Luật thi hành án dân sự năm 2008 với nhiều quy định mới thực hiện cải cách
tư pháp , xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN
Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung
và qúa trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của Toà án chỉ
thực sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án là
công đoạn cuối cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án được chấp
hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà
nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu
quả của bộ máy Nhà nước.
Chính vì vậy, Hiến pháp năm 1992 đã quy định: “Các bản án và quyết định của
Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi nhân dân tôn trọng;
những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Thực hiện quy định này của Hiến pháp 1992, cho đến nay công tác thi hành án dân
sự đã thu được nhiều kết quả quan trọng như: về mặt thể chế, đã ban hành được
hai Pháp lệnh chuyên ngành về thi hành án dân sự là Pháp lệnh thi hành án dân sự
1993, Pháp lệnh Thi hành án dân sự 2004 và trên dưới một trăm văn bản trực tiếp
hướng dẫn hoặc có liên quan đến công tác thi hành án dân sự;
về mặt tổ chức bộ máy, các cơ quan thi hành án dân sự trên toàn quốc đã từng
bước được kiện toàn: 63 cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh trên phạm vi cả nước
đã có Trưởng hoặc được giao Quyền trưởng và Phó trưởng; về cơ bản tất cả các cơ
quan thi hành án dân sự cấp tỉnh đã thành lập được hai hoặc ba phòng chuyên môn
trực thuộc, riêng Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội được thành lập bốn phòng,
Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh được thành lập năm phòng và mỗi
phòng đều đã được bổ nhiệm Trưởng, Phó trưởng phòng hoặc Phó trưởng phòng
giao phụ trách;
về công tác biên chế, các cơ quan thi hành án dân sự trên phạm vi cả nước đã
tuyển dụng được khoảng 8000 biên chế trên tổng số 8287 biên chế được phân bổ,
trong đó có gần 3.000 Chấp hành viên, ngoài ra là các chức danh khác như Kế
toán, Chuyên viên, Cán sự, Thủ kho, Thủ quỹ…;
về công tác đào tạo, bồi dưỡng, Bộ Tư pháp luôn luôn quan tâm chỉ đạo các đơn
vị chức năng thuộc Bộ liên tiếp mở các khoá đào tạo Chấp hành viên, các lớp bồi
dưỡng, tập huấn kiến thức pháp luật mới để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ thi hành án cho Thủ trưởng các cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên đã
được bổ nhiệm lâu năm và các công chức làm công tác tổ chức, kế toán, văn thư,
lưu trữ trong các cơ quan thi hành án dân sự địa phương;
về công tác giải quyết án, được sự quan tâm chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tư pháp,
Cục Thi hành án dân sự, các cơ quan, ban ngành ở Trung ương cùng với các cấp
uỷ, chính quyền địa phương đã giúp các cơ quan thi hành án dân sự trên phạm vi
cả nước hàng năm thi hành được hàng trăm nghìn vụ việc với tỉ lệ năm sau cao
hơn năm trước, thu về cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân hàng nghìn tỉ đồng, trong
đó có những vụ án lớn, phức tạp kéo dài trong nhiều năm đã được giải quyết dứt
điểm, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý
của Nhà nước.
Những kết quả đạt được sau hơn bốn năm thực hiện Pháp lệnh THADS năm 2004
là cơ bản. Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong
tình hình mới thì Pháp lệnh THADS 2004 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, làm
giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, tính nghiêm minh của Pháp luật;
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước theo bản án, quyết định
của Toà án chưa được bảo đảm, nhiều việc gây bức xúc trong xã hội[1].
Thực trạng này đã đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện về thể chế thi hành án;
đổi mới quy trình, thủ tục thi hành án dân sự; nâng cao vị thế, vai trò, trách nhiệm
của hệ thống tổ chức thi hành án dân sự trong bộ máy nhà nước để đáp ứng đòi hỏi
của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong
đó các quyền tự do dân chủ và lợi ích chính đáng của con người phải được pháp
luật bảo đảm và bảo vệ toàn vẹn; mọi vi phạm pháp luật xâm phạm quyền tự do,
lợi ích chính đáng của công dân đều bị nghiêm trị và bảo đảm thực thi các lợi ích
đó trên thực tế thông qua hoạt động thi hành án là giai đoạn cuối cùng của quá
trình tố tụng.
Nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt đó của công tác thi hành án dân sự đối
với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 đã quy định: “Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của Toà
án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử
lý theo phán quyết của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Để tiếp tục đưa các chủ trương, đường lối đó của Đảng về cải cách tư pháp trong
lĩnh vực thi hành án dân sự vào thực tiễn cuộc sống, ngày 14/11/2008, tại kỳ họp
thứ 4, Quốc hội khoá XII đã biểu quyết với đa số phiếu tán thành thông qua Luật
thi hành án dân sự gồm có 9 chương 183 Điều, có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/7/2009 và Nghị quyết số 24/2008/QH12 của Quốc hội về việc thi hành Luật thi
hành án dân sự chứa đựng nhiều nội dung mới quan trọng thể hiện chủ trương cải
cách tư pháp trong lĩnh vực thi hành án dân sự và xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cụ thể bao gồm:
Một là, Quốc hội thông qua Luật thi hành án dân sự 2008 thay thế Pháp lệnh thi
hành án dân sự 2004 đã khẳng định giá trị hiệu lực pháp lý cao của các quy phạm
pháp luật trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Có thể nói trong lịch sử lập pháp Việt
Nam, riêng trong lĩnh vực thi hành án thì Luật thi hành án dân sự 2008 là văn bản
chuyên ngành đầu tiên về thi hành án dân sự có hiệu lực pháp lý cao nhất. Công
cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay đòi hỏi
hệ thống pháp luật phải ngày càng được hoàn thiện, có tính pháp điển cao, trong
đó thi hành án là một vấn đề hết sức hệ trọng, liên quan trực tiếp đến hiệu lực và
hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước, đến trật tự kỷ cương pháp luật và ảnh
hưởng sâu sắc đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, do đó, việc phải có
một văn bản có hiệu lực pháp lý cao của Quốc hội về thi hành án dân sự là hết sức
cần thiết.
Hai là, quy định mới về thi tuyển chấp hành viên trước khi bổ nhiệm. Một trong
những nội dung của định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội
chủ nghĩa theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đó là: “Nghiên cứu thực hiện cơ chế thi
tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp; tiến tới thực hiện chế
độ thi tuyển đối với một số chức danh tư pháp”. Phù hợp yêu cầu đó, Luật thi hành
án dân sự 2008 lần đầu tiên đã quy định việc thi tuyển chấp hành viên là thủ tục,
điều kiện bắt buộc trước khi bổ nhiệm. Để được bổ nhiệm làm chấp hành viên sơ
cấp, trung cấp, cao cấp thì người dự tuyển phải tham gia và trúng tuyển kỳ thi
tuyển Chấp hành viên ở các ngạch tương ứng đó. Việc bổ nhiệm Chấp hành viên
thông qua thi tuyển sẽ cho phép lựa chọn được người có đủ tiêu chuẩn, năng lực
để bổ nhiệm chấp hành viên, tạo khả năng thu hút cán bộ hoạt động ở những lĩnh
vực khác nhau phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp, cải cách hành chính. Tuy
nhiên, việc thi tuyển chấp hành viên cũng có trường hợp ngoại lệ được quy định
tại Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Luật thi hành án dân sự, đó là để phù
hợp với điều kiện cụ thể về nguồn công chức làm công tác thi hành án tại các địa
bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa trong giai đoạn hiện nay, Quốc hội đãgiao Chính
phủ quy định những cơ quan thi hành án dân sự cụ thể ở các địa bàn nêu trênđược
tuyển chọn người có trình độ cử nhân luật làm Chấp hành viên không qua thi
tuyển trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật thi hành án dân sự có hiệu lực thi
hành. Đây là quy định đặc thù của pháp luật thi hành án dân sự phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương.
Ba là, quy định mới về bổ nhiệm chấp hành viên không kỳ hạn. Thực hiện chủ
trương cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa theo tinh thần của Nghị quyết 49-NQ/TW: “Tăng thời hạn bổ nhiệm chức
danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn”, Luật thi hành án
dân sự 2008 đã quy định mới về việc bổ nhiệm chấp hành viên không kỳ hạn thay
vì việc bổ nhiệm chấp hành viên theo nhiệm kỳ năm năm như quy định pháp luật
hiện hành. Từ kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và thực tiễn công tác bổ
nhiệm chấp hành viên ở Việt Nam trong thời gian qua cho thấy, quy định bổ
nhiệm chấp hành viên không theo nhiệm kỳ sẽ vừa kế thừa đựơc những ưu điểm,
vừa khắc phục được về cơ bản những hạn chế của việc bổ nhiệm chấp hành viên
có kỳ hạn. Vì chấp hành viên là một chức danh tư pháp gắn với việc thực hiện
nhiệm vụ chuyên môn về thi hành án dân sự nên việc bổ nhiệm chấp hành viên
không theo kỳ hạn sẽ tạo tâm lý yên tâm để chấp hành viên làm tốt công tác thi
hành án, hơn nữa điều này cũng không hạn chế đến việc xử lý kỷ luật nếu chấp
hành viên có vi phạm hoặc miễn nhiệm nếu chấp hành viên không đủ năng lực,
điều kiện làm Chấp hành viên.
Bốn là, quy định mới về cưỡng chế giao nhà là nhà ở duy nhất của người phải thi
hành án thì được hỗ trợ tiền thuê nhà. Việc trích lại một khoản tiền cho người
phải thi hành án trong trường hợp họ bị cưỡng chế giao nhà là nhà ở duy nhất là
hết sức cần thiết, thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta, phù hợp với định hướng
xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là khoản tiền
trong số tiền bán tài sản để đảm bảo cho người phải thi hành án tạo lập chỗ ở khác
hoặc thuê nhà ở. Do đó, Luật thi hành án dân sự đã quy định: Trong trường hợp
cưỡng chế giao nhà là nhà ở duy nhất của người phải thi hành án cho người mua
được tài sản bán đấu giá, nếu xét thấy sau khi thanh toán các nghĩa vụ thi hành án
mà người phải thi hành án không còn đủ tiền để thuê nhà hoặc tạo lập nơi ở mới
thì trước khi làm thủ tục chi trả cho người được thi hành án, Chấp hành viên trích
lại số tiền bán tài sản một khoản tiền để người phải thi hành án thuê nhà phù hợp
với giá thuê nhà trung bình tại địa phương trong thời hạn một năm.
Năm là, quy định mới về việc miễn thi hành án đối với các khoản phải thu cho
ngân sách Nhà nước có giá trị không quá 500.000đ. Có thể nói tính nhân đạo là
một trong những ưu việt của nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
trong đó Nhà nước ta luôn có những chính sách hỗ trợ đối với cá nhân, gia đình có
hoàn cảnh khó khăn. Chính vì vậy, tại Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày
14/11/2008 của Quốc hội về việc thi hành Luật thi hành án dân sự đã quy định:
“Đối với các khoản thu cho ngân sách Nhà nước có giá trị không quá 500.000đ,
mà thời gian tổ chức thi hành đã quá 5 năm, tính đến thời điểm Luật thi hành án
dân sự có hiệu lực thi hành nhưng người phải thi hành án không có điều kiện thi
hành án thì cơ quan thi hành án dân sự phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân cùng
cấp lập danh sách đề nghị Toà án cấp huyện nơi cơ quan thi hành án dân sự đang
tổ chức việc thi hành án có trụ sở ra quyết định miễn thi hành đối với khoản nghĩa
vụ đó”.
Sáu là, quy định mới về chủ trương xã hội hoá một số công việc liên quan đến
công tác thi hành án dân sự. Thực hiện chủ trương xã hội hoá một số công việc
trong lĩnh vực thi hành án dân sự theo quy định tại Nghị quyết 49-NQ/TW: “Từng
bước thực hiện việc xã hội hoá và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho
tổ chức không phải là cơ quan Nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án
…; nghiên cứu chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên), trước mắt có thể tổ chức
thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn
sẽ có bước đi tiếp theo”, Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của Quốc
hội về việc thi hành Luật thi hành án dân sự đã nhất trí giao cho Chính phủ quy
định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một
số địa phương. Việc thí điểm được thực hiện kể từ ngày Luật thi hành án dân sự có
hiệu lực thi hành đến ngày 01/7/2012. Từ kết quả thí điểm, Chính phủ sẽ tổng kết,
đánh giá thực tiễn và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định.
Ngoài những quy định mới cơ bản nêu trên, Luật thi hành án dân sự cũng đã sửa
đổi, bổ sung làm rõ hơn một số quy định quan trọng khác như: về hệ thống tổ chức
thi hành án; quy định Chấp hành viên được sử dụng công cụ hỗ trợ khi thi hành
công vụ; tăng thời hiệu yêu cầu thi hành án; bổ sung các biện pháp bảo đảm thi
hành án; bổ sung một số điều khoản về các biện pháp cưỡng chế thi hành án và thủ
tục cưỡng chế thi hành án; đơn giản hoá một số thủ tục hành chính không cần thiết
trong quá trình thi hành án, v.v…
Với một số lượng các điều khoản khá đồ sộ (gồm 9 chương và 183 Điều) quy định
đầy đủ các vấn đề cơ bản về công tác thi hành án dân sự từ công tác tổ chức cán bộ
đến nghiệp vụ thi hành án dân sự cho thấy Luật thi hành án dân sự 2008 được
Quốc hội thông qua năm 2008 là một bước tiến lớn về chất, đóng góp rất lớn vào
sự thành công của công tác lập pháp nói chung và việc hoàn thiện thể chế trong
lĩnh vực thi hành án dân sự của ngành tư pháp nói riêng. Luật thi hành án dân sự
với nhiều điểm mới quan trọng như vậy đã khắc phục được về cơ bản những hạn
chế của Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004, từng bước đưa chủ trương cải cách tư
pháp, cải cách hành chính, hội nhập quốc tế vào thực tiễn cuộc sống, nâng cao
hiệu quả của công tác thi hành án dân sự trong thời gian tới, qua đó góp phần vào
việc xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
[1] Tờ trình số 31/TTr-CP ngày 04/4/2008 của Chính phủ về Dự án Luật thi hành
án dân sự, trang 2.