có hiệu quả hơn nhiệm vụ xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
II. NỘI DUNG VẬN DỤNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN
DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH

Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của đất nước ta trong
thời kỳ mới, để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩađặt ra yêu cầu phải vận dụng toàn diện các quan điểm của tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng Nhà nước kiểu mới của của Nhân dân, do Nhân dân và
vì Nhân dân, trong đó tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
2.1. Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân, tính Nhân
dân, tính dân tộc của Nhà nước
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và vì dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã hàm chứa sự thống nhất không thể tách rời giữa
bản chất giai cấp cơng nhân với tính nhân dân và tính dân tộc. Suy rộng ra,
chúng ta thấy Người đã giải quyết thành công mối quan hệ biện chứng giữa
Nhà nước với các bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị, hợp thành cơ
chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Vì vậy, Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố cơ bản,

quyết định tính định hướng chính trị của Nhà nước. Đảm bảo sự lãnh đạo của
Đảng


đối với Nhà nước là vấn đề cốt lõi quyết định sự tồn vong của Nhà nước - của
chế độ chính trị xã hội ta. Do đó, cần phải tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng
toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương
thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam khơng chỉ dựa trên liên minh
cơng nơng mà cịn là khối đại đồn kết tồn dân tộc mà nịng cốt là liên minh
cơng nhân, nơng dân và tầng lớp trí thứcdo giai cấp công nhân lãnh đạo. Tại
kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, Quốc
hội đã ủy nhiệm cho Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập một Chính phủ mới.
Trong lời tuyên bố sau khi thành lập, Người nói: "Chính phủ mới phải tỏ
rõ cái tinh thần đại đồn kết, khơng phân đảng phái... là Chính phủ tồn
quốc có đủ nhân tài Trung, Nam, Bắc tham gia"12. Vì vậy, vận dụng tư
tưởng hồ Chí Minh cần phải thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội
chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng
cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh,Nhà nước được tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây cũng là biểu hiện bản chất giai cấp
công nhân của Nhà nước ta. Hiến pháp năm 1946 và năm 1959 do Hồ Chí
Minh trực tiếp chỉ đạo việc soạn thảo và được Quốc hội khoá I nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hồ thơng qua đều thể hiện rõ nguyên tắc tổ chức và
hoạt động trên đây của chính quyền Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Vì
vậy, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa đòi hỏi phải quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập
trung dân chủ.


12

Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 430


Như vậy, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do
dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đòi hỏi phải giữ vững và tăng cường
bản chất giai cấp cơng nhân, tính Nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước.
2.2. Đẩy mạnh tinh giản bộ máy, nâng cao phẩm chất và năng lực
quản lý, điều hành của cán bộ, cơng chức Nhà nước
Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một bộ máy nhà nước hiện đại, dân
chủ, có hiệu lực; bộ máy đó phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của
từng giai đoạn. Nguyên tắc chung để xây dựng bộ máy nhà nước theo Hồ Chí
Minh là:
- Xây dựng quốc hội là cơ quan lập pháp cao nhất.
- Xây dựng một Chính phủ hoạt động có hiệu quả và dó là cơ quan
hành chính cao nhất.
- Nền hành chính quốc gia hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân.
- Xây dựng một bộ máy tư pháp hiện đại, có hiệu lực. Tồ án được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc của cơ quan tài phán, nghĩa là độc lập với
cơ quan hành chính, trong xét xử có phụ thẩm nhân dân tham gia; thẩm phán
do nhà nước bổ nhiệm; phiên toà xét xử công khai, quyền bào chữa của các bị
cáo được bảo đảm, trong quá trình xét xử các thẩm phán chỉ tuân theo pháp
luật, các cơ quan khác không được can thiệp.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa hiện nay, địi hỏi phải tiếp tục đổi mới, hồn thiện tổ chức bộ
máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả,
đồng bộ với đổi mới kinh tế, văn hoá, xã hội, con người..., đáp ứng yêu cầu

nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hồn thiện mơ hình tổ chức của hệ
thống chính trị, khắc phục sự chồng chéo và những bất hợp lý trong tổ chức
của Đảng và tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Đẩy mạnh thực hiện tinh
giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức theo vị
trí việc làm.


Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng
lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước. Tăng cường kỷ
luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách đãi ngộ, tạo
mơi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát
triển; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích
bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi
mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành
động vì lợi ích chung. Đồng thời, có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những
người khơng hồn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo
đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, khơng cịn uy tín đối với nhân dân.
2.3. Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ thực sự của Nhân dân
Những nội dung chính của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới
có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện rất rõ và đề cao yêu cầu
dân chủ triệt để trong xây dựng nhà nước pháp quyền. Đây là tư tưởng rất
quan trọng, khẳng định bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là đỉnh cao của
nền dân chủ, vì nó thừa nhận quyền tự do bình đẳng của cơng dân, thừa nhận
nhân dân là chủ thể quyền lực. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn xác định mục tiêu cao cả nhất là
vì con người, mọi hoạt động của Nhà nước luôn hướng tới mục tiêu phục vụ

con người - chủ thể sáng tạo xã hội. Để đảm bảo thực thi đúng, đủ quyền lực
mà nhân dân giao, có dân chủ triệt để cần phải xây dựng, củng cố, hoàn thiện,
đổi mới nội dung phương thức hoạt động của Nhà nước; trong quản lý và điều
hành xã hội, Nhà nước cần thực hiện mở rộng dân chủ hóa, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, gắn với kỷ luật,
kỷ cương và tăng cường pháp chế. Nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại
diện, mở rộng và có cơ chế từng bước thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp một
cách thiết thực, đúng hướng và có hiệu quả, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực
hiện tốt, có hiệu quả phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
dân giám sát, dân thụ hưởng".Xây dựng,


hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là điều kiện bảo đảm và mở
rộng quyền dân chủ thực sự, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Mặt
khác, để xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp quyền phải coi trọng việc xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật đó phải thể hiện
quyền làm chủ của nhân dân và thể chế hóa thành các quy định mang tính
pháp quyền, thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nước, cũng như
các thiết chế chính trị khác, tạo nên chế độ dân chủ. Đồng thời, chính xây
dựng, hồn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, chặt chẽ sẽ là cơ sở pháp lý xác
lập nền tảng dân chủ, là điều kiện bảo đảm cho việc xây dựng nhà nước pháp
quyền, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ và phát huy quyền con
người.
2.4. Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ, cơng chức
Bộ máy nhà nước có trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả hay
khơng, phụ thuộc trước hết vào những con người trong tổ chức bộ máy đó. Do
vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng nhà nước mới phải bắt đầu từ công
việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ vừa có đức, vừa có tài, vừa hồng, vừa
chuyên, “là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(12). Người khẳng
định: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải

thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân
chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho
đúng”(13), đáp ứng yêu cầu và lợi ích chính đáng của nhân dân. Cán bộ là gốc
của mọi cơng việc, “Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong. Mn việc thành cơng
hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”(14). Vì vậy, “huấn luyện cán bộ là
công việc gốc của Đảng”(15). Để tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy nhà nước,
chuyển đổi mạnh mẽ mơ hình và cơ chế quản lý theo hướng phục vụ, kiến tạo
phát triển, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, địi hỏi phải xây dựng đội ngũ
cán bộ, cơng chức vừa có đức, vừa có tài, ngang tầm nhiệm vụ, đặc biệt là chú
trọng bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất đạo đức, lý tưởng cách mạng, trình độ
chun mơn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, để họ trở thành
những nhà lãnh đạo tài giỏi, u nước, liêm, chính, chí cơng. Từ đó, tạo ra


những chuyển động mang tính bước ngoặt trong tiến trình phát triển đất nước
và trong xây dựng Nhà nước


theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng về “xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng
cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành và năng lực kiến tạo phát triển”...
2.5. Đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí
Kế thừa và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, những năm qua, Đảng ta
đã lãnh đạo cả hệ thống chính trị và tồn xã hội kiên quyết, kiên trì đấu tranh
phịng, chống tham nhũng, lãng phí một cách triệt để và có hiệu quả ngày
càng cao hơn. Tuy nhiên, cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí ở một
số địa phương, bộ, ngành chưa có chuyển biến rõ rệt; cơng tác phịng ngừa
tham nhũng ở một số nơi cịn hình thức. Việc phát hiện, xử lý tham nhũng,
lãng phí vẫn cịn hạn chế, nhất là việc tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham
nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan, đơn vị cịn yếu; tình trạng nhũng nhiễu,

tiêu cực trong khu vực hành chính, dịch vụ cơng chưa được đẩy lùi. Tham
nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp,
với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng
vẫn là một trong những nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta. Vì
vậy, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, địi hỏi phải kiên quyết, kiên trì đấu
tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, với quyết tâm chính trị cao
hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn. Kết hợp chặt chẽ giữa
tích cực phịng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời
những hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham
nhũng, can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng, lãng phí, khơng có vùng
cấm, khơng có ngoại lệ. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị
và của tồn dân; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức,
hành chính, kinh tế, hình sự.
Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về kinh tế - xã hội, về kiểm tra, giám sát và phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, nhất là các quy định về kiểm sốt quyền lực, trách nhiệm
người đứng đầu, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh
bạch; cơ chế bảo vệ, khuyến khích những người làm cơng tác kiểm tra, giám
sát, phát hiện, xử lý tham



×