Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Cách dạy văn học sử doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.37 KB, 17 trang )

Cách dạy văn học sử
A- Tại sao phải dạy văn học sử?
- Do sách giáo khoa hiện nay biên soạn theo quan điểm “tam thể
nhất hợp” vì vậy không theo từng giai đoạn văn học .vì vậykhi dạy
văn giáo viên thường băm nát tác phẩm để tìm ra cho được cái
tích hợp ở trong đó mà quên đi cải giá trị tư tưởng của tác
phẩm.Cho nên khi làm bài học sinh rất lúng túng và thường mắc
phải những lỗi sau :
+Thường theo văn mẫu rồi ghi lại một cách nguyên xi hoăc cắt
xén mà ta hay gọi là chiết ghép.
+ phân tích nhưng thờ ơ với hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
+ Lôi phẩm về hiện tại để phân tích ,dễ dẫn đến hiện đại hoá tác
phẩm, hiện đại hoá nhân vật.Tôi đã dự một cô giáo trẻ khi dạy bài
“Lợn cưới, áo mới”cô có giảng rằng: Đây là một anh chàng hay
khoe, khoe đến cả những cái vụn vặt.Cái áo thì đáng gì mà phải
khoe.Tôi cảm thấy buồn nhưng tôi cũng chẳng nói ra .Không biết
cô có hiểu câu ca dao:
Vợ chồng được cái quần sồi
Chồng đi chồng mặc vợ ngồi vợ trông.
Hay:
Mua cho một vạt khố sồi
Bề ngang chiếc đũa bề dài nửa phân
Đi đâu cũng phải cởi trần
Trông thấy chúng bạn cực thân thay là
-Vậy nên phải dạy văn học sử .Dạy để học sinh nắm được hoàn
cảnh xã hội mà tác phẩm đó ra đời .Thấy được tác phẩm văn học là tấm gương
phản chiếu hiện thực xã hội đương thời.Thấy được giá trị tư tưởng của tác phẩm
mà tác giả gửi gắm vào trong đó .
B- Các giai đoan phát triển văn học viết Việt Nam :
1- Giai đoạn từ thế kỷ X-> thế kỷ XV:
Học sinh phải nắm được các đặc điểm về lịch sử và xã hội sau đây : Đây là thời


kỳ hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam .Dưới sự lãnh đạo của giai cấp
phong kiến ,dân tộc ta đoàn kết trên dưới một lòng đập tan các cuộc xâm lược của
các thế lực phong kiến phương Bắc viết nên những trang sử vàng chói lọi . Những
trận đánh đẫ đi vào lịch sử dân tộc như: Bạch Đằng, hàm tử ,Chi Lăng ,Xương
Giang…
Vì vậy văn học giai đoạn nàytập trung đề cao chủ nghĩa yêu nước đó là: -
Khẳng định chủ quyền của đất nước qua bài “Sông núi nước Nam”của Lí Thường
Kiệt:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành đã định ở sách trời
Cớ sao quân giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
Hay:
Như nước đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
(Bình Ngô đại cáo-Nguyễn Trãi)
-Tự hào về truyền thống đấu tranh chống xâm lược cha ông :
Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán Đường mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu từng luc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.
(Bình Ngô đại cáo-Nguyễn Trãi)
-Tố cáo tội ác của giặc :
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm
Bãi nhân nghĩa nát cả đất trời

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi
(Bình Ngô đại cáo-Nguyễn Trãi)
- Căm thù giặc sẵn sàng xả thân vì đất nước :như “Hịch tướng sĩ” -
Trần Quốc Tuấn.
2- Giai đoạn từ thế kỷ 16 -> thế kỷ 17 :
Học sinh phải nắm hoàn cảnh lịch sử và xã hội sau : Đây là giai đoạn xã hội
phong kiến suy tàn ,các thế lực phong kiến gây bè kéo cánh chém giết lẫn nhau
tạo nên các cuộc chiến tranh phi nghĩa như: Chiến tranh Trịnh -Mạc ,chiến
tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài hàng trăm năm trời khiến cho xương chất thành
núi máu chảy thành sông.
- Về văn học giai đoạn này chủ yếu đề cao tư tưởng “Nhân giả vô
địch”, tố cáo chiến tranh bênh vực cho người dân vô tội . Điển
hình cho các tác giả và tác phẩm giai đoạn này gồm có :Nguyễn
Bỉnh Khiêm với “Hữu cảm”, hay Nguyễn Dữ với “ Chuyện người
con gái Nam Xương”…v.v…
3- Giai đoạn thế kỷ 18 -> 1858 :
Chế độ phong kiến đã đi vào con đường mục ruỗng thối nát. Vua quan lo ăn
chơi xa hoa truỹ lạc đời sống nhân dân cực khổ trăm bề .Bên cạnh đó lễ giáo phong
kiến hà khắc đã tước đoạt quyền sống của người phụ nữ, biến họ trở thành những
món hàng, những thứ đồ chơi không hơn không kém . Đồng tiền đã ngự trị lên
nhân phẩm và lương tâm con người,khiến cả xã hội phải chạy theo tiền sống ngược
với lương tâm.
Văn học giai đoạn này chủ yếu tập trung đề cao chủ nghĩa nhân đạo gồm có bốn
vấn đề sau :
- Lên án các thế lực chà đạp lên quyền sống con người điển hình là
nhân vật Thuý Kiều . Một người con gái tài sắc vẹn toàn thế
nhưng bị cái xã hội bất công ấy xô đẩy đưa đến cho nàng một
cuộc đời đầy giông bão . Vào giai đoan này thế lực đồng tiền đã
len lỏi khắp mọi ngõ ngách cuộc sống . Biến những người có học
như Mã Giám Sinh thành những kẻ lưu manh với những hành

động táng tận lương tâm .Biến những người cầm cân nảy mực của
xã hội thành những kẻ “Đầu trâu mặt ngựa” v.v…Đúng như nhà
thơ Nguyễn Du đã viết :
Một ngày lạ thói sai nha
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.
Hay:
Trong tay đã sẵn đồng tiền
Dậu rằng biến trắng đổi đen khó gì.
- Ca ngợi vẻ đẹp ,phẩm chất con người:Nổi bật đó là vẻ đẹp của chị
em Thuý Kiều .Có lẽ trong nền văn học nước nhà cặp mỹ nhân
Thuý Kiều ,Thuý Vân đã được miêu tả đạt đến mức hoàn mỹ .
Nguyễn Du đã giành những ngôn từ hay nhất để xây dựng nhân
vật của mình .Phải nói rằng cả hai chị em Thuý Kiều hình như tất
cả sắc nước hương trời đều hội tụ vào đây . Hãy nghe ông trân
trọng giơi thiệu:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Lan thu thuỷ ,nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành…
- Không chỉ có ca ngợi vẻ đẹp mà Nguyễn Du còn ca ngợi phẩm
chất tốt đẹp con người đó là tình thương cha mẹ, sự thuỷ chung
với người yêu:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
- Một giá trị nhân đao đáng chú ý văn học giai đoạn này , đó là
thông cảm, thương cảm cho số phận con người . Ở “Truyện Kiều”
của Nguyễn Du hay “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu ta
đêu thấy rất rõ .Hãy lắng nghe nước măt của Tố Như đang chảy
trên từng trang viết :
Rường cao rút ngược giây oan
Dậu là đá cũng nát gan lọ người
Mặt trông đau đớn rụng rời
Oan này còn một kêu trời nhưng xa.
- một giá trị nhân đạo nữa mà văn học giai đoạn này đề cập đó là
nói lên niềm mơ ước một cuộc sống tốt đẹp và công bằng .Nhân
vật đại diện cho công lý đó là Từ Hải, Lục Vân Tiên những con
người dám “Chọc trời khuấy nước” đạp bằng sự bất công để tìm
công lý .
3- Giai đoạn 1858 -> 1930:
-Hoàn cảnh lịch sử : Thực dân pháp xâm lược nước ta triều đình nhà
Nguyễn đầu hàng .Hưởng ứng chiếu cân vương của Tôn Thất Thuyết phong
trào chống pháp nổ ra khắp nơi ,nhưng kết quả đều thất bại.Pháp lần lượt
bình định nước ta và tiến hành khai thác thuộc địa .Pháp mở một số trường
học , văn hoá phương tây được du nhập vào nước ta .
- Văn học giai đoạn này chủ yếu tập trung tố cáo tội ác của giặc pháp ,kêu
gọi nhân dân đấu tranh,ca ngợi những tấm gương hy sinh vì đất nước . Tác
giả tiêu biểu là Nguyễn Đình Chiểu với các bài “chạy giặc”, “Văn tế nghĩa
sĩ cân Giuộc”.Nhân vật trong tác phẩm là những người nông dân bình dị ,
vì yêu nước căm thù giặc mà đứng lên chống pháp:
Chẳng phải là quân cơ quan vệ
Cũng chẳng phải là lính diễn binh
Chẳng qua là dân ấp dân lân
Mến nghĩa làm quân chiêu mộ

- Sau khi bình định xong nước ta để bình định bản xứ pháp đã mở
trường đào tao một số trí thức tây học. Dưới tac động của tầng lớp
trí thức này , ở nước ta đã xuất hiện một phong trào “tây hoá”, thế
là nho học đã nhường chỗ cho tây học. Hãy nghe Nguyễn Bính nói
về sự thay đổi nhanh chóng :
- Hôm qua em đi tỉnh về
- Đợi em ở mãi con đê đầu làng
- Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
- Áo cài khuy bấm em làm khổ tôi
- Nào đâu cái yếm vải sồi
- Cái dây lưng đụi nhuộm hồi sang xuân
- Vì vậy khi dạy bai thơ “Ông Đồ”ta phải hiểu được tâm trạng tâm
trạng của tác giả. Đó là tâm trạng nuối tiếc cho một thời vàng son
của nho học và tâm trạng chua xót trước sự lạc lỏng của cai chữ
nho trong xã hội đang ồ ạt bị tây hoá .Tâm trạng đố cũng được Tú
Xương phản áng qua mỗi trang viết của ông :
Nào có ra gì cái chữ nho
Ông nghè ông cống cũng nằm co
Phải nói rằng ở giai đoạn này mọi vấn đề thi cử đều đươc định
giá bằng tiền. Vì vậy các tri thức nho học họ chán chường trước cái
xã hội ấy .Chúng ta sẽ hiểu hơn qua bài thơ của Nguyễn Khuyến:
Thằng bán tơ kia giở mối ra
Làm cho bận đến cụ viên già
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ
Đời trước làm quan cũng thế a !
4 – Giai đoạn 1930-> 1945:
Đây là giai đoạn đảng cọng sản ra đời lãnh đạo nhân dân đấu
tranh .Tạo nên các cao trào cách mạng như Xô viết Nghệ tĩnh 1930-
1931, phong trào mặt trận bình dân 1936-1939.
Vì vậy văn học giai đoạn này bị phân hoá thành ba dòng văn

hoc :
+ Dòng văn học lãng mạn : Đây là dòng văn học có vai trò cải tổ nền
văn học nước ta .Nó phá bỏ phương pháp sáng tác cũng như đề tài
sáng tác cũ tạo nên một bước nhảy vọt cho thơ văn việt Nam.Nó để
lại nhiều tác phẩm sông mãi với thời gian. Đây là thời kỳ xuất hiện
nhiều cây bút tài hoa như: Nhất Linh ,Khái Hưng, Thạch Lam, Thế
Lữ, Nguyễn Bính ,Xuân Diệu …v.v…
+ Dòng văn học hiện thực: Vào giai đoạn này do chính sách bóc lột
hà khắc của chế độ thực sân nửa phong kiến,làm cho đời sống nhân
dân cùng cực .Họ đã bị bần cùng hoá như lão Hạc hay bị lưu manh
hoá như Chí Phèo . Vì vậy đã có nhiều tác giả dàm đứng lên dùng
ngòi bút của mình tốcáo giai cấp thống trị như “Tắt đèn” của Ngô
Tất Tố, “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan, “Chí Phèo” của
Nam Cao…v.v…
+ Dòng văn học cách mạng : chủ là do các chiên sĩ cộng sản viết ra
nhằm mục đích chỉ cho quần chúng thấy được nguyên nhân của sự
nghèo khổ ,thấy được kẻ thù của dân tộc ,kêu gọi nhân dân vùng lên
đâú tranh :
Hỡi anh chị em Nam Việt
Nông nỗi này ai biết chăng ai ?
Đã non tám chục năm trời
Làm thân trâu ngựa cho loai chó dê
( Bai ca cách mạng) .
Hoặc nói ý chí buất khuất của người chiến sĩ :
Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kề tận cổ súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa
(Trăng trối-Tố Hữu)
Thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng:

Rồng quấn vòng quanh chân với tay
Trông như quan võ quấn tua vai
Tua vai quan võ bằng kim tuyến
Tua của ta là một sợi gai
(Dây trói- Hồ Chí Minh)
5-Giai đoạn 1946-> 1954:
- Về lịch sử ,cách mạng tháng Tám thành công mở ra một trang sử
mới cho dân tộc ta .Nhưng chính quyền non trẻ đứng trước nhiều thử
thách lớn. Ngân khố nhà nước trống rỗng, đất nước vừa trải qua nạn
đói khủng khiếp năm ất dậu,95% dân số mù chữ, thực dân Pháp quay
lại xâm lược nước ta .
Nghe theo lời kêu gọi của Bác cả dân tộc lên đường đi kháng chiến :
Ai có súng dùng súng
Ai có gươm dùng gươm
Và đoàn quân vễ quốc lên đường
(Tố Hữu)
Trong kháng chiến người lính là “Điểm tựa” của lịch sử:
Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn bằng người lính đi đầu
Trong đêm tối tim ta làm ngọn lửa
(Tố Hữu)
Vinh dự là vậy , thế nhưng trong cuộc kháng ấy người lính phải trải
muôn ngàn gian khổ khó khăn. Từ những miền quê nghèo họ đi
kháng chiến mang theo những gì ở nhà họ có;
Chiếc xắc mây anh mang
Em nách mo cơm nếp
Lúa níu anh trật dép
Anh cúi sửa vội vàng
(Thăm lúa-Trần Hữu Thung)
Chúng ta hãy đọc bài “Nhớ” của Hồng Nguyên để hiểu được thực tại

cuộc sống người lính bấy giờ:
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi một hai
Súng bắn chưa quen ,quân sự mười bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Lột sắt đường tàu rèn thêm dao kiếm
Áo vải chân không đi lùng giặc đánh.
(Nhớ- Hồng Nguyên)
Không chỉ thiếu thốn về vật chất mà họ còn bị những cơn sốt rét
rừng hành hạ , đói không có ăn ,rét không có mặc , ốm đau không có
thuốc, khiến cho họ da vàng tóc rụng:
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
(Tây tiến –Quang Dũng)
Khó khăn gian khổ là thế ,nhưng với tinh thần yêu nước họ đã vượt
lên tất cả để làm nên một Điện Biên lịch sử chấn động địa cầu , kết
thúc chín năm trường kỳ chống thực dân Pháp .
- Văn học giai đoạn này đi sâu đi sát cuộc kháng chiến thánh thần
của dân tộc đẻ phản ánh và ca ngợi . Vậy nên người lính đi vào
thơ ca bình dị chân thật như cuộc sống nông dân vốn có của họ
.Bên cạnh hình ảnh người lính ,thì người nông dân cũng được
phản ánh khá rõ nét .Họ là những người “chân toe mắt toét gọi lựu
đạn là nịu đạn, hát tiến quân ca như người buồn ngủ cầu kinh”
.Nhưng trong họ lại có một tinh thần yêu nước mạnh liệt và đó là
cơ sở tạo nên sức mạnh cho cả dân tộc.
1- Giai đoạn 1955->1975:

Vơi chiến thắng Điện biên phủ hiệp nghị giơ ne vơ được ký kết Miền
Bắc được hoàn toàn giải phóng tiến lên xây dựng CNXH. Miền Nam tạm thời bị
chia cắt .Dân tộc ta lại phải hàn gắn vết thương chiến tranh
Xây dựng Miền Bắc thành hậu phương lớn chi viện cho chiến trường Miền Nam.
Để hoàn thành trọng trách lớn lao đó, cả Miền Bắc dấy lên phong trào “tiền tuyến
gọi, hậu phương trả lời” với khẩu hiệu”Thóc không thiếu một cân ,quân không
thiếu một người”Thế là những người mẹ , người chị lại tiễn chồng con ra trận :
Rất đẹp thay những tấm lòng đại nghĩa
Vầng trăng nào sánh được vẻ kiên trinh
Xưa tiễn chồng đi cứu nước rười rưỡi tóc xanh
Nay lại tiễn con đi rung rinh đầu bạc
(Lưu Trọng Lư)
- Để có thực lực chi viện cho Miền Nam Đảng đẫ phát động phong
trào”Mỗi người làm việc bằng hai”. Tất cả mỗi người dân Miền
Bắc đều lao động không quản ngày đêm với tinh thần “tất cả cho
Tổ Quốc ,tất cả để đánh thăng giặc Mỹ xâm lược”.
- Đẻ thực hiện được nhiệm vụ thống nhất đất nước trung ương
đảng đã quyết định mở con đường mòn Hồ Chí Minh. Đây là con
đường huyết mạch chi viện cho miền nam. Thấy được tầm quan
trọng của con đường này , đế quốc Mỹ đã dội xuống đây hàng
triệu tấn bom đạn hòng căt đứt sự chi viện của Miền bắc. Để bảo
vễ con đường hàng vạn nữ thanh niên xung phong lại đi vào tuyến
lửa .Con đường Trường Sơn đã trở thành nơi đối đầu giữa sức
mạnh vật chất của đế quốc Mỹ và sức mạnh tinh thần của dân tộc
chúng ta :
- Trường sơn xẻ dọc rọc ngang
- Xẻng tay mà viết nên trang sử hồng
- Trường Sơn xẻ núi băng sông
- Xe đi trăm ngả chiến công bốn mùa
- Trường Sơn đông nắng tây mưa

- Ai chưa đến đó như chưa rõ mình
- (Nước non nghàn dặm -Tố Hữu)
- Thế là cả thế hệ trẻ Việt Nam :
- Xẻ dọc trường Sơn đi cứu nước
- Mà lòng phới dậy tương lai
+Về văn hoc: Giai đoạn này được chia làm hai mảng.
- Mảng thứ nhất viết về đề tài Miền Bắc : Các văn nghệ sĩ đã đi sát
với thực tế cuộc sống ca ngợi tinh thần lao động khẩn trương
không quản ngày đêm như bài” Đoàn thuyền đánh cá”của Huy
Cận, ca ngợi hình ảnh “Con người mới xã hội chủ nghĩa”, đó là
những con người biết đặt lợi ích tập thể , lợi ích đất nước lên trên
lợi ích cá nhân mà hành động. Họ sống với tinh thần “Mình vì mọi
người”mà tiêu biểu là truyên ngắn “Lặng lẽ Sa pa” của Nguyễn
Thành Long mà Anh thanh niên là hình mẫu con người mới
XHCN.
- Mảng thứ hai viết về đề tài Miền Nam : Văn học đã phản ánh nỗi
đau của chiến tranh, tinh thần quật cường của nhân dân Miền Nam
như”Hòn Đất” của Anh Đức ,”Người mẹ cầm súng “ của Nguyễn
Thi, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng . Đặc biệt là
những tác phẩm viết về những con người huyền thoại nơi tuyến
đường trường Sơn . Đó là những anh lính lái xe,những cô thanh
niên xung phong ,họ là những con người có tuổi đời mười chín đôi
mươi đang hi sinh tuổi thanh xuân cho đất nước mà vẫn lạc quan
yêu đời bất chấp mọi gian nguy:
- Anh lên xe trời đổ cơn mưa
- Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ
- Em xuống núi năng vàng rực rỡ
- Cái nhành cây gạt mối riêng tư.
(Đông trường Sơn, tây trường Sơn-Phạm tiến Duật)

×