Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận tn vận dụng quan điểm triết học mác lênin về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội vào nhận diện đặc điểm ý thức xã hội ở nƣớc ta hiện nay ý nghĩa đối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.2 KB, 30 trang )

Điểm

TIỂU LUẬN TỐT
NGHIỆP

Số phách
(Do ban khảo thí
ghi)

Họ và tên: DƢƠNG BÁ LỘC

Người chấm
(Ký ghi rõ họ tên)

Ngày sinh: 04/11/1983

Ngày nộp: 24/8/2022

Lớp, trường: Hồn chỉnh chƣơng trình CLLCT/; Khóa: 11

Chủ đề: Vận dụng quan điểm triết học Mác Lênin về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội vào nhận diện đặc điểm ý thức xã hội
ở nƣớc ta hiện nay. Ý nghĩa đối với cán bộ chính
trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
Khoa: Triết học Mác - Lênin
Lớp, trường: Hồn chỉnh Chƣơng trình Cao
cấp lý luận chính trị/
Khóa: 11

Ngày nộp: 24/8/2022


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Số phách
(Do ban khảo thí ghi)

Bằng số

Bằng chữ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I

QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ Ý THỨC
XÃ HỘI

1.1
1.2
2
2.1
2.2
3
4
4.1
4.2
4.3
4.4


Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại
xã hội
Khái niệm tồn tại xã hội
Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
Khái niệm, bản chất ý thức xã hội
Khái niệm ý thức xã hội
Bản chất của ý thức xã hội
Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Tính độc lập tƣơng đối của ý thức xã hội
Tính lạc hậu của ý thức xã hội
Tính vƣợt trƣớc của ý thức xã hội
Tính kế thừa của ý thức xã hội
Sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội

II

Ý THỨC XÃ HỘI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1

1
1.1
1.2
2
III

1
2
3


Nội dung, tính chất ý thức xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Nội dung ý thức xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Tính chất ý thức xã hội mới ở Việt Nam hiện nay
Một số vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng ý thức xã
hội mới trong đời sống xã hội ở Việt Nam hiện nay
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CÁN BỘ CHÍNH TRỊ TRONG QUÂN
ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

Ý nghĩa đối với cán bộ chính trị trong Quân đội
Biện pháp xây dựng ý thức xã hội trong đời sống quân nhân
trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
Trách nhiệm của bản thân

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
1
1
1
1
1
2
2
2
4
7
7

8
9
10
11
11
11
13
15
18
18
19
23
26
27


MỞ ĐẦU

Trong hệ thống lý luận của triết học Mác - Lênin, vấn đề ý thức xã hội
là một nội dung quan trọng góp phần tạo cơ sở lý luận cho quan điểm duy vật
về lịch sử, và cùng với học thuyết giá trị thặng dƣ, đã trở thành hai phát kiến
vĩ đại của chủ nghĩa Mác. Nhận thức sâu sắc những vấn đề lý luận về ý thức
xã hội của triết học Mác - Lênin và vận dụng hợp lý chúng trong xây dựng ý
thức xã hội mới nói riêng và đời sống tinh thần nói chung sẽ góp phần thiết
thực vào thành công của công cuộc xây dựng đất nƣớc.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, xã hội vận động theo
hƣớng đa phƣơng hóa, đa dạng hóa, vừa hợp tác vừa đấu tranh, đan xen vô
cùng đa dạng và phức tạp. Để xây dựng ý thức xã hội mới của Việt Nam trong
tình hình hiện nay, đòi hỏi Đảng ta phải định ra quan điểm, đƣờng lối và
chính sách khoa học, phù hợp với thực tiễn, cùng với việc thúc đẩy sự phát

triển nền kinh tế, đồng thời phải xây dựng và phát triển đời sống tinh thần của
xã hội và ý thức xã hội là nội dung quan trọng để phát triển đất nƣớc nhanh
và bền vững theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, khẳng định vững chắc hơn
nữa vị thế và uy tín nƣớc ta trên trƣờng quốc tế.


1
NỘI DUNG

I. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ Ý THỨC XÃ
HỘI
1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
1.1. Khái niệm tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội. Tồn tại xã hội của con ngƣời là thực tại xã hội khách
quan, là một kiểu vật chất xã hội, là các quan hệ xã hội vật chất đƣợc ý thức
xã hội phản ánh. Trong các quan hệ xã hội vật chất ấy thì quan hệ giữa con
ngƣời với giới tự nhiên và quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời là những
quan hệ cơ bản nhất.
1.2. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản là phƣơng thức sản xuất vật
chất, điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số,… Trong
đó phƣơng thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Trong Lời tựa cuốn
Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị C.Mác viết: “Phƣơng thức sản xuất
đời sống vật chất quyết định các q trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh
thần nói chung. Khơng phải ý thức của con ngƣời quyết định tồn tại của họ;
trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”. Với khẳng định này
C.Mác đã khắc phục triệt để chủ nghĩa duy tâm, xây dựng quan điểm duy vật
lịch sử về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, về vai trò quyết
định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội. Tƣơng tự nhƣ vậy, trƣớc đó

trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi đến kết luận rằng, toàn
bộ gốc rễ của sự phát triển xã hội loài ngƣời, kể cả ý thức của con ngƣời, đều
nằm trong và bị quy định bởi sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội,
nghĩa là “không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết
định ý thức”, “do đó ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là
nhƣ vậy chừng nào con ngƣời cịn tồn tại”. Đây chính là điểm cốt lõi của
nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.


2. Khái niệm, bản chất ý thức xã hội
2.1. Khái niệm ý thức xã hội
Ý thức xã hội chỉ là một lĩnh vực thuộc đời sống tinh thần và không bao
hàm toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Ý thức xã hội có nhiều đặc điểm
phức tạp, nhƣng về bản chất nó là cái đi phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã
hội sinh ra và quyết định. Theo đó có thể hiểu: Ý thức xã hội thuộc lĩnh vực
đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm tồn bộ những quan điểm, tư tưởng,
tình cảm, tâm trạng, tập quán, truyền thống, v.v.. được nảy sinh từ tồn tại xã
hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Đúng
nhƣ các nhà kinh điển khẳng định: “Không phải ý thức của con ngƣời quyết
định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”.
Nhƣ vậy, ý thức xã hội gồm các bộ phận khác nhau và quan hệ hữu cơ
với nhau, trong tính chỉnh thể thống nhất. Tuỳ vào cách tiếp cận, có thể xem
xét ý thức xã hội theo các kết cấu khác nhau. Theo trình độ phản ánh, ý thức
xã hội tồn tại ở các cấp độ là: ý thức xã hội thông thƣờng và ý thức lý luận.
Ý thức xã hội thông thƣờng là những tri thức, những quan niệm của
con ngƣời hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày,
chƣa đƣợc hệ thống hoá và khái qt hố. Cịn ý thức lý luận là những quan
điểm, tƣ tƣởng đƣợc khái quát hoá, hệ thống hố thành các học thuyết xã hội
và đƣợc trình bày dƣới dạng các khái niệm, phạm trù, quy luật. Tồn tại ở cấp
độ cao, ý thức lý luận (lý luận khoa học) có khả năng phản ánh hiện thực

khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra đƣợc các mối
liên hệ bản chất của sự vật, hiện tƣợng.
2.2. Bản chất của ý thức xã hội
Theo quan điểm duy vật lịch sử bản chất ý thức xã hội chỉ là sự phản
ánh tồn tại xã hội, bị quy định, phụ thuộc vào tồn tại xã hội và khúc xạ qua
lăng kính chủ quan của chủ thể cộng đồng. Trong xã hội có sự phân chia giai
cấp thì ý thức xã hội có tính giai cấp sâu sắc và khơng có ý thức xã hội chung
cho tất


cả các giai cấp. Những giai cấp khác nhau có điều kiện sinh hoạt vật chất, địa
vị giai cấp và lợi ích khác nhau, cho nên có quan điểm, tƣ tƣởng, tâm lý khác
nhau và đối lập nhau. Giai cấp nắm tƣ liệu sản xuất vật chất thì chi phối luôn
cả tƣ liệu sản xuất tinh thần, nhƣ hệ thống thông tin, tuyên truyền, giáo dục
làm cho tƣ tƣởng của giai cấp thống trị thƣờng bao trùm, phổ biến trong xã
hội. Tính giai cấp của ý thức xã hội đƣợc biểu hiện ở cả tâm lý xã hội và hệ
tƣ tƣởng. Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói
quen riêng và có thái độ khác nhau đối với tập đoàn xã hội này, hoặc xã hội
khác.
Tính giai cấp của ý thức xã hội đƣợc biểu hiện tập trung và sâu sắc ở
hệ tƣ tƣởng. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, bao giờ cũng có những quan
điểm tƣ tƣởng, hoặc những hệ tƣ tƣởng đối lập nhau. Có tƣ tƣởng của giai
cấp thống trị, bóc lột và có tƣ tƣởng của giai cấp bị thống trị, bị bóc lột.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Giai cấp nào chi phối những tƣ liệu sản xuất
vật chất thì cũng chi phối ln cả những tƣ liệu sản xuất tinh thần, thành thử
nói chung tƣ tƣởng của những ngƣời khơng có tƣ liệu sản xuất tinh thần
cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi phối”.
Trong lịch sử cũng nhƣ hiện nay, giai cấp thống trị bóc lột ln tìm
mọi cách xố nhồ, phủ nhận tính giai cấp của ý thức xã hội nhằm che dấu
bản chất phản động, phản khoa học trong hệ tƣ tƣởng của chúng. Hiện nay,

để che dấu bản chất phản động, phản khoa học của hệ tƣ tƣởng tƣ sản, các
học giả tƣ sản đang ra sức tuyên truyền cho quan điểm “hoà đồng hệ tƣ
tƣởng”; “giải thể hệ tƣ tƣởng” để phủ nhận tính giai cấp của ý thức xã hội và
xuyên tạc, phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin. Bởi vậy, cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực ý thức hệ hiện nay vẫn
đang diễn ra hết sức gay gắt và phức tạp.
Trong khi khẳng định tính giai cấp của ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật
lịch sử không phủ nhận đặc điểm của tâm lý dân tộc. Trong ý thức xã hội,
ngoài tâm lý và hệ tƣ tƣởng của giai cấp còn bao gồm tâm lý dân tộc, đó là
tình cảm, tập qn, truyền thống, tính cách, v.v.. của dân tộc, phản ánh những


điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc và thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống
tinh thần của mỗi dân tộc. Tâm lý dân tộc tuy phản ánh những điều kiện sinh
hoạt chung của dân tộc, nhƣng có mối liên hệ hữu cơ với ý thức giai cấp. Có
thể nhận thấy, trong một dân tộc những ngƣời thuộc các giai cấp khác nhau
trong xã hội, nhƣng lại có những nhân tố tâm lý, tính cách dân tộc gần giống
nhau. Giai cấp cấp tiến bộ, cách mạng sẽ phát huy những giá trị tinh thần của
dân tộc. Ngƣợc lại, tƣ tƣởng của giai cấp thống trị phản động thƣờng mâu
thuẫn sâu sắc với các giá trị tinh thần đó và chúng thƣờng xuyên lợi dụng mặt
lạc hậu, tiêu cực của tập quán, truyền thống để chống lại tƣ tƣởng tiến bộ của
giai cấp cách mạng.
Từ các vấn đề trên cho thấy, suy cho cùng, bản chất ý thức xã hội chi là
sự phản ánh tồn tại xã hội, bị quy định bởi tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại
xã hội. Tuy nhiên, đó khơng phải là sự phản ánh một cách giản đơn, trực tiếp
mà đa dạng, phong phú bằng nhiều hình thức đặc thù, trải qua các khâu trung
gian. Không phải bất cứ tƣ tƣởng, quan điểm, lý luận hình thái ý thức xã hội
nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại mà
chỉ xét đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế đƣợc
phản ánh bằng cách này, cách khác trong các tƣ tƣởng ấy. Mặt khác, sự phản
ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội còn bị chi phối bởi cái chủ quan

của chủ thể cộng đồng phản ánh (nhƣ trình độ phản ánh, thế giới quan, góc
tiếp cận, đặc biệt là lợi ích).
3. Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Tồn tại xã hội là toàn bộ điều kiện sinh hoạt vật chất và quan hệ vật
chất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Tồn tại xã hội bao gồm
hoàn cảnh địa lý; điều kiện dân số và phƣơng thức sản xuất của xã hội. Các
yếu tố này hợp nhất với nhau tạo thành nền tảng vật chất cho sự tồn tại và
phát triển của xã hội. Trong ba yếu tố trên thì phƣơng thức sản xuất là yếu tố
cơ bản nhất và quyết định nhất. Các nhà kinh điển mácxít khẳng định,
phƣơng thức sản xuất quyết định các q trình sinh hoạt xã hội, chính trị và
tinh thần


nói chung. Thực tiễn cho thấy, sự biến đổi của các phƣơng thức sản xuất đã
đƣa tới sự biến đổi và thay thế các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử từ
thấp đến cao.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, tồn tại xã hội và ý thức xã hội có
mối quan hệ biện chứng với nhau, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội và do
tồn tại xã hội quyết định.
Các nhà kinh điển mácxít khẳng định rằng, đời sống tinh thần xã hội
đƣợc hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất và do đời sống
vật chất quyết định. C.Mác khẳng định: "Không phải ý thức của con ngƣời
quyết định sự tồn tại của họ, trái lại tồn tại xã hội quyết định ý thức của họ”.
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội cả về nguồn gốc, nội dung, tính
chất và sự biến đổi của nó. Với luận điểm khẳng định trên, chủ nghĩa duy vật
lịch sử đã bác bỏ những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm muốn đi
tìm nguồn gốc của ý thức tƣ tƣởng trong bản thân ý thức tƣ tƣởng và xem
tinh thần, tƣ tƣởng là nguồn gốc của mọi hiện tƣợng xã hội, quyết định sự
phát triển của lịch sử xã hội. Ý thức xã hội là cái đi phản ánh tồn tại xã hội, do
vậy tồn tại xã hội thế nào thì ý thức xã hội có tính chất và nội dung ấy,

trong xã hội có giai cấp ý thức xã hội ln mang tính giai cấp sâu sắc. Thực
tiễn lịch sử cho thấy, ở các giai đoạn lịch sử khác nhau ý thức xã hội có
những đặc điểm khác nhau. Nếu tồn tại xã hội hiện thực khơng có sự đối lập
về địa vị, lợi ích giữa các tập đồn ngƣời, các giai cấp thì tƣ tƣởng xã hội
mang tính thuần nhất và khơng có đối kháng. Trong xã hội cộng sản nguyên
thuỷ do đời sống vật chất cịn rất thấp kém và khơng có sự đối lập nhau về địa
vị, lợi ích kinh tế - vật chất cho nên ý thức xã hội mang tính thuần nhất, giản
đơn. C. Mác và PhĂngghen chỉ rõ, ý thức xã hội trong xã hội cộng sản
nguyên thuỷ cũng mang tính động vật nhƣ chính đời sống xã hội ở giai đoạn
ấy, đó là „„ý thức quần cƣ” đơn thuần.


Sự tan rã của xã hội cộng sản nguyên thuỷ làm cho „„ý thức quần cƣ‟‟ của
xã hội đó cũng mất đi theo và đƣa tới sự ra đời của xã hội chiếm hữu nô lệ,
chế độ xã hội đầu tiên có giai cấp và đối kháng giai cấp. Sự đối lập nhau giữa
các giai cấp về địa vị, điều kiện sinh hoạt vật chất đầu tiên này đã đƣa tới sự
đối lập sâu sắc về tƣ tƣởng. Sự ra đời của chế độ xã hội phong kiến và chế độ
xã hội tƣ bản chủ nghĩa đã đƣa tới sự biến đổi tƣơng ứng của ý thức xã hội.
Do cơ sở kinh tế và giai cấp quy định, vì vậy ý thức xã hội trong xã hội phong
kiến và tƣ bản chủ nghĩa cũng có tính đối kháng. C.Mác viết: “Không thể
nhận định về một thời đại đảo lộn nhƣ thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy.
Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật
chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lƣợng sản xuất xã hội và những
quan hệ sản xuất xã hội”. Nhƣ vậy, tồn tại xã hội khơng chỉ quyết định đến
nội dung và tính chất của ý thức xã hội mà còn quyết định sự biến đổi của ý
thức xã hội. Khi tồn tại xã hội thay đổi, nhất là phƣơng thức sản xuất thay đổi
thì ý thức xã hội sớm muộn phải thay đổi theo.
Trong quan hệ biện chứng với ý thức xã hội, cả ba yếu tố của tồn tại xã
hội đều tham ra quyết định ý thức xã hội, song vai trị của từng yếu tố là
khơng ngang bằng nhau. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội chủ yếu là

phản ánh phƣơng thức sản xuất vật chất, mà trực tiếp là quan hệ sản xuất
trong từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.
Trong quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, ý thức
xã hội có tác động to lớn trở lại tồn tại xã hội. Sự tác động này phản ánh tính
độc lập tƣơng đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Ph.Ăngghen khẳng
định: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tơn giáo, văn học, nghệ
thuật.v.v… đều đƣợc dựa trên sự phát triển kinh tế. Nhƣng tất cả cũng có ảng
hƣởng lẫn nhau và ảnh hƣởng đến cơ sở kinh tế”.
Vai trò của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội đƣợc thực hiện qua hoạt
động thực tiễn của con ngƣời, của các giai cấp trong nhận thức và cải tạo xã
hội. Tính chất và hiệu quả của sự tác động trở lại này phụ thuộc vào những
điều kiện cụ thể, nhƣ trình độ phù hợp của tƣ tƣởng đối với đời sống hiện


thực; vai trò lịch sử của giai cấp đề ra tƣ tƣởng đó là tiến bộ hay phản động;
mức độ truyền bá, thâm nhập của tƣ tƣởng đó vào quần chúng. Sự tác động
của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội có thể diễn ra trên hai chiều hƣớng, ý
thức xã hội tiên tiến góp phần thúc đẩy xã hội phát triển; ngƣợc lại, ý thức xã
hội lạc hậu, phản động sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tƣ tƣởng khoa học và cách mạng phản
ánh đúng quy luật của lịch sử, là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động trong cuộc đấu tranh đánh đổ chủ nghĩa tƣ bản, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp cách mạng ở nƣớc ta hiện nay, cần
tiếp tục phát triển và truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng ta trong đời sống xã hội; đồng thời, kiên
quyết đấu tranh loại bỏ những tƣ tƣởng sai lầm, phản động xâm nhập vào đời
sống tinh thần của nhân dân ta.
4. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
4.1. Tính lạc hậu của ý thức xã hội
Ý thức xã hội có tính lạc hậu tƣơng đối so với tồn tại xã hội. Là cái đi

phản ánh, ý thức xã hội thƣờng phản ánh không kịp sự vận động, phát triển
của tồn tại xã hội và mất đi chậm hơn sau khi tồn tại xã hội sinh ra nó đã mất
đi, bởi các nguyên nhân cơ bản sau:
Một là, do tồn tại xã hội thƣờng xuyên vận động, biến đổi, ý thức xã
hội phản ánh không kịp thời và trở nên lạc hậu. Mặt khác, ý thức xã hội là cái
đi phản ánh, nên nói chung nó chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại
xã hội.
Hai là, do sức mạnh của thói quen, tập qn, nếp nghĩ và tính bảo thủ
lạc hậu của một số hình thái ý thức xã hội.
Ba là, tính lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội cịn có ngun
nhân từ quan hệ lợi ích. Những tƣ tƣởng lạc hậu thƣờng đƣợc các giai cấp,
các lực lƣợng phản tiến bộ lợi dụng lƣu giữ và truyền bá nhằm chống lại các
lực lƣợng tiến bộ, cách mạng.


Tính lạc hậu của ý thức xã hội làm cho tính chất cuộc đấu tranh tƣ
tƣởng trở nên phức tạp hơn trong điều kiện xây dựng xã hội mới. Vì vậy,
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta hiện nay phải thƣờng
xuyên tăng cƣờng công tác tƣ tƣởng; kiên trì đấu tranh xố bỏ các tàn dƣ tƣ
tƣởng, ý thức lạc hậu. Mặt khác, phải kiên quyết đấu tranh làm thất bại các
âm mƣu chống phá của các thế lực thù địch về mặt tƣ tƣởng, làm cho chủ
nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống
tinh thần của nhân dân ta.
4.2. Tính vượt trước của ý thức xã hội
Khi khẳng định tính thƣờng lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại
xã hội, triết học Mác - Lênin cũng thừa nhận tính vƣợt trƣớc của ý thức xã
hội so với tồn tại xã hội. Tính phản ánh vƣợt trƣớc của ý thức xã hội chỉ xuất
hiện ở một bộ phận những tƣ tƣởng khoa học, tiên tiến. Những tƣ tƣởng này
có khả năng phản ánh sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tƣợng trong
tƣơng lai và hình thành các dự báo khoa học. Các dự báo khoa học này có tác

dụng chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con ngƣời, hƣớng hoạt động của con
ngƣời và của các giai cấp vào giải quyết các nhiệm vụ mới do sự phát triển
chín muồi của đời sống thực tiễn đặt ra.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận khoa học và cách mạng đã
chỉ ra quy luật phát triển khách quan của lịch sử và đƣa ra dự báo khoa học về
sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội. Từ giữa thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã nghiên cứu chủ nghĩa tƣ bản, tìm ra quy luật phát sinh, phát triển, diệt
vong của nó và luận chứng cho tính tất yếu của cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa, của sự thay thế xã hội tƣ bản chủ nghĩa bằng xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Dự báo đó của C.Mác và Ph.Ăngghen đã trở thành hiện thực bằng
sự thắng lợi của cách mạng tháng Mƣời Nga năm 1917.
Tính tiên tiến vƣợt trƣớc của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội không
trái với nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội của chủ nghĩa duy


vật lịch sử , mà còn làm cho nguyên lý này trở nên sâu sắc, tồn diện hơn. Bởi
vì, những tƣ tƣởng vƣợt trƣớc vẫn phải dựa trên nền tảng của tồn tại xã hội
hiện có mới có thể nảy sinh và dự báo đƣợc. Đây là cơ sở để xây dựng niềm
tin vào những dự báo khoa học; đấu tranh khắc phục các „niềm tin‟ hƣ ảo
duy tâm và thái độ duy ý chí trong nhận thức, hành động.
4.3. Tính kế thừa của ý thức xã hội
Kế thừa trong quá trình phát triển là quy luật chung của mọi sự vật,
hiện tƣợng. Quá trình phát triển của ý thức xã hội cũng khơng nằm ngồi tính
quy luật chung đó. Tính kế thừa là quy luật nội tại trong quá trình phát triển
của ý thức xã hội.
Tính kế thừa của ý thức xã hội biểu hiện sâu sắc nhất ở tiến trình phát
triển của tri thức nhân loại. Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội
cho phép thế hệ sau tiếp thu thành quả của thế hệ trƣớc và vận dụng vào thực
tiễn mới để phát triển cao hơn. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa và phát
triển những tinh hoa tƣ tƣởng nhân loại, trực tiếp nhất là triết học cổ điển

Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội khơng tƣởng Pháp.
Trong xã hội có giai cấp, tính kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính
giai cấp của nó. Giai cấp tƣ sản khi cịn đứng ở vị trí trung tâm của lịch sử đã
tiếp thu tƣ tƣởng duy vật, tiến bộ của thời cổ đại. Nhƣng khi trở lên lỗi thời,
lạc hậu giai cấp tƣ sản lại khôi phục những tƣ tƣởng duy tâm, phản động của
thời kỳ trƣớc để duy trì địa vị và lợi ích ích kỷ của chúng. Trong lịch sử, chỉ
có giai cấp cơng nhân mới thật sự trân trọng, giữ gìn, phát triển những giá trị
tƣ tƣởng quá khứ của dân tộc, nhân loại vào phát triển đời sống tinh thần lành
mạnh của xã hội một cách triệt để, khoa học trên lập trƣờng của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Thừa nhận tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội là cơ sở
khoa học để giải thích đúng đắn hiện tƣợng, một nƣớc có thể có trình độ phát
triển kinh tế không cao bằng dân tộc khác, nhƣng tƣ tƣởng lại có thể ở trình
độ cao hơn. Ví dụ, ở Pháp thế kỷ XVIII nền kinh tế không phát triển bằng


nƣớc Anh, nhƣng tƣ tƣởng lại có sự phát triển tiên tiến hơn. Ở Đức, đầu thế
kỷ XIX lạc hậu về kinh tế hơn Anh và Pháp, nhƣng đã đứng ở trình độ cao
hơn về triết học.
4.4. Sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội
Ý thức xã hội đƣợc biểu hiện dƣới nhiều hình thái cụ thể khác nhau,
mỗi hình thái phản ánh các mặt khác nhau của đời sống xã hội và có phƣơng
thức phản ánh riêng, có chức năng xã hội nhất định. Các hình thái ý thức cụ
thể ln tác động lẫn nhau, sự tác động này phản ánh quy luật nội tại trong
quá trình phát triển của ý thức xã hội.
Trong lịch sử, giữa khoa học và triết học thƣờng xuyên tác động qua lại
với nhau. ở thời kỳ cổ đại do khoa học chƣa phát triển vì vậy hình thái triết
học cũng chƣa phát triển. Khi khoa học phát triển đã cung cấp những căn cứ
cho sự khái quát triết học và đƣa tới sự xuất hiện của các hệ thống triết học
mới; mặt khác, sự phát triển của triết học đã tác động mạnh mẽ tới sự phát

triển của khoa học. Sự ra đời của triết học Mác - Lênin gắn liền với sự phát
triển của khoa học và thực sự là bƣớc ngoặt cách mạng trong lịch sử phát
triển triết học nhân loại. Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức
xã hội, vai trị của các hình thái là khơng ngang bằng nhau. ở phạm vi của mỗi
thời đại lịch sử có những hình thái ý thức nổi lên hàng đầu và có tác động
mạnh mẽ tới các hình thái ý thức xã hội khác. Tuy nhiên, xét đến cùng, trong
xã hội có giai cấp ý thức chính trị có vai trị to lớn nhất, nó chi phối các hình
thái ý thức xã hội khác cả về nội dung giai cấp và khuynh hƣớng phát triển.
Tính độc lập tƣơng đối của ý thức xã hội phản ánh bức tranh phức tạp
trong sự phát triển của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần nói chung. Đây
là cơ sở lý luận khoa học để vận dụng vào xây dựng, phát triển các hình thái ý
thức xã hội mới và đời sống tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa; đấu tranh
bác bỏ các quan điểm siêu hình, máy móc tầm thƣờng về mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và xã hội.


II. Ý THỨC XÃ HỘI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Nội dung, tính chất ý thức xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
1.1. Nội dung ý thức xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay
Sự hình thành ý thức xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự phát triển hệ tƣ
tƣởng của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tƣ sản, thủ tiêu
chủ nghĩa tƣ bản và xây dựng thành công xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Ý
thức xã hội chủ nghĩa là ý thức tốt đẹp và tiến bộ nhất lịch sử. Quá trình hình
thành, phát triển ý thức xã hội chủ nghĩa được kế thừa tồn bộ tri thức, tinh
hoa văn hố của nhân loại và dân tộc.
Nƣớc ta từ một nƣớc thuộc địa, nửa phong kiến, trải qua nhiều thập
niên chiến tranh…quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự phức tạp về nội dung càng

lớn. ý thức xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta có bộ
phận tiến bộ, có bộ phận lạc hậu sản phẩm của xã hội cũ nhƣ của chủ nghĩa
thực dân cũ, mới và của xã hội cổ truyền phƣơng Đông. Sự đan xen giữa các
bộ phận này tạo nên diện mạo ý thức xã hội ở nƣớc ta hiện nay phức tạp về
kết cấu, đa dạng về thành phần…
Bộ phận chủ yếu của ý thức xã hội ở nƣớc ta hiện nay là chủ nghĩa
Mác - Lênin. Bộ phận này đƣợc truyền bá vào từ những năm 20 của thế kỷ
XX và phát triển cùng với sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong các
bộ phận khác nhau của ý thức xã hội ở nƣớc ta hiện nay, chủ nghĩa Mác Lênin có ý nghĩa quyết định bản chất và xu hƣớng phát triển ý thức xã hội
theo chủ nghĩa xã hội. Sự thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc và
những thành tựu trong cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới đã chứng minh
chủ nghĩa Mác - Lênin từng bƣớc lớn mạnh, khẳng định vai trò quyết định
đối với sự phát triển ý thức xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.


Trong ý thức xã hội ở nƣớc ta hiện nay, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh có vị
trí quan trọng đặc biệt. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm, tƣ
tƣởng về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; là sự kế thừa, phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, truyền thống yêu nƣớc Việt Nam; đồng thời là
sản phẩm kế thừa, phát triển tinh hoa văn hoá của dân tộc và nhân loại. Tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh là ngọn đèn soi sáng con đƣờng cách mạng Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Hiện nay, Đảng ta xác định chủ nghĩa
Mác- Lênin cùng với tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là nền tảng tƣ tƣởng và kim chỉ
nam cho mọi hành động của Đảng và của cách mạng Việt Nam. Đây là bƣớc
phát triển mới trong khẳng định vai trò tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đối với cách
mạng Việt Nam và đối với phát triển ý thức xã hội ở nƣớc ta. Chủ nghĩa Mác
– Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là hạt nhân của ý thức xã hội chủ nghĩa ở
nƣớc ta hiện nay. Sự lớn mạnh của bộ phận này quyết định xu hƣớng phát
triển, bản chất xã hội chủ nghĩa của ý thức xã hội ở nƣớc ta.

Tƣ tƣởng yêu nƣớc của dân tộc ta là nội dung quan trọng trong ý thức
xã hội ở nƣớc ta hiện nay. ý thức xã hội chủ nghĩa không chỉ là sản phẩm của
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà còn có nội dung tƣ tƣởng sản phẩm
kế thừa di sản văn hoá, truyền thống dân tộc. Trong các di sản văn hoá truyền
thống, tƣ tƣởng yêu nƣớc Việt Nam là yếu tố cơ bản nhất trong ý thức xã hội
chủ nghĩa ở nƣớc ta. Tƣ tƣởng yêu nƣớc có từ lâu đời, là cốt cách và nền
tảng tƣ duy của con ngƣời Việt Nam, trở thành truyền thống quý báu. Truyền
thống đó đƣợc phát triển cao nhất, hồn bị nhất trong thời đại Hồ Chí Minh,
thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và là yếu tố có giá trị
đối với hình thành, phát triển ý thức xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta. Hiện nay, tƣ
tƣởng yêu nƣớc càng đƣợc phát triển bởi sự chú trọng của Đảng, Nhà nƣớc
và toàn dân ta.
Trong ý thức xã hội ở nƣớc ta hiện nay, tàn dƣ tƣ tƣởng của xã hội cũ
vẫn tồn tại, trong đó bộ phận tƣ tƣởng của giai cấp tƣ sản là khá lớn; là sản
phẩm tất yếu của sự thống trị nhiều thập niên của chủ nghĩa thực dân cũ, mới
và sự tuyên truyền chống phá Việt Nam bằng chiến lƣợc diễn biến hồ bình


của chủ nghiã đế quốc hiện nay. Thời kỳ Pháp thuộc, giai cấp tƣ sản Việt
Nam không lớn, nhƣng sự có mặt của chủ nghĩa thực dân cũ và mới hơn thế
kỷ đã để lại di sản tƣ tƣởng tƣ sản không nhỏ trong đời sống xã hội. Những
biểu hiện của tƣ tƣởng tƣ sản ở nƣớc ta hiện nay gồm: tƣ tƣởng cá nhân,
thực dụng chủ nghĩa; tƣ tƣởng của lối sống hiện sinh; của lối sống phƣơng
Tây. Hiện nay, những tƣ tƣởng trên vẫn còn cơ sở hiện thực cho sự tồn tại
của nó. Kinh tế tƣ bản tƣ nhân vẫn là một bộ phận của kinh tế thị trƣờng
định hƣớng xã hội chủ nghĩa, trong xu thế giao lƣu, hội nhập tăng lên thì tƣ
tƣởng tƣ sản vẫn tồn tại và không ngừng ảnh hƣởng mạnh mẽ đến mọi mặt
đời sống xã hội nƣớc ta hiện nay.
Ý thức xã hội ở nƣớc ta hiện nay còn tồn tại tƣ tƣởng, tâm lý, tập quán
của những ngƣời sản xuất nhỏ. Nó gồm những tƣ tƣởng vị kỷ, hẹp hòi thu

vén cá nhân, gia trƣởng của ngƣời làm ăn manh mún; tƣ tƣởng mê tín, dị
đoan của một bộ phận nhân dân,.v.v. Với một nƣớc kinh tế sản xuất nhỏ là
phổ biến, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tƣ tƣởng của ngƣời tiểu nông sẽ là
phần lớn trong tinh thần xã hội và tồn tại khá lâu dài. Tƣ tƣởng này rất dễ tự
phát theo hƣớng phát triển của tƣ tƣởng tƣ sản. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Nền
kinh tế nông dân hiện vẫn là một nền sản xuất hàng hố. Đó là một cơ sở vơ
cùng rộng lớn của chủ nghĩa tƣ bản, một cơ sở có những cỗi dễ rất sâu rộng
và vững chắc. Chính trên cơ sở ấy mà chủ nghĩa tƣ bản đƣợc duy trì và phục
hồi lại trong cuộc đấu tranh các liệt nhất chống chủ nghĩa cộng sản”.
Nhƣ vậy, nội dung ý thức xã hội ở nƣớc ta hiện nay có sự đan xen
nhiều yếu tố

khác nhau. Tuy nhiên, yếu tố tiến bộ, cách mạng mang đặc

trƣng xã hội chủ nghĩa vẫn là chủ yếu và bộ phận này đang từng bƣớc phát
triển thành chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
1.2. Tính chất ý thức xã hội mới ở Việt Nam hiện nay
Tính chất cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại
đan xen, pha tạp nhiều bộ phận đối lập nhau ở tất cả các mặt kinh tế, xã hội và


tƣ tƣởng giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tƣ bản, giữa xã hội hiện đại và
xã hội cổ truyền Việt Nam. V.I.Lênin chỉ ra: “Thời kỳ đó khơng thể không
bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trƣng của hai kết cấu kinh tế xã hội ấy".
Đặc trƣng về kinh tế, xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội quy định
tính chất ý thức xã hội ở nƣớc ta hiện nay. ý thức đó khơng chỉ ở sự pha tạp
nhiều yêú tố khác nhau, mà cịn ở sự biến động phức tạp, khó lƣờng, tiềm ẩn
nhiều xu hƣớng phát triển khác nhau.
Sự đan xen nhiều tƣ tƣởng khác nhau trong ý thức xã hội ở nƣớc ta
hiện nay biểu hiện tính chất khơng thuần nhất trong đời sống tinh thần và

trong ý thức xã hội. Bên cạnh những yếu tố tích cực lại bao hàm nhiều yếu tố
tiêu cực. Sự phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc
ta hiện nay trong xu thế mở cửa, giao lƣu, hội nhập ngày càng sâu rộng tất
yếu hình thành và phát triển nhiều bộ phận tƣ tƣởng, tâm lý khác nhau. ý
thức xã hội ở nƣớc ta có yếu tố xã hội chủ nghĩa, có yếu tố phi xã hội chủ
nghĩa. Đó vừa là sản phẩm của tàn dƣ xã hội cũ, vừa nảy sinh trong những
điều kiện kinh tế, xã hội của thời kỳ quá độ. Ngay tƣ tƣởng của xã hội cũ
cũng rất đa dạng, với nhiều trình độ và biểu hiện khác nhau. Mỗi tƣ tƣởng đó
lại có xu hƣớng, đặc điểm phát triển khác nhau.
Hiện thực xã hội ta hiện nay vẫn còn những khuynh hƣớng khác nhau
trong lựa chọn giá trị, hệ giá trị xã hội và cá nhân. Biểu hiện ở nhận thức
chƣa thống nhất về giá trị xã hội ; nhận thức, đánh giá khác nhau về chủ
nghĩa tƣ bản; về nhận thức, quan điểm, ý chí, niềm tin vào sự tất thắng của sự
nghiệp đổi mới theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta. Một bộ phận có
xu hƣớng tƣ tƣởng đề cao giá trị vật chất, xem nhẹ giá trị tinh thần; chú
trọng lợi ích trƣớc mắt, hạ thấp lợi ích cơ bản, lâu dài.
Ý thức xã hội ở nƣớc ta hiện nay đang trong các trạng thái biến đổi
nhanh chóng. Điều đó khơng chỉ ở từng bộ phận, mà trong cả hệ thống. Mỗi
tƣ tƣởng đều có những cơ sở kinh tế, xã hội tƣơng ứng để tồn tại, có xu
hƣớng, quy luật phát triển riêng, có tính độc lập tƣơng đối của nó. ý thức xã


hội ở nƣớc ta hiện nay vận động theo hai xu hƣớng cơ bản, xã hội chủ nghĩa
và tƣ bản chủ nghĩa. Xu hƣớng xã hội chủ nghĩa là chủ đạo, nhƣng nó ln
phải đối mặt với nhiều lực cản tiêu cực từ nhiều phía bên trong và bên ngồi,
khách quan và chủ quan. Còn xu hƣớng tƣ bản chủ nghĩa là trạng thái luôn
tiềm ẩn, chỉ lơ là trong định hƣớng xã hội chủ nghĩa thì ý thức xã hội dễ trƣợt
theo xu hƣớng này. Điều đó phản ánh tính chất phức tạp của ý thức xã hội ở
nƣớc ta hiện nay. Tính chất phức tạp của ý thức xã hội ở nƣớc ta không chỉ ở
sự phức tạp về nội dung, sự pha tạp, đan xen nhiều tƣ tƣởng khác nhau, mà

còn ở sự biến động mạnh với nhiều xu hƣớng tiềm ẩn và sự chuyển hoá phức
tạp của mỗi tƣ tƣởng, của cả hệ thống. Vấn đề nhận thức, tác động để tạo ra
sự đồng thuận về tƣ tƣởng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy nhanh
quá trình cải tạo tƣ tƣởng lạc hậu, phát triển tƣ tƣởng tiến bộ ln đặt ra cho
tồn Đảng, toàn dân ta. Đồng thời, phải “Tăng cƣờng bảo vệ nền tảng tƣ
tƣởng của Đảng, kiên quyết và thƣờng xuyên đấu tranh phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thối về tƣ tƣởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ”.
2. Một số vấn đề có tính ngun tắc trong xây dựng ý thức xã hội
mới trong đời sống xã hội ở Việt Nam hiện nay
Một là, xây dựng ý thức xã hội mới gắn chặt với công cuộc xây dựng
nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, về kinh tế, cần tiếp tục củng cố và
phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa làm cơ sở vững
chắc cho sự phát triển ý thức xã hội chủ nghĩa một cách sâu rộng và phổ biến
trong đông đảo quần chúng. Cùng với kinh tế, văn hóa ln đóng vai trị quyết
định trong q trình phát triển và sự trƣờng tồn của mỗi quốc gia, dân tộc.
Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức
mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bào vệ vững
chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn


minh”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ, cần “Tiếp thu có chọn lọc
tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam”.
Hai là, xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam hiện nay là quá trình kết
hợp giữa “xây” và “chống”.
Quá trình xây dựng ý thức xã hội mới là quá trình xây dựng những
quan điểm, những giá trị của xã hội mới đƣợc nảy sinh trong quá trình xây
dựng và bảo vệ đất nƣớc hiện nay, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Ý

thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội từ những góc độ khác nhau, bằng những
phƣơng thức khác nhau, tạo nên sự phong phú, đa dạng trong đời sống tinh
thần của xã hội. Theo hình thức biểu hiện thì ý thức xã hội bao gồm các hình
thái ý thức xã hội cụ thể nhƣ: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo
đức, ý thức tơn giáo, triết học. Mỗi hình thái ý thức xã hội đều có vai trị và
ƣu thế riêng, khơng thể thay thế trong đời sống xã hội. Vì vậy, xây dựng đời
sống tinh thần của xã hội mới cần có sự đồng bộ trên các lĩnh vực. Các hình
thái ý thức xã hội có sự tƣơng tác lẫn nhau và không chi ảnh hƣởng đến đời
sống tinh thần xã hội mà cịn có ảnh hƣởng đến đời sống xã hội.
Cùng với việc xây dựng, bồi dƣỡng ý thức xã hội mới, cần chống
những biểu hiện cản trở sự nghiệp xây dựng đó. Lịch sử xã hội cho thấy,
nhiều khi xã hội cũ đã mất đi, thậm chí mất đi rất lâu, nhƣng ý thức xã hội cũ,
lạc hậu vẫn cịn tồn tại. Trong đó, có một bộ phận ý thức xã hội không phản
ánh kịp thời những thay đổi tất yếu của tồn tại xã hội, không đáp ứng yêu cầu
phát triển của tồn tại xã hội mới, nó trở thành lạc hậu. Trong q trình vận
động, phát triển, những yếu tố lạc hậu của ý thức xã hội cũ vẫn còn hiện diện
trong một bộ phận nhân dân và cả trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý với
những biểu hiện rất đa dạng, ở nhiều cấp độ, trong hệ tƣ tƣờng và cả tâm lý
xã hội.
Ba là, bảo đảm tính kế thừa trong xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam.
Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy, những quan
điểm, tƣ tƣởng, lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống


không mà đƣợc tạo ra trên cơ sở kế thừa những vật liệu lý luận của thời đại
trƣớc; ý thức xã hội của mỗi cộng đồng là kết quả phản ánh tồn tại xã hội của
họ và cả ý thức xã hội của các thời đại trƣớc và những ý thức xã hội của cộng
đồng khác trong quá trình giao thoa, du nhập.
Trong quá trình xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam hiện nay cần kế
thừa một cách biện chứng, có nghĩa việc bảo tồn, gìn giữ, phát huy những giá

trị truyền thống dân tộc cần có sự chọn lọc và làm mới. Bởi trong truyền
thống có cả truyền thống tốt mà chúng ta gọi là giá trị và cả truyền thống
khơng cịn phù hợp trở thành lạc hậu. Vì vậy, chúng ta chỉ giữ gìn và phát huy
những truyền thống tốt đẹp, tiến bộ, nhân văn và phù hợp, đáp ứng đƣợc yêu
cầu phát triển xã hội mới hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chỉ
dẫn sâu sắc về vấn đề này: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái
xấu đổi ra cái tốt”; “Khơng phải cái gì cũ cũng bỏ hết, khơng phải cái gì cũng
làm mới. Cái gì cũ mà xẩu, thì phải bỏ... Cái gì cũ mà khơng xấu, nhƣng
phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý... Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển
thêm... Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
ta khẳng định, phải đặc biệt quan tâm “Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp,
bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam”.
Bốn là, xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về bản chất, xã hội mới Việt Nam là xã hội dân chủ nhƣ Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “quyền hành và lực lƣợng đều ở nơi dân”. Đây là
tƣ tƣởng cơ bản khẳng định nhân dân là chủ thề tích cực và cũng là đối
tƣợng phục vụ chính của ý thức xã hội mới Việt Nam. Ý thức xã hội mới Việt
Nam phản ánh lợi ích của nhân dân Việt Nam và chính do nhân dân Việt Nam
xây dựng. Tinh thần này đƣợc thể hiện trong các quan điểm, chủ trƣơng của
Đảng và Nhà nƣớc, trong các chính sách cụ thể của từng ngành, từng địa
phƣơng. Vì vậy, mọi chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nƣớc đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh lợi ích của nhân
dân. Nhân dân



×