Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Đồ án TNXH Sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Khoa học lớp 45

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.02 KB, 33 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐỒ ÁN KẾT THÚC CHUYÊN ĐỀ
“DẠY HỌC CÁC MÔN TỰ NHIÊN – XÃ HÔI Ở TIỂU HỌC THEO
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH”

Tên đề tài: Sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”
trong dạy học môn Khoa học lớp 4-5
Người thực hiện: Trần Quang Vũ
Mã học viên: 228140101100004
Lớp: K30C1 (UD)
Cán bộ giảng dạy: PGS TS Nguyễn Thị Hường

NGHỆ AN - 2023


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập lớp Cao học tiểu học quận Gò Vấp TPHCM lớp
K30C1 tại lớp học trực tuyến Đại học Vinh , bản thân em đã có cơ hội được học
tập từ đó đã củng cố thêm các kiến thức được học, tìm hiểu thêm các kiến thức
mới, các kiến thức liên quan đến công tác chun mơn, khả năng phân tích lý luận
vững vàng hơn, hồn thiện nhiều kỹ năng cần thiết. Qua đó, em thấy bản thân
mình cần phải rèn luyện, trau dồi kiến thức nhiều hơn nữa để có thể hồn thành tốt
các nhiệm vụ được giao. Có được những kiến thức trên, bên cạnh sự nỗ lực, cố
gắng của bản thân là nhờ sự hỗ trợ, giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của Cơ giảng dạy
trong suốt khóa học.
Để hồn thành được bài đồ án này, em xin chân thành cảm ơn Cơ đã nhiệt
tình hướng dẫn lớp chúng em trong suốt khóa học tại lớp Cao học K30C1 Giáo
dục tiểu học Quận Gị Vấp TPHCM
Nhìn lại chặng đường học tập mà vừa qua với khoảng thời gian không quá


dài nhưng cũng khơng ngắn và đủ để hình ảnh, kiến thức in đậm trong tim. Lần
đầu thực hiện đồ án cùng với những giới hạn về thời gian, dung lượng, khuôn khổ
và kinh nghiệm thực tiễn cịn hạn chế nên khơng thể tránh khỏi những thiếu sót.
Rất mong nhận được sự chỉ dẫn và lời góp ý của Cơ để giúp cho bài tiểu luận
của em được hoàn thiện hơn. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn Cô đã tận
tâm hướng dẫn và chia sẻ những kinh nghiệm thực tế để tơi bổ sung và hồn thiện
kiến thức chun mơn áp dụng trong công việc và trong cuộc sống. Cuối cùng
kính chúc q Cơ ln mạnh khỏe, hạnh phúc và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm
vụ được giao. Em xin chân thành cảm ơn!

1


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN..........................................................................................................1
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ...........................................................................................4
PHẦN II: NỘI DUNG..............................................................................................5
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN.........................................................................5
1. Khái niệm của phương pháp “bàn tay nặn bột”.................................................6
2. Ý nghĩa của phương pháp “Bàn tay nặn bột” đối với dạy học TN & XH ở tiểu
học.........................................................................................................................7
3. Các nguyên tắc cơ bản khi áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy
học các môn TN & XH ở tiểu học.........................................................................7
III. THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN
KHOA HỌC Ở TIỂU HỌC...................................................................................8
1. Thực trạng sử dụng phương pháp dạy học của giáo viên trong môn Khoa
học .....................................................................................................................8
2. Sự hiểu biết về phương pháp “ Bàn tay nặn bột” của giáo viên ở một số
trường Tiểu học..................................................................................................9
3. Thực trạng sử dụng đồ dùng dạy học hiện nay của giáo viên........................9

4. Chất lượng học tập môn khoa học của học sinh.............................................9
IV. NHỮNG KINH NGHIỆM ĐƯỢC ĐÚC RÚT QUA QUÁ TRÌNH GIẢNG
DẠY .......................................................................................................................10
1. Vai trò của giáo viên và học sinh trong việc sử dụng phương pháp “Bàn tay
nặn bột” ..............................................................................................................10
1.1 Vai trò của giáo viên..................................................................................10
1.2. Vai trò của học sinh...................................................................................10
2. Cách sử dụng đồ dùng dạy học trong phương pháp “Bàn tay nặn bột”..........11
3. Tiến trình sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Khoa
học:......................................................................................................................12
4. Cách thức sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”.......................................16
4.1. Lựa chọn kiến thức, chủ đề dạy học..........................................................16
4.2. Lựa chọn sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học.............................................17
4.4. Thiết kế hoạt động dạy học phương pháp “Bàn tay nặn bột”....................17
5. Các kĩ thuật dạy học và điều kiện cần có để thực hiện phương pháp “Bàn tay
nặn bột”...............................................................................................................21
5.1.Tổ chức lớp học..........................................................................................21
5.2. Kỹ thuật tổ chức hoạt động thảo luận cho học sinh...................................22
5.3. Kỹ thuật tổ chức hoạt động nhóm trong phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
..........................................................................................................................22
5.4. Kỹ thuật đặt câu hỏi của giáo viên............................................................23
2


5.5. Hướng dẫn học sinh sử dụng vở thí nghiệm..............................................24
5.6. Đánh giá học sinh trong dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”. . .24
V. THIẾT KẾ BÀI DẠY....................................................................................26
PHẦN III: KẾT LUẬN...........................................................................................31
I. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:.................................................................................31
II. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT:...............................................................................31

TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................33

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
3


Hiện nay, ở các bậc học nói chung và bậc tiểu học nói riêng đang thực hiện
đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học. Định hướng đổi mới phương pháp dạy
học được nghị quyết Trung ương lần 2 Ban chấp hành trung ương khóa VIII khẳng
định: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền
thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng
phương pháp tiên tiến, các phương tiện dạy học hiện đại vào quá trình dạy học
đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh”.
Theo định hướng trên, nhiều phương pháp dạy học tiên tiến, hiện đại trên
thế giới như: “phương pháp tự phát hiện tri thức”, “phương pháp dạy học tích
cực”, “phương pháp cùng tham gia”, “phương pháp tương tác”, và gần đây là
“phương pháp bàn tay nặn bột” từng bước được vận dụng vào quá trình dạy học ở
Tiểu học - bậc học được coi là nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân.
Khoa học là môn học chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống các mơn học ở
Tiểu học. Đây là mơn học tích hợp kiến thức của nhiều ngành khoa học thực
nghiệm như: Vật lí, hóa học, sinh học. Vì vậy, mơn học này có nhiều thuận lợi để
vận dụng các phương pháp dạy học tiên tiến, hiện đại vào q trình dạy học từ đó
bước đầu hình thành cho học sinh phương pháp học tập mang tính chất tìm tịi
nghiên cứu, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo.
Thực tiễn dạy môn khoa học ở trường Tiểu học cho thấy, giáo viên cịn gặp
nhiều khó khăn trong việc lựa chọn và sử dụng phương pháp dạy học. Các phương
pháp dạy học truyền thống vẫn chiếm ưu thế, học sinh học tập cịn thụ động. Các
thí nghiệm khoa học trong bài cịn mang tính chất minh họa. Giáo viên cịn tự
mình trình bày, biểu diễn các thí nghiệm thực hành để minh họa cho kiến thức bài
học mà ít tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động này để các em chiếm lĩnh tri

thức khoa học một cách chủ động, thỏa mãn được nhu cầu tìm tòi, ham muốn
khám phá và say mê khoa học của học sinh Tiểu học. Vì vậy các giờ học cịn
mang tính áp đặt, kiến thức mà học sinh chiếm lĩnh trong giờ học chưa cao, học
sinh ít được tham gia vào các hoạt động để tự tìm tịi và phát hiện tri thức.
Việc vận dụng những phương pháp tiên tiến vào q trình dạy học ở tiểu
học nói chung, mơn khoa học nói riêng là vấn đề quan trọng để hình thành cho học
sinh những phương pháp học tập độc lập, sáng tạo, qua đó để nâng cao chất lượng
dạy học. Một trong những phương pháp có nhiều ưu điểm, đáp ứng được mục tiêu
trên và có thể vận dụng tốt vào q trình dạy học mơn khoa học ở tiểu học là
phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Trong những năm gần đây, phương pháp “Bàn
tay nặn bột” bước đầu được thử nghiệm vào q trình dạy học mơn khoa học ở
một số trường tiểu học Việt Nam. Việc nghiên cứu áp dụng phương pháp này vào
quá trình dạy học sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường tiểu học
Việt Nam nói chung và các trường tiểu học trong huyện Nghi Lộc nói riêng là vấn
đề hết sức cần thiết để góp phần đổi mới phương pháp dạy học. Có như vậy mới
4


hình thành được cho học sinh phương pháp học tập đúng đắn, giúp các em thực sự
trở thành “ chủ thể” tìm kiếm tri thức.
Từ việc xác định vai trị, vị trí nội dung dạy học mơn khoa học cũng như băn
khoăn về việc áp dụng phương pháp bàn tay nặn bột trong dạy học, tôi đã chọn đề
tài “Sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học mơn Khoa học lớp
4-5” để nghiên cứu nhằm góp phần tìm ra các biện pháp khắc phục khó khăn cho
bản thân, đồng nghiệp cũng như học sinh lớp 4, giúp các em tự tìm kiến kiến thức
phù hợp trong học tập.
PHẦN II: NỘI DUNG
I.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN.

Mơn Khoa học ở cấp Tiểu học nhằm giúp học sinh đạt được một số kiến

thức về sự chao đổi chất, nhu cầu dinh dưỡng, cách phòng tránh một số bệnh, ứng
dụng của một số chất, một số vật liệu, dạng năng lượng thường gặp để có kĩ năng
ứng xử thích hợp trong một số tình huống hay học sinh biết quan sát làm thí
nghiệm thực hành đơn giản rồi phân tích, so sánh rút ra được những dấu hiệu
chung và riêng từ đó học sinh sẽ có thái độ tích cực, ham hiểu biết khoa học và
biết vận dụng vào đời sống.
Như chúng ta đã biết, học sinh tiểu học là lứa tuổi học tập theo hứng thú và
chủ yếu là cảm tính. Đồng thời lứa tuổi này cũng mang các đặc điểm tâm lý hồn
nhiên, ngộ nghĩnh và hiếu động các em thích vui chơi, thích các trị chơi vui nhộn
"Vừa chơi, vừa học" .Mặt khác đối với học sinh tiểu học việc ghi nhớ thì rất nhanh
nhưng để nhớ một nội dung, một vấn đề nào đó thì lại rất khó cho nên các nhà
khoa học đó nhận định rằng lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi "Chóng nhớ, mau
quên". Muốn học sinh nhớ được vấn đề nào đó thì ngồi việc thường xun phải
củng cố, luyện tập về nội dung cần nhớ thì việc tạo cho các em cảm giác hứng thú
và say mê với nội dung cần ghi nhớ , chắc chắn rằng các em sẽ dễ tiếp thu, dễ nhớ
và nhớ lâu hơn. Đồng thời lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi mang đặc điểm
nhận thức, tư duy trực quan và cụ thể. Các em không những nhận thức tốt các vấn
đề mang tính cụ thể mà cịn rất có hứng thú khi khai thác, tìm hiểu các vấn đề
mang tính cụ thể, đồng thời các em cũng rất ưa thích các vấn đề trực quan mang
tính bắt mắt mà các em có thể quan sát một cách dễ dàng.

5


Các môn học như Khoa học, Lịch sử, Địa lý theo chương trình và sách giáo
khoa mới được tích hợp nhiều kiến thức, nhiều nội dung trong một môn học, một
bài học: Ví dụ : mơn Khoa học được tích hợp các kiến thức như : vật lý, sinh học,
hoá học và một số kiến thức của môn sức khoẻ cũ cũng được tích hợp vào mơn

học này, mơn Lịch sử, Địa lý lại được tích hợp các kiến thức của khoa học xã hội
như : Văn hoc, địa lý, lịch sử. Do đó các nội dung kiến thức của các mơn học này
mang tính trừu tượng , u cầu học sinh phải ghi nhớ. Đồng thời đối với học sinh
lớp 4 là lớp bản lề của hai giai đoạn : Giai đoạn lớp 1,2,3 và giai đoạn lớp 4,5. Mặt
khác, lớp 4 cũng là lớp học bắt đầu của việc tách môn học "Tự nhiên - Xã hội"
thành các môn Khoa học, Lịch sử, Địa lý và cũng là lớp tạo nền tảng cho việc học
tập và tìm hiểu kiến thức các môn học này ở lớp 5 và các lớp trên.
1. Khái niệm của PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT”
- "Bàn tay nặn bột" (tiếng Pháp: "Lamain à la pâte" ; tiếng Anh: Hand
on) là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng
cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên. "Bàn tay nặn bột" (BTNB) chú
trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tịi
nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong
cuộc sống thơng qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều
tra… Với một vấn đề khoa học đặt ra, học sinh có thể đặt ra các câu hỏi, các giả
thuyết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm
chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích,
tổng hợp kiến thức.
- Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, phương pháp “Bàn tay
nặn bột” luôn coi học sinh là trung tâm của q trình nhận thức, chính các em là
người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên. Mục
tiêu của phương pháp “Bàn tay nặn bột” là tạo nên tính tị mị, ham muốn khám
phá, yêu và say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức
khoa học, phương pháp “Bàn tay nặn bột” còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ
năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh.

6


- Chương trình “Bàn tay nặn bột” là sự quy trình hóa một cách logic phương

pháp dạy học, dẫn dắt học sinh đi từ chưa biết đến biết theo một phương pháp mới
mẻ là để học sinh tiếp xúc với hiện tượng, sau đó giúp các em giải thích bằng cách
tự mình tiến hành quan sát qua thực nghiệm. Phương pháp này giúp các em khơng
chỉ nhớ lâu, mà cịn hiểu rõ câu trả lời mình tìm được. Qua đó, học sinh sẽ hình
thành khả năng suy luận theo phương pháp nghiên cứu từ nhỏ và hình thành tác
phong, phương pháp làm việc khi trưởng thành.
2. Ý nghĩa của PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT” đối với dạy học TN
& XH ở tiểu học
- Phương pháp "Bàn tay nặn bột" là một phương pháp dạy học tích cực,
thích hợp cho việc giảng dạy các kiến thức khoa học tự nhiên, đặc biệt là đối với
bậc tiểu học và trung học cơ sở, khi học sinh đang ở giai đoạn bắt đầu tìm hiểu
mạnh mẽ các kiến thức khoa học, hình thành các khái niệm cơ bản về khoa học.
Tập trung phát triển khả năng nhận thức của học sinh, giúp các em tìm ra lời giải
đáp cho những thắc mắc trẻ thơ bằng cách tự đặt mình vào tình huống thực tế, từ
đó khám phá ra bản chất vấn đề.
- Việc tìm hiểu và vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học
các môn TN - XH ở tiểu học, có thể phát huy tối đa khả năng tự học và sáng tạo
của học sinh nhỏ, giúp các em tự phát hiện và giải quyết vấn đề thông qua tiến
hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra. Nhờ đó học sinh hình
thành khả năng suy luận theo phương pháp nghiên cứu từ nhỏ, góp phần hình
thành tác phong và phương pháp làm việc của một nhà khoa học khi các em
trưởng thành.
- Phương pháp “Bàn tay nặn bột” là phương pháp tạo hứng thú học tập cho
học sinh, thu hút học sinh vào các hoạt động tìm tịi, khám phá,... từ đó hun đúc
tình yêu và say mê học tập nghiên cứu cho các em ngay từ nhỏ.
3. Các nguyên tắc cơ bản khi áp dụng PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN
BỘT” trong dạy học các môn TN & XH ở tiểu học
Thứ nhất: Học sinh quan sát sự vật, hiện tượng trong thực tế gần gũi với các
em để các em dễ cảm nhận, dễ thực nghiệm trên chúng.


7


Thứ hai: Trong quá trình tự thực nghiệm, học sinh đưa ra ý kiến, nêu thắc
mắc, kết luận riêng và thảo luận trong tập thể (nhóm, cả lớp) từ đó rút ra kiến thức
khoa học.
Thứ ba: Giáo viên chỉ thực hiện vai trò đề xuất, tổ chức các thực nghiệm
cho học sinh theo một tiến trình sư phạm chặt chẽ. Giáo viên không làm sẵn cho
học sinh.
Thứ tư: Áp dụng phương pháp này cần một thời lượng tối thiểu là 2 giờ/tuần
trong nhiều tuần liền cho một đề tài. Tính liên tục của các hoạt động và những
phương pháp giáo dục được bảo đảm suốt trong thời gian học tập.
Thứ năm: Mỗi học sinh có quyển vở thực hành riêng do chính các em ghi
chép theo ngơn từ và cách thức của riêng mình.
Thứ sáu: Mục đích chính của phương pháp này là học sinh tiếp nhận được
các khái niệm khoa học và kĩ thuật thực hành. Song song đó là củng cố ngơn ngữ
viết và nói của các em.
Thứ bảy: Phụ huynh học sinh và tất cả mọi người xung quanh cần được
khuyến khích hỗ trợ những điều mà học sinh, lớp học cần để thực nghiệm.
Thứ tám: Các đối tác khoa học (trường ĐH, CĐ, trường nghề, viện nghiên
cứu…) ở địa phương cần giúp các hoạt động của lớp theo khả năng của mình.
Thứ chín: Ngành giáo dục, trường sư phạm giúp giáo viên các kinh nghiệm
và phương pháp giảng dạy.
Thứ mười: Giáo viên cần chủ động tự học, tự tìm hiểu tài liệu, kiến thức liên
quan; trao đổi với đồng nghiệp, các nhà khoa học… để nâng cao kiến thức. Giáo
viên là người chịu trách nhiệm giáo dục và đề xuất những hoạt động của lớp mình
phụ trách.
III.

THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC

MÔN KHOA HỌC Ở TIỂU HỌC.

1. Thực trạng sử dụng phương pháp dạy học của giáo viên trong mơn Khoa
học .
Qua tìm hiểu, tôi thấy rằng giáo viên chưa nắm vững về mặt lý luận của các
phương pháp dạy học mới. Nhưng cũng khơng ít giáo viên nắm chắc về mặt lý
luận các phương pháp dạy học mới nhưng họ ngại sử dụng vì phải chuẩn bị cơng
phu cả đồ dùng dạy học lẫn thiết kế bài dạy, mất nhiều thời gian. Mặt khác, do đồ
8


dùng thí nghiệm, tài liệu phục vụ cho mơn Khoa học ở một số trường chưa đáp
ứng yêu cầu nên cũng phần nào gây khó khăn cho giáo viên khi lựa chọn phương
pháp dạy học. Có chăng giáo viên nào sử dụng các phương pháp dạy học tích cực
cũng chỉ là đối phó với những giờ dạy thao giảng hoặc ban giám hiệu dự giờ mà
thôi. Hầu hết đều sử dụng lối dạy : Cho học sinh đọc bài, tìm hiểu trả lời câu hỏi,
cuối cùng là đọc mục « Bạn cần biết ».
2. Sự hiểu biết về phương pháp “ Bàn tay nặn bột” của giáo viên ở một số
trường Tiểu học.
Phương pháp “ Bàn tay nặn bột” ra đời từ lâu và nhiều nước trên thế giới đã
đưa vào áp dụng trong quá trình dạy học. Ở Việt Nam, phương pháp này cũng đã
và đang được vận dụng thực tế vào các trường tiểu học, đi đầu là Thành phố Đà
Nẵng. Ở Nghệ An, Phòng giáo dục Nghi Lộc cũng đã triển khai tập huấn cho cán
bộ cốt cán, cán bộ quản lí và tổ trưởng chun mơn ở các nhà trường vào ngày
8/10/2013. Tuy nhiên nội dung phương pháp này cũng đã được truyền tải đến tận
giáo viên, các cụm chuyên môn cũng đã tổ chức hội thảo, dạy thể nghiệm nhưng
dù sao đây cũng là một phương pháp dạy học mới, giáo viên mới được trải
nghiệm, thời gian dành để hội thảo cụm trường hay thăm lớp dự giờ đồng nghiệp
để đúc rút kinh nghiệm cũng chưa được là bao. Vì vậy, với giáo viên tiểu học
huyện Nghi Lộc thì đây là một phương pháp dạy học mà đang được nhiều người

quan tâm.
3. Thực trạng sử dụng đồ dùng dạy học hiện nay của giáo viên.
Qua khảo sát cho thấy giáo viên sử dụng tranh ảnh chiếm tỉ lệ cao trong số
các tiết dạy có yêu cầu sử dụng đồ dùng dạy học bởi đây là đồ dùng có sẵn ở
phịng thiết bị, khơng mất cơng tìm kiếm mà cũng dễ sử dụng. Cịn các tiết dạy có
yêu cầu đồ dùng là vật thật, là dụng cụ thí nghiệm thì giáo viên ít sử dụng bởi phải
mất cơng tìm kiếm, dụng cụ thí nghiệm có khi ở trường khơng đủ, có thứ lại dễ vỡ,
cồng kềnh, có loại phải nghiên cứu trước rồi mới sử dụng thành cơng,…Do vậy,
có một số giáo viên chỉ “dạy chay” cho hết bài, cho kịp chương trình, học sinh cứ
việc học thuộc các kiến thức cần đạt trong bài là đủ. Tình trạng sử dụng đồ dùng
dạy học chưa đảm bảo yêu cầu đầy đủ chứ chưa nói đến chất lượng, hiệu quả khi
sử dụng .
4. Chất lượng học tập môn khoa học của học sinh.
Được dự giờ của một số đồng nghiệp, tôi thấy giờ học Khoa học chưa sinh
động, tiến trình giờ học diễn ra một cách xi chiều, học sinh thiếu sự hợp tác,
thiếu sự kiểm nghiệm minh chứng, kiến thức áp đặt. Các em có thể trả lời được
các câu hỏi có liên quan đến nội dung bài học nhưng không thể trả lời được là làm
thế nào để biết được điều đó hay vì sao lại thế?
Bởi vậy, kiến thức mà các em học được sau mỗi bài dễ bị quên và để vận
dụng những kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống lại càng gặp khó khăn nhiều.
9


IV.

NHỮNG KINH NGHIỆM ĐƯỢC ĐÚC RÚT QUA QUÁ TRÌNH
GIẢNG DẠY .

Muốn sử dụng tốt phương pháp “ Bàn tay nặn bột” vào dạy học môn khoa
học lớp 4 - 5, ngoài sự hiểu biết và nắm chắc lý luận của phương pháp dạy học này

thì người giáo viên cần xác định được:
1. Vai trò của giáo viên và học sinh trong việc sử dụng phương pháp “Bàn tay
nặn bột” .
1.1 Vai trò của giáo viên.
Dạy học theo phương pháp này, người giáo viên không phải truyền thụ kiến
thức dưới dạng thuyết trình, trình bày mà là người giúp học sinh xây dựng kiến
thức bằng cách cùng hành động trong nhóm. Vì vậy, giáo viên có vai trị là người
hướng dẫn, lãnh đạo, tổ chức cho học sinh hoạt động, làm việc để chiếm lĩnh tri
thức khoa học. Giáo viên phải đưa ra những tình huống, các hoạt động, quyết định
hành động đi liền với những chẩn đoán về sự tiến bộ của học sinh, thu hẹp những
cái có thể và chỉ ra các thông tin nếu thấy cần thiết, làm cho học sinh học tập một
cách tích cực trong giờ học… Giáo viên là người trung gian giữa khoa học và học
sinh, là người đàm phán với học sinh những thay đổi nhận thức liên quan đến
những câu hỏi được xử lí, với các thiết bị thực nghiệm thích đáng, với mơ hình
giải thích hợp lí, phải đảm bảo sự đón trước và giải quyết các xung đột nhận thưc
hành động với mỗi cá nhân học sinh cũng như với mỗi nhóm học sinh và cả lớp.
1.2. Vai trị của học sinh.
Phương pháp dạy học này đặt học sinh vào vị trí của nhà nghiên cứu, tích
cực, chủ động, tự khám phá, phát hiện ra tri thức, chân lí khoa học.
Học sinh tiếp cận vấn đề đặt ra qua tình huống (câu hỏi lớn của bài học);
nêu các giả thuyết, các nhận định ban đầu của mình, đề xuất và tiến hành các thí
nghiệm nghiên cứu; đối chiếu các nhận định (giả thuyết đặt ra ban đầu); đối chiếu
cách làm thí nghiệm và kết quả với các nhóm khác; nếu không phù hợp học sinh
phải quay lại điểm xuất phát, tiến hành lại các thí nghiệm như đề xuất của các
nhóm khác để kiểm chứng; rút ra kết luận và giải thích cho vấn đề đặt ra ban đầu.
Trong quá trình này, học sinh ln ln phải động não, trao đổi với các học sinh
khác trong nhóm, trong lớp, hoạt động tích cực để tìm ra kiến thức.
Các em sẽ học cách trả lời và tổ chức hành động để có thể đưa ra câu trả lời
thích đáng. Cơng việc này đòi hỏi học sinh mày mò việc nghiên cứu thơng tin.
Nghiên cứu những phương tiện có sẵn để trả lời, chính nó đã đề cập đến việc tập

làm khoa học.
Trước một vấn đề khoa học được nêu ra, dưới sự gợi ý tùy theo mức độ của
giáo viên, học sinh sẽ chia nhóm, đề xuất quan điểm riêng trong nhóm, thảo luận,
đưa ra quan điểm, phương án thí nghiệm nhằm lí giải tiên đốn của mình. Mỗi học
sinh, mỗi nhóm có một quyển vở để tự phác họa, thiết kế thí nghiệm của mình và
10


tự rút ra kết luận, có thể diễn đạt bằng những sơ đồ, hình vẽ hay lời văn diễn dải.
Quyển vở này sẽ được học sinh lưu lại và học sinh sẽ tự điều chỉnh quan điểm,
phương án thực hiện khi tìm được câu trả lời có lí hơn.Thiết bị để làm thí nghiệm
cũng có thể do học sinh tự lựa chọn theo ý đồ của riêng mình, của nhóm. Có thể
chọn một vài thứ trong số đồ dùng thí nghiệm nhưng học sinh cũng có thể tự sưu
tầm, tự tạo thiết bị thí nghiệm từ các nguyên vật liệu có sẵn trong đời sống. Với
cách này, khơng nhất thiết học sinh chỉ có một phương án thống nhất mà có thể
bằng phương án khác để tìm ra kết luận.
Như vậy, việc học tập theo phương pháp này đã phát huy tối đa sự hoạt
động độc lập nhận thức của học sinh tiểu học.
2. Cách sử dụng đồ dùng dạy học trong phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
Dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” khơng địi hỏi phải sử dụng
đến những đồ dùng thí nghiệm phức tạp, hiện đại, đắt tiền mà đồ dùng ở đây
không quá tốn kém, đa số là các vật dụng rẻ tiền, dễ kiếm, dễ sử dụng; vài loại hoa
của cây cam, cây bưởi , cây hồng,…và một con dao mỏng, các em có thể xác định
được các cơ quan sinh sản và sự thụ phấn của cây như thế nào; một ngọn nến, một
cốc thủy tinh và một chậu nước, các em xác định được các thành phần của khơng
khí; một cái xa - ranh học sinh cũng phát hiện được không khí nén lại hoặc giãn ra;
một cục bơng, một cái phễu, một vỏ chai nước khoáng các em dễ dàng chứng
minh nước có bị ơ nhiễm hay khơng; một nồi nước, một bếp lửa các em có thể
hình dung vịng tuần hoàn của nước trong thiên nhiên; rồi que diêm, hạt vừng, con
chuột, tấm ni lông,…Miễn là giáo viên biết tận dụng và huy động tất cả các em

cùng làm, cùng nghiên cứu. Đặc biệt là huy động học sinh tìm kiếm, tự làm đồ
dùng thí nghiệm.
Những dụng cụ thí nghiệm dễ kiếm, dễ làm đồng nghĩa với việc tiến hành
thao tác thí nghiệm cũng hết sức đơn giản, khơng cần phải có sự hiểu biết kỹ thuật
gì đặc biệt.
Khi học sinh thực hiện một số thí nghiệm đơn giản như thử nghiệm nhu cầu
của lá cây bằng cách làm thay đổi các thông số: đất, nước, ánh sáng, nhiệt độ,
khơng khí .Bằng cách so sánh và phân tích các kết quả thực nghiệm, các em sẽ
phát hiện ra rằng: Chỉ cần thay đổi mỗi lần một thông số là có thể kết luận khác
nhau. Và trong q trình ấy, học sinh sẽ đặt ra các câu hỏi thắc mắc:
- Tại sao vẫn có những loại cây sống bám trên cây khác mà không cần đến
yếu tố đất?
- Tại sao sự nảy mầm không chỉ xảy ra trong đất mà cịn cả trên chất nhựa,
nước? như vậy trong hạt có gì?
- Cây trồng có ăn đất khơng? Tại sao phải bón phân cho cây?
Ở đây chỉ cần vài thao tác là ta có thể chứng minh hiện tượng bằng cách cho
hạt nảy mầm ở những vị trí khác nhau, điều kiện khác nhau. Trong q trình thực
nghiệm, giáo viên khơng định hướng các giả thuyết mà để cho các em tự nghĩ ra
11


các giả thuyết, các thí nghiệm làm sao để các em tự thực hiện được cái mà mình đi
tìm. Sau đó, bằng cuộc tranh luận đầy lý lẽ, các em đi đến kết luận chặt chẽ hơn,
thuyết phục hơn.
3. Tiến trình sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học mơn
Khoa học:
Tiến trình dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” có 5 bước:
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề
* Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do
giáo viên chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình huống xuất

phát phải ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với học sinh. Tình huống xuất phát nhằm
lồng ghép câu hỏi nêu vấn đề. Tình huống xuất phát càng rõ ràng thì việc dẫn nhập
cho câu hỏi nêu vấn đề càng dễ. Tuy nhiên có những trường hợp khơng nhất thiết
phải có tình huống xuất phát mới đề xuất được câu hỏi nêu vấn đề mà tùy vào
từng kiến thức và từng trường hợp cụ thể.
* Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học. Câu hỏi nêu vấn đề cần
đảm bảo yêu cầu phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính
tị mị, thích tìm tịi, nghiên cứu của học sinh nhằm chuẩn bị tâm thế cho học sinh
trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức. Giáo viên phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối
khơng được dùng câu hỏi đóng (trả lời có hoặc không) đối với câu hỏi nêu vấn đề.
Câu hỏi nêu vấn đề càng đảm bảo các yêu cầu nêu ra ở trên thì ý đồ dạy học của
giáo viên càng dễ thực hiện thành cơng.
Ví dụ 1: Bài “ Sơ đồ vịng tuần hồn của nước trong thiên nhiên” (Khoa học
4-Trang 48), giáo viên có thể nêu tình huống như sau: Khi mưa thì có nước rơi
xuống. Vậy tại sao lại có nước ở trên trời?
Ví dụ 2: Bài “Sự chuyển thể của chất” (Khoa học 5-Trang 72), giáo viên có
thể nêu: Ở lớp 4 các em đã biết được sự chuyển thể của nước. Vậy các chất khác
nhau chúng tồn tại ở những dạng nào, chúng có thể chuyển thể lẫn nhau được hay
khơng?
Ví dụ 3: Bài “Năng lượng mặt trời” (Khoa học 5-Trang 84), ta cũng có thể
nêu: Điều gì sẽ xảy ra nếu khơng có mặt trời?
Bước 2: Bộc lộ biểu tượng ban đầu
Hình thành biểu tượng ban đầu để từ đó hình thành các câu hỏi của học sinh
là bước quan trọng, đặc trưng của phương pháp Bàn tay nặn bột. Trong bước này,
giáo viên khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình
trước khi được học kiến thức. Khi yêu cầu học sinh trình bày biểu tượng ban đầu,
giáo viên có thể u cầu nhiều hình thức biểu hiện của học sinh, có thể là bằng lời
nói , bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện suy nghĩ. Quan điểm ban đầu của học sinh
thường là các quan niệm hay khái quát chung về sự vật, hiện tượng, có thể sai hoặc
chưa chính xác về mặt khoa học. Giáo viên nên khuyến khích học sinh trình bày ý

kiến của mình; giáo viên phải biết chấp nhận và tơn trọng những quan điểm của
12


học sinh, tuyệt đối khơng có bình luận hay nhận xét gì về tính đúng sai sau khi học
sinh trình bày .
Khi viết (đối với biểu tượng ban đầu bằng lời), vẽ hay gắn hình vẽ của học
sinh (đối với các biểu tượng ban đầu biểu diễn bằng hình vẽ) lên bảng, giáo viên
nên chọn một vị trí thích hợp, dễ nhìn và đảm bảo khơng ảnh hưởng đến các phần
ghi chép khác. Giữ nguyên các biểu tượng ban đầu này để đối chiếu và so sánh sau
khi hình thành kiến thức cho học sinh ở bước 5 của tiến trình phương pháp.
Tùy tình hình thực tế ý kiến phát biểu của học sinh để giáo viên quyết định
phân nhóm biểu tượng ban đầu.
Đơi khi có những quan điểm khác biệt rõ rệt nhưng lại không liên quan đến
kiến thức bài học được học sinh nêu ra thì giáo viên nên khéo léo giải thích cho
học sinh ý kiến đó rất thú vị nhưng trong khuôn khổ kiến thức của lớp mà các em
đang học chưa đề cập đến vấn đề đó bằng cách đại loại như: "Ý kiến của em rất
thú vị nhưng trong chương trình học ở lớp 4 của chúng ta chưa đề cập tới. Các em
sẽ được tìm hiểu ở các bậc học cao hơn (hay các lớp sau)". Nói như vậy nhưng
giáo viên cũng nên ghi chú lên bảng để khuyến khích học sinh phát biểu ý kiến và
không quên đánh dấu đây là câu hỏi tạm thời chưa xét đến ở bài học này.
Biểu tượng ban đầu càng đa dạng, phong phú, càng sai lệch với ý kiến đúng
thì tiết học càng sơi nổi, thú vị, gây hứng thú cho học sinh. Do đó, ý đồ dạy học
của giáo viên càng dễ thực hiện được.
Ví dụ 1: Với bài “ Sơ đồ vịng tuần hoàn của nước trong thiên nhiên” (Khoa
học 4-Trang 48), học sinh có thể đưa ra những hiểu biết, hình thành những biểu
tượng ban đầu của mình về nước có ở trên trời là :
- Do sơng, suối có ở trên trời.
- Do nhiều mây nặng nên nước rơi xuống.
- Do có ơng thần ở trên trời phun nước xuống.

- Do nước ở sơng, ao ,hồ, biển,…nóng rồi bốc hơi lên cao , gặp lạnh hơi
nước ngưng tụ lại thành những giọt nước nhỏ rồi rơi xuống đất.
Hay trong bài “ Sự sinh sản của ếch”(Khoa học 5- trang 116). Giáo viên nêu
câu hỏi: Em có thể nêu lên sự hiểu biết của mình về sự sinh sản của ếch? Học sinh
có thể có nhiều ý kiến khác nhau:
- Ếch đẻ ra trứng.
- Ếch đẻ con.
- Ếch đẻ dưới nước.
- Ếch đẻ trên cạn.
- Trứng ếch nở ra con nòng nọc có đi, sau đó nó đứt đi, phát triển thành
con ếch.
13


Hoặc một số biểu tượng về khơng khí khi học chủ đề về khơng khí- Khoa
học 4.
- Khơng khí là gì?
+ Khơng khí là gió.
+ Bão là khơng khí.
+ Khi ta thở, con chim bay,…tạo ra khơng khí.
- Khơng khí có ở đâu?
+ Ở bên ngồi.
+ Ở trong đất, nước, chai lọ,…
+ Ở trong lốp ơ tơ.
- Người ta có thể nhìn thấy khơng khí khơng?
+ Khơng nhìn thấy.
+ Có nhìn thấy.
Nhìn thấy chút ít.
- Người ta có thể làm ra gió như thế nào?
+ Khi ta quạt.

+ Khi ta thở.
+ Khi các vật chuyển động tạo thành gió.
+ Khi quả bóng xì hơi.
Trên đây là một số ví dụ về dự kiến mà học sinh có thể bộc lộ biểu tượng
ban đầu và sẽ phát biểu lên, giáo viên phải biết lắng nghe, biết khêu gợi, tạo điều
kiện cho học sinh phát biểu. Cũng xuất phát từ những quan niệm hiểu biết ban đầu,
giáo viên tổ chức cho học sinh tiến hành các hoạt động và tổng hợp thành một biểu
tượng hoàn chỉnh về một sự vật hay hiện tượng nào đó. Nghĩa là kiến thức được
thiết lập trên nền tảng là hiểu biết, bộc lộ biểu tượng ban đầu .
Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án thí nghiệm
- Ở bước này giáo viên cần khéo léo, linh hoạt điều khiển học sinh thảo luận
nhằm giúp các em đề xuất các câu hỏi từ những khác biệt và phong phú về biểu
tượng ban đầu đã có theo ý đồ, mục đích dạy học. Chú ý xốy sâu vào những sự
khác biệt liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài (hay mô đun kiến thức). Như
vậy, nếu việc chọn lựa các biểu tượng ban đầu (bước 2) tốt sẽ thuận lợi cho việc
so sánh và đề xuất câu hỏi của học sinh .
- Từ các câu hỏi được đề xuất, giáo viên lựa chọn, tổng hợp thành câu hỏi
phù hợp với nội dung bài nhất sau đó đề nghị các em đề xuất thí nghiệm tìm tịi nghiên cứu để tìm câu trả lời cho các câu hỏi .
14


- Sau khi học sinh đề xuất phương án thí nghiệm tìm tịi - nghiên cứu, giáo
viên nêu nhận xét chung và quyết định tiến hành phương án thí nghiệm đã chuẩn
bị sẵn. Trường hợp học sinh không đưa ra được phương án thí nghiệm tìm tịi nghiên cứu thích hợp, giáo viên có thể gợi ý hoặc đề xuất cụ thể phương án.
Lưu ý rằng phương án thí nghiệm tìm tịi - nghiên cứu ở đây được hiểu là
các phương án để tìm ra câu trả lời. Có nhiều phương pháp như quan sát, thực
hành - thí nghiệm, nghiên cứu tài liệu…
- Chẳng hạn: Với bài “ Sơ đồ vịng tuần hồn của nước trong thiên nhiên”
(Khoa học 4-Trang 48), học sinh đã đưa ra 4 biểu tượng ban đầu (ở bước 2) thì các
em sẽ dựa vào đó để đề xuất câu hỏi là :

1. Mây và mưa do đâu mà có?
2. Vì sao có mây và mưa do đâu ra?
3. Mây được hình thành như thế nào mưa từ đâu ra?”
Với câu hỏi trên, giáo viên cho học sinh đề xuất phương án thí nghiệm. Các
em có thể đưa ra các phương án sau:
1. Xem tranh.
2. Thí nghiệm.
3. Hỏi người lớn.
4. Tìm hiểu qua mạng In ternet.
Giáo viên giúp học sinh phân tích và lựa chọn phương án thí nghiệm phù
hợp nhất để thực hiện tại lớp là phương án 2( làm thí nghiệm).
Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tịi - nghiên cứu
Từ các phương án thí nghiệm tìm tịi - nghiên cứu mà học sinh nêu ra, giáo
viên khéo léo cho học sinh nhận xét và lựa chọn thí nghiệm để tiến hành. Ưu tiên
thực hiện thí nghiệm trực tiếp trên vật thật. Một số trường hợp khơng thể tiến hành
thí nghiệm trên vật thật có thể làm mơ hình, hoặc cho học sinh quan sát tranh vẽ.
Khi tiến hành thực hiện thí nghiệm, giáo viên nêu rõ yêu cầu và mục đích
thí nghiệm rồi mới phát các dụng cụ và vật liệu thí nghiệm tương ứng với hoạt
động nhằm tập trung sự chú ý của học sinh. Nếu khơng quản lí tốt khâu này, ý đồ
dạy học của giáo viên sẽ không đạt kết quả.
Tiến hành thí nghiệm tương ứng với mơđun kiến thức. Làm lần lượt các thí
nghiệm nếu có nhiều thí nghiệm. Mỗi thí nghiệm thực hiện xong nên dừng lại để
học sinh rút ra kết luận (tìm thấy câu trả lời cho các vấn đề đặt ra tương ứng).
Giáo viên lưu ý học sinh ghi chép vào vở thí nghiệm. Phần ghi chép này
giáo viên để học sinh ghi chép tự do, khơng nên gị bó và có khn mẫu quy định,
nhất là đối với những lớp mới làm quen với phương pháp BTNB. Đối với các thí
nghiệm phức tạp và nếu có điều kiện, giáo viên nên thiết kế một mẫu sẵn để học
15



sinh điền kết quả thí nghiệm, vật liệu thí nghiệm. Ví dụ như các thí nghiệm phải
ghi số liệu theo thời gian, lặp lại thí nghiệm ở các điều kiện nhiệt độ khác nhau…
Khi học sinh làm thí nghiệm, giáo viên bao quát lớp, quan sát từng nhóm.
Nếu thấy nhóm hoặc học sinh nào làm sai theo yêu cầu thì giáo viên chỉ nhắc nhỏ
trong nhóm đó hoặc với riêng học sinh đó, khơng nên thơng báo lớn tiếng chung
cho cả lớp vì làm như vậy sẽ phân tán tư tưởng và ảnh hưởng đến cơng việc của
các nhóm học sinh khác.
Giáo viên chú ý yêu cầu học sinh thực hiện độc lập các thí nghiệm trong
trường hợp các thí nghiệm được thực hiện theo từng cá nhân, theo nhóm . Thực
hiện độc lập theo cá nhân hay nhóm để tránh việc học sinh nhìn và làm theo cách
của nhau, thụ động trong suy nghĩ và cũng tiện lợi cho giáo viên phát hiện các
nhóm hay các cá nhân xuất sắc trong thực hiện thí nghiệm nghiên cứu, đặc biệt là
các thí nghiệm được thực hiện với các dụng cụ, vật liệu thí nghiệm giống nhau
nhưng nếu bố trí thí nghiệm không hợp lý sẽ không thu được kết quả thí nghiệm
như ý.
Bước 5: Kết luận, hợp thức hóa kiến thức
Sau khi thực hiện thí nghiệm tìm tịi - nghiên cứu, các câu trả lời dần dần
được giải quyết, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc
chưa chuẩn xác một cách khoa học. Giáo viên có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ
thống lại để học sinh ghi vào vở coi như là kiến thức của bài học. Trước khi kết
luận chung, giáo viên nên yêu cầu một vài ý kiến của học sinh cho kết luận sau khi
thực hiện thí nghiệm . Giáo viên khắc sâu kiến thức cho học sinh bằng cách cho
học sinh nhìn lại, đối chiếu lại với các ý kiến ban đầu (biểu tượng ban đầu). Như
vậy từ những quan niệm ban đầu sai lệch, sau q trình thí nghiệm tìm tịi - nghiên
cứu, chính học sinh tự phát hiện ra mình sai hay đúng mà khơng phải do giáo viên
nhận xét một cách áp đặt. Chính học sinh tự phát hiện những sai lệch trong nhận
thức và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động. Những thay đổi này sẽ giúp học
sinh ghi nhớ lâu hơn, khắc sâu kiến thức.
Nếu có điều kiện, giáo viên có thể in sẵn tờ rời tóm tắt kiến thức của bài học
để phát cho học sinh dán vào vở thí nghiệm hoặc tập hợp thành một tập riêng để

tránh mất thời gian ghi chép(nếu kiến thức phức tạp và dài)
4. Cách thức sử dụng PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT”
4.1. Lựa chọn kiến thức, chủ đề dạy học
Khi lựa dạy học theo PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT”, giáo viên
cần chọn kiến thức kĩ năng, chủ đề dạy học phải gần gũi với đời sống mà học sinh
dễ cảm nhận và đã có ít nhiều kiến thức, những quan niệm ban đầu về chúng để
học sinh tự đề xuất được các phương án thí nghiệm, tự lực tiến hành tìm tịi nghiên
cứu.
16


4.2. Lựa chọn sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học
Với các phương pháp dạy học khác việc sử dụng các dồ dùng dạy học như:
tranh ảnh, bảng biểu, vật thật… nhiều khi mang tính minh họa, kiểm chứng do
giáo viên đưa ra. PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT” khác ở chỗ, học sinh
có thể được trực tiếp chọn lựa, chuẩn bị đồ dùng, thiết bị sau khi đã đề xuất
phương án tìm tịi nghiên cứu. Để thực hiện phương pháp này phải có đủ số lượng
đồ dùng, thiết bị cho học sinh hoặc nhóm học sinh; sử dụng thiết bị dạy học phù
hợp, đúng lúc mới tạo được hiệu quả cao nhất; trước khi tiến hành phải kiểm tra
các đồ dùng, thiết bị dạy học… nhằm đảm bảo độ an tồn. Với các bài học có sử
dụng phương pháp thí nghiệm trực tiếp, giáo viên cần làm trước các thí nghiệm.
4.3. Tổ chức lớp trong dạy học theo PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN
BỘT”
+ Dạy học theo PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT” có rất nhiều hoạt
động theo nhóm, khi sắp xếp bàn, ghế theo dãy truyền thống sẽ nhiều bất lợi. Nên,
khi tổ chức thảo luận nhóm, bàn, ghế được sắp xếp theo nhóm cố định.
+ PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT” có hai hình thức là: Thảo luận
nhóm nhỏ (từ 4 đến 6 học sinh) và thảo luận nhóm lớn (tồn bộ lớp học). Các
nhóm bàn ghế cần sắp xếp hài hòa theo số lượng học sinh trong lớp.
+ Cần chú ý đảm bảo ánh sáng, hướng ngồi của các học sinh sao cho tất cả

học sinh đều nhìn thấy rõ thơng tin trên bảng; Khoảng cách giữa các nhóm đảm
bảo đi lại dễ dàng cho học sinh khi lên bảng trình bày, di chuyển khi cần thiết;
+ Đối với những bài học có làm thí nghiệm, thực hành, giáo viên cần có chỗ
để các vật dụng cho học sinh.
4.4. Thiết kế hoạt động dạy học PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT”
Với hoạt động này, giáo viên cần một mặt bám sát mục tiêu, nội dung của
kiến thức, của chủ đề dạy, mặt khác căn cứ vào các nguyên tắc, các kĩ thuật dạy
học của PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT” thiết kế hoạt động dạy của
thầy sao cho phù hợp với hoạt động học (nhận thức) của học sinh. Quy trình thiết
kế hoạt động dạy học theo PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT” gồm các
bước như sau:
17


Các bước
Bước 1:
Tình huống

Nhiệm vụ của HS
- Quan sát, lắng nghe, suy

Nhiệm vụ của GV
- GV chủ động đưa ra tình

nghĩ.

huống mở chứa đựng mâu

xuất phát và


thuẫn liên quan đến việc giải

câu hỏi nêu

quyết nội dung bài học.

vấn đề

- Tình huống dưới dạng câu
hỏi nêu vấn đề: ngắn gọn, dễ
hiểu, phù hợp với trình độ HS,
kích thích tính tị mị, tìm tịi,

Bước 2:
Bộc lộ quan

- Bộc lộ quan niệm ban đầu

nghiên cứu,...
- GV: Khuyến khích HS nêu

nêu những suy nghĩ từ đó hình những suy nghĩ bằng nhiều

niệm ban đầu

thành câu hỏi, giả thuyết bằng

cách nói, viết, vẽ.

của học sinh


nhiều cách nói, viết, vẽ.

- GV quan sát nhanh để tìm

Đây là bước quan trọng
đặc trưng của PP BTNB.

các hình vẽ khác biệt.
- GV không nhất thiết phải
chú ý tới các quan niệm đúng,
cần phải chú trọng đến các

Bước 3:

quan niệm sai.
- GV giúp học sinh đề xuất

a. Đề xuất câu hỏi

Đề xuất câu hỏi - Từ các khác biệt và phong
hay giả thuyết

câu hỏi liên quan đến nội dung

phú về biểu tượng ban đầu,

bài học.

và thiết kế


HS đề xuất câu hỏi liên quan

- Kiểm sốt lời nói, cấu trúc

phương án

đến nội dung bài học.

câu hỏi, chính xác hố từ vựng

b, Đề xuất phương án thực

của HS.
- GV đặt câu hỏi đề nghị HS

nghiệm

đề xuất thực nghiệm tìm tịi

thực nghiệm

nghiên cứu để trả lời cho câu
- Bắt đầu từ những vấn đề

hỏi đó.

khoa học được xác định, HS

- GV ghi lại các cách đề xuất


xây dựng giả thuyết.

của HS (không lặp lại).

- HS trình bày các ý tưởng của - GV nhận xét chung và quyết
18


mình, đối chiếu nó với những định tiến hành PP thí nghiệm
bạn khác.

đã chuẩn bị sẵn.
(Nếu HS chưa đề xuất được
GV có thể gợi ý hay đề xuất
phương án cụ thể).

Bước 4:
Tiến hành thí

HS hình dung có thể kiểm
chứng các giả thuyết bằng…

nghiệm sau đó mới phát các

nghiệm tìm tịi nghiên cứu

- Nêu rõ yêu cầu, mục đích thí

…thí nghiệm (Ưu tiên thí

nghiệm trực tiếp trên vật thật).

dụng cụ và vật liệu thí nghiệm
- GV bao quát và nhắc nhở
các nhóm chưa thực hiện,
hoặc thực hiện sai…

…quan sát

- GV tổ chức việc đối chiếu
các ý kiến sau một thời gian

…điều tra

tạm đủ mà HS có thể suy nghĩ

…nghiên cứu tài liệu.

- GV khẳng định lại các ý kiến

- HS ghi chép lại vật liệu thí

về phương pháp kiểm chứng

nghiệm, cách bố trí, và thực

giả thuyết mà HS đề xuất.

hiện thí nghiệm (mô tả bằng


- GV không chỉnh sửa cho HS

lời hay hình vẽ).
- HS kiểm chứng các giả
thuyết của mình bằng một

- GV tập hợp các điều kiện thí

hoặc các phương pháp đã hình nghiệm nhằm kiểm chứng các
dung ở trên (thí nghiệm, quan

ý tưởng nghiên cứu được đề

sát, điều tra, nghiên cứu tài

xuất.

liệu).

bước 5:

Thu nhận các kết quả và ghi

- GV giúp HS phương pháp

chép lại để trình bày

trình bày các kết quả.

HS kiểm tra lại tính hợp lý


- GV động viên HS và yêu cầu

19



×