Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Báo cáo thực tập hôn nhân gia đình 9.5 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.44 KB, 24 trang )

i

BỘ TƯ PHÁP

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀOTẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN:
MSSV:

BÁO CÁO THỰC TẬP CHUYÊN MƠN
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC TRƯỜNG HỢP LY HƠN
TẠI TỊA ÁN

MƠN: LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

CƠ SỞ THỰC TẬP:
TỊA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH

NĂM 2020


ii

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là báo cáo thực tập do tôi
thực hiện trong thời gian thực tập tại cơ quan
tiếp nhận thực tập. Các nội dung trong báo cáo
là trung thực, đảm bảo độ tin cậy./.
Xác nhận của


Cán bộ hướng dẫn thực
tập

Tác giả báo cáo thực tập


iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TAND: Tòa án nhân nhân
HN&GĐ: Hơn nhân và gia đình
UBND: Uỷ ban nhân dân
BLTTDS: Bộ Luật tố tụng dân sự
CHXHCN Việt Nam: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


iv

DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT

Tên bảng

Nội dung

1

Bảng 1


Số vụ án về HN&GĐ được TAND thành phố Vinh thụ lý
từ 01/01/2018 – 30/11/2020.

2

Bảng 1

Các hình thức giải quyết.


1

LỜI MỞ ĐẦU
Nếu việc kết hơn là việc hình thành quan hệ hơn nhân giữa hai người thì ly
hơn là việc chấm dứt mối quan hệ hơn nhân đó về mặt pháp lý theo luật Hơn nhân
và gia đình. Tuy nhiên, hậu quả của việc ly hôn không chỉ là chấm dứt mối quan hệ
hôn nhân giữa hai người mà nó cịn kéo theo các hậu quả xấu khác: gia đình đổ vỡ;
những đứa trẻ bị khuyết tật về tình cảm của bố hoặc mẹ, dễ sa vào các tệ nạn xã
hội. Có thể thấy, ly hơn vừa là vấn đề vừa mang tính gia đình vừa là vấn đề mang
tính xã hội sâu sắc.
* Giới thiệu khái quát về cơ sở thực tập.
Vinh là thành phố trực thuộc tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Thành phố là trung
tâm kinh tế và văn hóa lớn nhất khu vực Bắc Trung Bộ của Việt Nam và là đầu
mối quan trọng trong cửa ngõ kinh tế giữa Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam.
Thành phố có vị trí ở phía Đơng Nam của tỉnh bên cạnh sông Lam, và nằm trên
trục giao thông Bắc Nam chính của Việt Nam, có thể dễ dàng tiếp cận bằng đường
cao tốc, đường sắt, tàu thuyền và đường hàng không. Ngày 5 tháng 9 năm 2008,
thành phố trở thành đô thị loại I thứ tư của Việt Nam sau Hải Phòng, Đà
Nẵng và Huế. Vinh là thành phố đông dân nhất khu vực Bắc Trung Bộ với hơn
600.000 dân (tính đến năm 2019). Trong đó cư dân thành thị chiếm 80%. Thành

phố tiếp giáp huyện Nghi Lộc về phía Bắc và phía Đơng, huyện Hưng Ngun về
phía Tây, cũng như huyện Nghi Xuân và tỉnh Hà Tĩnh về phía Nam. Vinh nằm
cách Hà Nội 300 km về phía Nam và cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.400 km về
phía Bắc. Thành phố có tổng diện tích 104,97 km2, bao gồm 16 phường và 9 xã.
Tòa án nhân dân huyện thành phố Vinh được thành lập vào ngày
09/03/1946 với tên gọi đầu tiên Tòa án sơ cấp thị xã Vinh – Bến Thủy đến nay đã
74 năm. Năm 1964 Thủ tướng Chính phủ quyết định nâng thị xã Vinh – Bến Thủy
lên thành phố Vinh, cũng từ đó Tòa án nhân dân thị xã Vinh được đổi tên Tòa án
nhân dân thành phố Vinh và trụ sở làm việc được đặt tại xã Nghi Phú, thành phố
Vinh. Đến năm 2010, được sự đồng ý của lãnh đạo Tòa án nhân dân Tối cao, trụ sở
Tòa án nhân dân thành phố Vinh di chuyển đến làm việc tại khu B, Tòa án nhân
dân thành phố Vinh số 72, đường Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Vinh, Nghệ
An. Do đang trong quá trình xây dựng trụ sở mới nên hiện tại Tòa án nhân dân
thành phố Vinh đang làm việc tại trụ sở cũ của Tòa án nhân dân Tỉnh Nghệ An số
105a, đường Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Vinh, Nghệ An có 26 phịng làm
việc, 03 phịng xử án; 01 phòng họp; 01 kho lưu trữ.
Về cơ cấu, tổ chức Tòa án nhân dân thành phố Vinh hiện nay có 33 biên
chế, 5 hợp đồng. Trong đó: 01 Chánh án, 02 phó Chánh án; 01 chánh văn phịng và
01 phó văn phịng; có 19 Thẩm phán, cịn lại 12 Thư kí, 01 kế tốn và 01 văn thư
lưu trữ; 02 hợp đồng bảo vệ, 01 hợp đồng lái xe và 02 hợp đồng tạp vụ.
Hầu hết cán bộ cơng chức đã có trình độ đại học trở lên; có một số cán bộ,
cơng chức có 02 bằng đại học; có 14 cán bộ, cơng chức có trình độ thạc sỹ, 04 cán
bộ đang theo học thạc sỹ.


2

Đội ngũ cán bộ, cơng chức của Tịa án nhân dân thành phố Vinh có bản lĩnh
chính trị vững vàng, đều có phẩm chất đạo đức tốt, tác phong đúng mực, lối sống
lành mạnh, trình độ chun mơn đáp ứng được yêu cầu và nhu cầu Nhà nước đề ra.

Về chức năng, nhiệm vụ: Toàn án nhân dân thành phố Vinh có chức năng
xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính và
giải quyết các vụ việc theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan
toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ kết
quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc khơng có tội, áp dụng hoặc
khơng áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về
tài sản, quyền nhân thân trên phạm vi các vụ việc xảy ra trên địa bàn thành phố
Vinh.
* Lý do lựa chọn đề tài.
Cùng với sự phát triển chung của cả nước, thành phố Vinh đã và đang có
những chuyển biến đáng kể trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: Kinh tế
tăng trưởng, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, tình hình trật tự an tồn
xã hội cũng đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, song song với quá
trình phát triển của nền kinh tế thị trường thì đồng thời cũng nảy sinh những hạn
chế, bất cập trong đó phải kể đến vấn đề ly hôn trên địa bàn. Ly hôn trên địa bàn
thành phố trong những năm gần đây có xu hướng ngày càng tăng, ảnh hưởng tiêu
cực đến sự phát triển xã hội. Để hạn chế được thực trạng này cần phải có sự nghiên
cứu một cách tồn diện về ngun nhân dẫn đến thực trạng từ đó tìm ra những giải
pháp nhằm hạn chế thực trạng này, thực tiễn giải quyết. Trước yêu cầu đó cùng với
những kiến thức được trang bị tại nhà trường cũng như kết qủa đạt được trong quá
trình thực tập em xin chọn đề tài: “Thực tiễn giải quyết các trường hợp ly hơn tại
Tịa án (Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An)” làm báo cáo thực tập
chun mơn của mình.
* Các kế hoạch triển khai thực tập cụ thể để thực hiện báo cáo.
Để hồn thành báo cáo thực tập chun mơn này thì thu thập thơng tin là
một trong những nội dung quan trọng. Đây là bước khởi đầu tìm chất liệu để tạo
nên sản phẩm và sản phẩm muốn có kết quả tốt thì phải được thực hiện dựa trên
các chất liệu phù hợp. Việc này địi hỏi phải có những định hướng, kế hoạch cụ thể
để tránh những sai lầm cũng như những thiếu sót có thể ảnh hưởng đến chất lượng
cũng như độ chính xác của chuyên đề thực tập. Nhận thức rõ được tầm quan trọng

của công việc này, nên ngay từ những ngày đầu về đơn vị thực tập, được sự hướng
dẫn, giúp đỡ tận tình của ban lãnh đạo, các Thẩm phán, Thư ký của Tòa án nhân
dân thành phố Vinh em đã lên kế hoạch cụ thể cho việc thu thập thông tin phục vụ
cho việc nghiên cứu chuyên đề của mình. Trong suốt thời gian thực tập (từ ngày 26
tháng 10 đến ngày 29 tháng 11 năm 2020) tại Tòa án nhân dân thành phố Vinh em
đã có được tương đối đầy đủ các tư liệu, thông tin cần thiết phục vụ cho việc viết
chuyên đề thực tập tốt nghiệp cuối khóa của mình.
Và để có thể sử dụng được các thơng tin, tư liệu đã thu được trong q trình
thu thập thơng tin phù hợp với mục đích nghiên cứu của báo cáo thực tập này thì


3

phải sử dụng các phương pháp thu thập thông tin khác nhau, mà chủ yếu là hai
phương pháp: Nghiên cứu tài liệu và phương pháp quan sát khách quan.
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu là phương pháp thu thập thông tin mà
hoạt động chủ yếu là đọc và phân tích tài liệu, hồ sơ để rút ra những thơng tin cần
thiết.
+ Phương pháp quan sát khách quan là phương pháp thu thập thơng tin
trong đó sinh viên sẽ quan sát những công việc cụ thể được các Thẩm phán, thư ký
tiến hành trong quá trình giải quyết vụ án như dự các phiên tòa, tham gia việc thẩm
định tại chỗ, định giá tài sản.
Ngoài ra, các số liệu cần phải được trải qua các q trình xử lý thơng tin với
các phương pháp như: Phân tích thống kê tổng hợp, đối chiếu so sánh.
Sau 5 tuần tìm hiểu và thu thập thơng tin tại Tịa án nhân dân thành phố
Vinh với sự giúp đỡ của ban lãnh đạo cơ quan, đặc biệt là cán bộ hướng dẫn thực
tập em đã thu được những kết quả tương đối để phục vụ cho việc viết báo cáo thực
tập này. Các thông tin đã thu thập được thể hiện trong phần nội dung của báo cáo
này. Do lần đầu tiếp xúc với đề tài kết hợp cả tính lý luận và thực tiễn, cùng với
phạm vi nghiên cứu khá rộng, dẫn đến cịn nhiều hạn chế và khơng tránh khỏi

những sai sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự quan tâm chỉ bảo của quý thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT CÁC
TRƯỜNG HỢP LY HƠN TẠI TỊA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN.
1.1.
Khái niệm, đăc điểm giải quyết các trường hợp ly hôn tại Tòa
án nhân dân cấp huyện.
1.1.1.
Khái niệm giải quyết các trường hợp ly hơn tại Tịa án nhân dân
cấp huyện.
Hơn nhân là một hiện tượng xã hội, trong quá trình phát sinh, phát triển bao
gồm: kết hơn, duy trì quan hệ hôn nhân và ly hôn. Nếu kết hôn là một hiện tượng
xã hội thì ly hơn là mặt trái của hôn nhân nhưng lại là mặt khong thể thiếu được
khi quan hệ hôn nhân đã tan vỡ. Theo Luật HN&GĐ năm 2014: “Ly hôn là việc
chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa
án”1. Như vậy có thể hiểu, ly hôn là một sự kiện pháp lý xảy ra khi có bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, sự kiện này làm chấm dứt quyền
và nghĩa vụ giữa vợ và chồng; người vợ và người chồng đã ly hơn được coi như
chưa kết hơn. Tịa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền giải quyết việc ly hơn, là
cơ quan duy nhấ có quền ra bản án hoặc quyết định chấm dứt quan hệ hơn nhân,
quan hệ vợ chồng khi có u cầu.
Theo khoa học pháp lí “giải quyết vụ án HN&GĐ” của Tịa án nhân dân là
khái niệm chung, dung để chỉ việc Tòa án áp dụng các quy định của pháp luật để
giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình trong đó có các trường hợp ly
hơn. Hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết các trường hợp ly hơn khi có
1

Khoản 14, Điều 3, Luật hơn nhân và gia đình năm 2014.



4

tranh chấp HN&GĐ xảy ra, các đương sự không tự mình giải quyết được và gửi
đơn khởi kiện đến Tịa án có thẩm quyền để đề nghị giải quyết nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Các trường hợp ly hơn có thể là do một bên vợ,
chồng yêu cầu, có thể do vợ chồng cùng thỏa thuận hoặc do chủ thể khác theo quy
định của pháp luật yêu cầu giải quyết ly hôn cho vợ hoặc chồng.
Hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết các trường hợp ly hôn trong
các vụ án HN&GĐ của TAND cấp huyện được thực hiện ngay từ khi đương sự
nộp đơn khởi kiện tại Tòa án theo thẩm quyền của TAND cấp huyện cho tới khi
ban hành án hoặc quyết định giải quyết vụ án. Như vậy, giải quyết các trường hợp
ly hơn của TAND là việc Tịa án áp dụng các quy định của pháp luật để ban hành
bản án hoặc quyết định làm chấm dứt hoặc phát sinh mới các quyền và nghĩa vụ
giữa vợ chồng và những người khác có liên quan đến các trường hợp ly hôn theo
quy định của pháp luật.
1.1.2.
Đặc điểm giải quyết các trường hợp ly hơn tại Tịa án nhân dân
cấp huyện.
Do đặc điểm riêng biệt của các tranh chấp HN&GĐ, cùng với các quy định
riêng của pháp luật chuyên ngành về lĩnh vực HN&GĐ nên việc áp dụng pháp luật
trong giải quyết các trường hợp ly hôn trong các vụ án HN&GĐ của TAND cấp
huyện có những đặc điểm sau:
- TAND là cơ quan tiến hành tố tụng duy nhất có thẩm quyền áp dụng
pháp luật để giải quyết các trường hợp ly hôn. Thẩm quyền giải quyết các vụ án
HN&GĐ của TAND được quy định rõ ràng trong BLTTDS, Luật Tổ chức TAND
2014. Thẩm quyền giải quyết các vụ án HN&GĐ cấp huyện được quy định tại điều
35 BLTTDS năm 2015.
- Áp dụng pháp luật trong giải quyết các trường hợp ly hôn của TAND cấp
huyện vừa phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do BLTTDS quy định

vừa tuân thủ theo các quy định của Luật HN&GĐ như quy định chồng khơng có
quyền u cầu ly hơn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi
con dưới 12 tháng tuổi; quy định về trường hợp ly hôn do một bên yêu cầu , trường
hợp thuận tình ly hơn, trường hợp ly hơn theo yêu cầu của chủ thể khác theo quy
định tại khoản 2 điều 51 Luật HN&GĐ.
- Trong giải quyết các trường hợp ly hơn có u cầu phân chia tài sản
chung vợ chồng thì việc xác định, phân chia tài sản chung thường khó khăn hơn
các vụ án về dân sự khác bởi tài sản hình thành trong thời kì hơn nhân của vợ
chồng là tài sản chung hợp nhất rất khó phân định. Thêm vào đó việc khơng minh
bạch về tài sản trước và trong thời kì hơn nhân như không xác định tài sản chung,
riêng ngay từ đầu, không lập thành văn bản thỏa thuận khi các bên còn đang trong
quan hệ vợ chồng tốt đẹp nên khi có mâu thuẫn u cầu Tịa án giải quyết ly hơn
thì họ lại không chỉ rõ được phần quyền lợi của mình đến đâu. Do đó mà để phân
chia tài sản chung hợp lí và chính xác địi hỏi Tịa án phải vận dụng linh hoạt các
văn bản luật vào cả yếu tố truyền thống, văn hóa thực tiễn để xem xét đưa ra quyết
định “thấu tình, đạt lý”
1.2.
Giải quyết các trường hợp ly hôn theo quy định của pháp luật.


5

1.2.1.
Giải quyết trường hợp vợ chồng thuận tình ly hơn.
Thuận tình ly hơn là trường hợp cả hai vợ chồng cùng yêu cầu chấm dứt
hôn nhân được thể hiện bằng đơn thuận tình ly hơn của vợ chồng.
Theo Điều 55, Luật HN&GĐ 2014 quy định như sau: “Trong trường hợp
vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã
thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tịa án cơng nhận

thuận tình ly hơn; nếu khơng thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng khơng
bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tịa án giải quyết việc ly hơn”.
Trường hợp thuận tình ly hơn thì khi vợ chồng nộp đơn yêu cầu ly hôn và
các tài liệu chứng cứ giao nộp cho bên Tịa án thì trong đơn cần đưa ra nguyên
nhân dẫn đến ly hôn và nguyện vọng của vợ chồng về tài sản, về con chung để tịa
án dễ dàng trong q trình giải quyết. Khi giải quyết đơn yêu cầu ly hôn trong
trường hợp thuận tình ly hơn thì Tịa án phải tiến hành hịa giải để vợ chồng đồn
tụ với nhau. Sau khi tiến hành hòa giải, căn cứ vào kết quả hòa giải mà Thẩm phán
phiên tòa ra quyết định phù hợp:
+ Nếu vợ chồng đồn tụ với nhau thì Tịa án ra quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án;
+ Nếu hịa giải đồn tụ khơng thành và các đương sự tự thỏa thuận được về
tài sản và vấn đề con chung thì Tịa án ra quyết định cơng nhận thuận tình ly hơn
và sự thỏa thuận của các đương sự. Việc Tòa án đưa ra quyết định này khi đầy đủ
các điều kiện sau: Thứ nhất đó là cả hai vợ chồng đều được tự do bày tỏ ý chí của
mình mong muốn chấm dứt quan hệ vợ chồng và không bên nào bị cưỡng ép hoặc
lừa dối. Thứ hai là vợ chồng đã thỏa thuận được về việc phân chia tài sản và việc
trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con. Việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo cụ con chỉ
đặt ra trong những trường hợp: con chưa thành niên; con đã thành niên nhưng bị
mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản
để tự ni mình 2.
Trong trường hợp vợ chồng xin thuận tình ly hơn, sau khi thu thập chứng
cứ, hòa giải, Tòa án xét thấy một bên vợ, chồng khơng tự nguyện ly hơn thì Tịa án
khơng chấp nhận đơn xin thuận tình ly hơn.
1.2.2.
Giải quyết trường hợp ly hôn do một bên vợ hoặc chồng yêu cầu.
Theo quy định tại Điều 56, Luật HN&GĐ 2014 thì khi đủ những căn cứ sau
đây thì một bên vợ hoặc chồng có quyền u cầu ly hơn:
Căn cứ thứ nhất: Đối với trường hợp vợ hoặc chồng yêu cầu ly hơn mà hịa
giải tại Tịa án khơng thành, Tịa án giải quyết cho ly hơn nếu có căn cư sveef việc

vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ
cơ bản quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm
trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt được.
Việc giải quyết ly hơn cần phải chính xác. Nếu xét xử đúng, kết quả đó sẽ phù hợp
với nguyện vọng của các bên, bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên trong gia
đình. Ngược lại, nếu việc giải quyết khơng chính xác sẽ dẫn tới tan vỡ hạnh phúc
2

Khoản 1, Điều 81, Luật hơn nhân và gia đình năm 2014.


6

gia đình. Mặt khác, giải quyết ly hơn cũng địi hỏi sự linh hoạt trong việc vận dụng
căn cứ ly hơn đối với mỗi trường hợp cụ thể. Có thể thấy, việc đưa ra những
nguyên nhân của hôn nhân lầm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng
thể kéo dài, mục đích hơn nhân khơng đạt được đã tạo cơ sở pháp lý rõ rang cho
Tòa án khi giải quyết việc ly hôn theo yêu cầu của một bên.
Căn cứ thứ hai: Đối với trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tịa án
tun bố mất tích u cầu ly hơn thì Tịa án giải quyết ly hơn. Tun bố một người
mất tích là sự kiện pháp lý nhằm xác định một người cụ thể hồn tồn khơng rõ
tung tích, khơng rõ cịn sống hay đã chết. Khoản 2 Điều 55 Luật HN&GĐ 2014
cũng đã quy định về căn cứ cho ly hơn có đề cập tới trường hợp u cầu ly hơn khi
một trong hai người mất tích.
Trường hợp đồng thời yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích và u
cầu Tịa án giải quyết ly hơn, cần lưu ý Tịa án chỉ giải quyết cho ly hơn có bằng
chứng chứng minh được chồng hoặc vợ đã biệt tích từ hai năm trở lên kể từ ngày
có tin tức cuối cùng về vợ, chồng, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thơng
báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn khơng có tin
tức xác thực về việc người đó cịn sống hay đã chết. Việc tun bố một người mất

tích có ý nghĩa rất quan trọng. Nó góp phần bảo vệ lợi ích của cá nhân cũng như
các chủ thể có liên quan. Việc xác định đúng điều kiện và hậu quả pháp lí của các
tuyên bố này là cơ sở đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể, đồng thời góp phần thực
hiện có hiệu quả nhưng quy định của pháp luật về tuyên bố cá nhân mất tích.
1.2.3.
Giải quyết trường hợp ly hơn do u cầu của người thứ ba.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 56 thì người thứ ba chỉ được đưa ra yêu
cầu ly hôn khi đảm bảo được những điều kiện sau:
+ Vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình đối với vợ, chồng là người bị tâm
thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ hành vi. Như vậy, chỉ
khi vợ hoặc chồng không thể tự mình thể hiện ý chí thì mới xem xét ý chí của cha,
mẹ hoặc người thân thích.
+ Hành vi bạo lực gia đình của vợ hoặc chồng tác động trực tiếp và làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người cịn lại.
Như vậy, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai người mới có quyền u cầu tịa
án giải quyết ly hơn như trước đây thì kể từ nay, căn cứ để cha, mẹ, người thân
thích khác cũng có quyền u cầu tịa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng
do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ
gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Quy định này đã tháo gỡ cho nhiều trường hợp mong muốn xin ly hôn thay cho
người thân bị mất năng lực hành vi mà không được do trước đây chỉ quy định việc
ly hơn phải do chính đương sự (vợ, chồng) u cầu, trong khi họ lại bị mất năng
lực hành vi dân sự dẫn đến khơng có năng lực hành vi tố tụng dân sự để xin ly hôn.
Và theo khoản 19, Điều 3, Luật HN&GĐ 2014 đã đưa ra khái niệm người thân
thích như sau: “Người thân thích là người có quan hệ hơn nhân, ni dưỡng,
người có cùng dịng máu về trực hệ và người có họ trong phạm vi ba đời”.


7


1.3.
Hậu quả pháp lí của ly hơn.
Thứ nhất, về nhân thân: Sau khi Tòa án giải quyết bằng một bản án hoặc
một quyết định có hiệu lực pháp luật thì quan hệ hôn nhân sẽ chấm dứt đồng thời
quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ, chồng phát sinh do sự kiện kết hơn (nghĩa vụ
u thương, chăm sóc; nghĩa vụ chung thủy;…) cũng chấm dứt. Trường hợp mà
vợ, chồng đã ly hơn tái hợp thì pháp luật cũng u cầu phải tiến hành các thủ tục
đăng ký kết hôn mới được công nhận là vợ chồng.
Thứ hai, về tài sản: - Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng:
+ Trường hợp hai vợ chồng thỏa thuận được việc chia tài sản khi ly hơn thì
khi Tịa án giải quyết sẽ theo sự thỏa thuận của hai vợ, chồng.
+ Trường hợp hai vợ chồng đã thỏa thuận nhưng chưa đầy đủ, rõ ràng và
khơng thỏa thuận được thì theo quy định của Luật hơn nhân gia đình (cụ thể Khoản
2 Điều 59) tài sản chung của vợ chồng được chia đơi nhưng có tính đến các yếu tố:
Hồn cảnh gia đình của vợ, chồng; Cơng sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo
lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình
được coi như lao động có thu nhập; Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong
sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo
thu nhập; Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
- Quan hệ tài sản của vợ, chồng với người thứ ba.
Trong thời kì hơn nhân mà vợ, chồng hoặc cả hai người vay, mượn tiền, tài
sản của người khác nhằm đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho gia đình thì được xác định
là nợ chung và khi ly hôn tài sản chung của vợ chồng được đảm bảo để thanh toán
khoản nợ đó. Nếu việc may, mượn đó để dùng cho nhu cầu, mục đích riêng thì khi
ly hơn họ có trách nhiệm thanh tốn bằng tài sản riêng, nếu khơng đủ thì phải
thanh tốn bằng phần tài sản của người đo trong khối tài sản chung của vợ, chồng.
- Về quan hệ giữa cha, mẹ và con.
Pháp luật cho phép vợ, chồng khi ly hôn được thỏa thuận người trực tiếp
nuôi dưỡng con. Trong trường hợp hai bên không thể thỏa thuận được thì Tịa án

sẽ quyết định việc giao con dựa trên quyền lợi của đứa con: Đối với con trên 7 tuổi
thì sẽ xem xét nguyện vọng của ai con trừ trường hợp con trên 7 tuổi mất năng lực
hành vi dân sự hoặc khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi; Đối với con
dưới ba sáu tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi trừ trường hợp người mẹ
không đủ điều kiện để trực tiếp chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con.
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT LY HƠN TẠI TỊA ÁN
NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH.
Thực tiễn giải quyết ly hơn tại Tịa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
được đánh giá, phân tích chủ yếu dựa thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật để giải
quyết ly hôn. Trên cơ sở phân tích thực tiễn giải quyết ly hơn tại Tịa án nhân dân thành
phố Vinh từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị để nâng cao chất lượng giải quyết các
trường hợp ly hôn tại TAND thành phố Vinh.
2.1. Thực trạng giải quyết ly hơn tại Tịa án nhân dân thành phố Vinh.


8

Theo số liệu thống kê từ Bộ phận tổng hợp TAND thành phố Vinh thì những vụ án
ly hơn mà TAND thành phố Vinh đã tiếp nhận trong thời gian từ 01/01/2018 –
30/11/2020 như sau:
Bảng 1. Số vụ án HN&GĐ được TAND thành phố Vinh thụ lý từ
01/01/2018 – 30/11/2020.
Thời gian

Thụ lý

Giải quyết

Còn lại


01/01/2018-31/12/2018

1270

1235

35

01/01/2019-31/12/2019

957

951

6

01/01/2020 – 30/11/2020

849

841

8

(Nguồn: Bộ phận tổng hợp, TAND thành phố Vinh)
Qua số thống kê tại bảng 1, có thể thấy rằng hầu hết các vụ,việc mà Tịa án nhân
dân huyện thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã thụ lý thì Tịa án đã giải quyết gần hết, số
vụ còn lại chưa giải quyết được chiếm tỷ lệ rất thấp. Đa phần số vụ còn lại chưa giải
quyết được là do bị đơn cố tình vắng mặt dù đã có giấy thơng báo hợp lệ của Tịa. Có
một số trường hợp trong q trình Tịa án giải quyết bên phía bị đơn khơng hợp tác,

phối hợp trong q trình cán bộ lấy lời khai, thu thập tài liệu, chứng cứ. Vì những lẽ đó
mà có một số vụ, việc ly hơn thời gian giải quyết kéo dài. Hình thức giải quyết của
TAND thành phố Vinh đối với các vụ án ly hôn cũng rất đa dạng và đtạ kết quả cao.
Ngồi ra, theo thống kê thì đa số các vụ,việc ly hơn mà Tịa án thành phố Vinh đã
thụ lý và giải quyết trong vòng những năm qua thì hầu hết trong nội dung đơn xin ly
hơn hoặc trong q trình Tịa án giải quyết hai bên vợ chồng đã tự thỏa thuận được về
việc phân chia tài sản và việc chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con và nghĩa vụ cấp
dưỡng cho con. Chủ yếu các vụ, việc ly hơn mà Tịa thụ lý, giải quyết trên địa bàn
huyện ít có tranh chấp về tài sản. Điều đó có thể là do giá trị các tài sản chung của hai
vợ chồng không lớn, thường gồm 1 ngôi nhà, một số đồ dùng, phương tiện chủ yếu
phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của gia đình nên khi ly hơn các bên ít tranh
chấp về vấn đề tài sản chung. Việc các bên thỏa thuận được về vấn đề tài sản và vấn đề
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con khi ly hơn đã làm cho q trình Tịa án giải quyết
diễn ra một cách nhanh chóng hơn, tiết kiệm thời gian và tiền bạc cho người dân.
Bảng 2. Các hình thức giải quyết.
Thời gian
Đình chỉ
Cơng nhận sự
thỏa thuận

Xét xử

Hịa giải đồn
tụ thành

01/01/2018-31/12/2018

20

774


202

239

01/01/2019-31/12/2019

15

653

76

207


9

01/01/2020 –
8
501
69
271
30/11/2020
Từ bảng số liệu thứ 2, có thể thấy trong q trình Tịa án giải quyết có một số vụ,
việc ly hơn đã được đình chỉ với lý do nguyên đơn rút đơn xin ly hôn để tiếp tục xây
dựng cuộc sống hơn nhân sau khi được Tịa án đứng ra hịa giải. Họ quay về đồn tụ
với nhau để tiếp tục xây dựng hạnh phúc gia đình, tiếp tục cùng nhau ni dưỡng và
giáo dục con. Có thể thấy, số vụ việc đình chỉ chiếm tỉ lệ cao nhất trong tổng số vụ việc
được Tòa án thụ lý giải quyết. Bên canh đó, vì tính chất phức tạp, cũng như hịa giải

đồn tụ khơng thành, một số vụ, việc ly hơn được Tịa án đưa ra xét xử giải quyết. Tuy
nhiên tỷ lệ số vụ việc được đưa ra xét xử chiếm tỉ lệ rất thấp chiếm từ 5% đến 10%. Số
vụ, việc được cơng nhận thuận tình ly hôn chiếm đa số, với tỉ lệ 75% trong tổng số các
vụ, vệc được Tòa án giải quyết.
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết các trường hợp ly hôn tại
TAND thành phố Vinh
* Áp dụng pháp luật trong thụ lý các trường hợp ly hôn:
Trong thực tiễn những năm qua (2018-2020), TAND thành phố Vinh đã tiến
hành làm thủ tục nhận đơn khởi kiện về lĩnh vực HN&GĐ với số lượng đơn khởi
kiện rất lớn. Theo số liệu thống kê thì từ năm 2018 đến tháng 11/2020 Tòa án nhân
dân thành phố Vinh đã thụ lý 3.127 vụ, việc ly hơn; trung bình mỗi năm có đến
1.042 vụ, việc ly hôn chiếm tỷ lệ 75% trong tổng số vụ việc mà Tòa án nhân dân
thành phố Vinh thụ lý giải quyết. Trong đó, phần lớn các đơn khởi kiện gửi đến
Tòa án chưa đáp ứng điều kiện theo quy định tại điều 189 BLTTDS, nên Tòa án
phải hưỡng dẫn làm lại đơn khởi kiện hoặc yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện
theo quy định điều 193 BLTTDS 2015; Các vụ án được Tòa án thụ lý toàn bộ đều
do cá nhân đương sự khởi kiện, chưa có vụ án nào thụ lý do các chủ thể khác đứng
đơn khởi kiện.
Sau khi nhận đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, TAND
thành phố Vinh sẽ xem xét, phân loại đơn khởi kiện, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án thì Tịa án thơng báo cho người khởi kiện biết để họ
đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí. Trong q trình thụ lí đơn khởi
kiện các trường hợp ly hôn, TAND thành phố Vinh đã áp dụng đúng các quy định
tại Điều 191; điều 195, điều 196, điều 197 BLTTDS 2015 về thụ lí, Chánh án Tịa
án phân cơng một Thẩm phán, Thư ký giải quyết và thông báo thụ lý vụ án.
* Áp dụng pháp luật trong thu thập chứng cứ:
Sau khi thụ lý vụ án, TAND thành phố Vinh tiến hành thu thập chứng cứ để
giải quyết vụ án theo quy định của BLTTDS. Cụ thể như sau:
Sau khi nhận được hồ sơ vụ án, thẩm phán được phân công giải quyết vụ án
yêu cầu các đương sự giao nộp chứng cứ, tài liệu chứng minh cho yêu cầu của

mình và các chứng cứ, tài liệu khác liên quan đến việc giải quyết vụ án, yêu cầu
các đương sự tự viết bản tự khai trình bày nội dung liên quan đến tranh chấp.
Trường hợp đương sự khơng biết viết thì thư kí, Thẩm phán hướng dẫn đương sự
viết bản tự khai. Việc lấy lời khai của đương sự được thực hiện tại trụ sở Tòa án
thành phố Vinh. Trường hợp đương sự khơng thể đến được trụ sở Tịa án và có lí


10

do chính đáng như đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, bị ốm đau,…thì
Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của đương sự ngồi trụ sở Tịa án. Người được
lấy lời khai được tự đọc lại biên bản ghi lời khai và ký tên hoặc điểm chỉ xác nhân.
Các trường hợp ghi lời khai ở ngoài trụ sở Tịa án thì Thẩm phán đều mời người
làm chứng và có xác nhận của UBND, cơng an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan
tổ chức lập biên bản.
Bên cạnh việc thu thập chứng cứ thông qua lấy lời khai của đương sự, người
làm chứng, tùy vào từng vụ án cụ thể mà Thẩm phán có thể tiến hành biện pháp
thu thập chứng cứ khác như tiến hành trưng cầu giám định; xem xét thẩm định tại
chỗ; định gía tài sản; ban hành công văn ủy thác thu thập chứng cứ hay yêu cầu cá
nhân cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ.
* Áp dụng pháp luật trong hòa giải vụ án:
Theo điều 52 Luật HN&GĐ 2014 thì hịa giải cơ sở là do Nhà nước khuyến
khích chứ khơng bắt buộc vì thế vợ chồng có thể hịa giải hoặc khơng hịa giải. Tuy
nhiên, khi giải quyết thủ tục ly hơn thì việc hịa giải tại Tịa án là bắt buộc theo quy
định tại Điều 54 Luật HN&GĐ 2014. Vì vậy, dù là ly hôn đơn phương hay ly hôn
thuận tình đều cần hịa giải tại Tịa án.
Sau khi thu thập đầy đủ chứng cứ cần thiết liên quan đến vụ án, nếu thấy vụ
án không thuộc trường hợp không được hịa giải hoặc khơng tiến hành hịa giải
được quy định tại Điều 206, điều 207 VLTTDS 2015 thì Thẩm phán ra thơng báo
về phiên hịa giải theo điều 208 BLTTDS. Trước khi mở phiên họp kiểm tra và hòa

giải, Thẩm phán được giao nhiệm vụ giải quyết vụ án phải thông báo cho đương sự
(vợ, chồng) về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung của phiên họp.
Thành phần tham gia phiên hòa giải: trong tất cả các phiên hòa giải của
TAND thành phố Vinh, Thẩm phán được giao giải quyết vụ án luôn là người chủ
trì phiên hịa giải và Thư ký Tịa án là người ghi biên bản hịa giải. Khi thơng báo
phiên hịa giải, các Thẩm phán đều triệu tập đầy đủ các bên đương sự tham gia
phiên hòa giải. Tòa án chỉ tiến hành hòa giải khi tất cả các đương sự hoặc người
địa diện hợp pháp của họ đến tham gia phiên hịa giải. Nếu việc hịa giải vụ án có
liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của tất cả các đương sự trong vụ án mà có đương
sự hoặc người địa diện hợp pháp vắng mặt thì Thẩm phán hỗn phiên hịa giải. Nếu
trong vụ án có nhiều quan hệ pháp luật, nhiều đương sự mà mỗi quan hệ pháp luật
chỉ liên quan trực tiếp đến một số đương sự trong vụ án thì quyền, nghĩa vụ của họ
và các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hịa giải thì Thẩm phán vẫn tiến hành
hịa giải; nếu các đương sự đề nghị hỗn phiên hịa giải thì Thẩm phán phải hỗn
phiên hịa giải, khi hỗn phiên hịa giải Thẩm phán sẽ thông báo cho các đương sự
biết và thơng báo thời gian mở lại phiên hịa giải. Ngồi các thành phần nói trên
trong trường hợp cần thiết Thẩm phán có thể yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có
liên quan tham gia phiên họp là những người được tín nhiệm, có chun mơn,
nhiều kinh nghiệm liên quan tới nội dung tranh chấp mà khi họ tham gia phiên hịa
giải sẽ đạt hiệu quả hơn. Tuy nhiên vì họ không phải là đương sự trong vụ án nên
Thẩm phán vẫn phải tiến hành hòa giải khi họ vắng mặt.


11

Nội dung phiên hòa giải: Khi tiến hành hòa giải vụ án HN&GĐ, các Thẩm
phán thành phố Vinh luôn xác định nội dung đầu tiên là hịa giải đồn tụ. Tiếp đó,
theo yêu cầu của các đương sự, Thẩm phán xác định các nội dung hòa giải khác.
Trước khi hòa giải Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết về các quy định có
liên quan đến việc giải quyết vụ án; phân tích cho các bên biết hậu quả pháp lý và

những mặt tích cực có thể đạt được trong trường hợp hòa giải thành để các đương
sự thực hiện quyền tự định đoạt, tự thỏa thuận giải quyết vụ án của mình. Hoạt
động hịa giải của Tịa án nhân dân thành phố Vinh đạt kết quả tương đối cao qua
đó giúp giải quyết vụ việc được triệt để, hiệu quả mà khơng phải mở phiên tịa xét
xử, tiết kiệm chi phí, thời gian cơng sức của các đương sự và Nhà nước, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thi hành án. Góp phần hàn gắn rạn nứt, ngăn ngừa các tranh
chấp phát sinh trong tương lai, nâng cao ý thức pháp luật của người dân, giữ gì an
ninh trật tự xã hội. Cụ thể:
Năm 2018: Tổng số vụ án về hơn nhân và gia đình Tịa án nhân dân thành
phố Vinh thụ lý là 1270 vụ, việc; Tòa án đã giải quyết, xét xử 1235 vụ, việc. Trong
đó, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là 774 vụ; xét xử 220 vụ, hòa giải
thành 239 vụ, đình chỉ 20 vụ.
Năm 2019: Tổng số thụ lý vụ, việc về hơn nhân và gia đình là 957 vụ, việc
(giảm 313 vụ so với năm 2018), Tòa án đã giải quyết, xét xử 951 vụ, việc. Trong
đó, cơng nhận sự thỏa thuận của các đương sự là 653 vụ, xét xử 76 vụ, hịa giải
đồn tụ thành 207 vụ; đình chỉ 08 vụ.
Trong q trình hịa giải nếu vợ chồng nhất trí thuận tình ly hơn, các bên
đương sự thỏa thuận được với nhau về các vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì
Thẩm phán lập biên bản hòa giải thành. Biên bản hòa giải thành phải ghi cụ thể nội
dung các bên đã thỏa thuận và gửi cho tất cả các đương sự trong vụ án.
Hết thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà khơng có
đương sự nào thay đổi về ý kiến về sự thỏa thuận thì Tồ án quyết định cơng nhận
thuận tình ly hơn và sự thỏa thuận của các đương sự và quyết định này có hiệu lực
ngay sau khi ban hành và không bị kháng cáo kháng nghị theo thủ tục thúc phẩm
(khoản 1 Điều 212 BLTTDS 2015).
Trường hợp vụ án hịa giải khơng thành, Tịa án quyết định đưa vụ án ra xét
xử, quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được gửi cho các đương sự, Viện kiểm sát
cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định.
* Áp dụng pháp luật về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án:
- Tạm đình chỉ giải quyết vụ án: Trong q trình chuẩn bị xét xử, khi có

một trong các căn cứ được quy định tại Điều 214 BLTTDS năm 2015 thì Thẩm
phán ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Do quyết định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án không làm chấm dứt việc giải quyết vụ án mà chỉ là tạm dừng việc giải
quyết trong một thời gian nhất định nên Tịa án khơng xóa tên vụ án trong sổ thụ lý
và khơng giải quyết tiềm tạm ứng án phí các đương sự đã nộp. Khi lý do đình chỉ
vụ án khơng cịn thì Thẩm phán ra thông báo tiếp tục giải quyết vụ án, thông báo
này được gửi cho các bên đương sự và Viện Kiểm sát.


12

- Đình chỉ giải quyết vụ án: Theo quy định tại Điều 219 BLTTDS năm
2015, khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 điều 2017 BLTTDS năm
2015 thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án được gửi cho đương sự và Viện Kiểm sát trong thời hạn năm ngày
làm việc kể từ ngày ra quyết định để đảm bảo quyền kháng cáo, kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm. tùy từng vụ án, khi đương sự có u cầu thì Thẩm phán phải trả
lại cho họ đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo. Tuy nhiên, đối với tất
cả các vụ án ly hơn mà đương sự giao nộp bản chính giấy đăng ký kết hơn thì Thẩn
phán đều trả lại cho đương sự khi đình chỉ giải quyết vụ án. Tiền tạm ứng án phí
của vụ án được giải quyết theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 218 BLTTDS
2015. Cụ thể:
Đối với các trường hợp Tòa án ra quyết định chỉ giải quyết vụ án theo quy
định tại điểm a, b khoản 1 Điều 2017 hoặc vì lý do nguyên đơn đã được triệu tập
hợp pháp lần thứ hai mà vẫn vắng mặt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 217
BLTTDS năm 2015 thì tiền tạm ứng án phí chỉ được sung vào cơng quỹ nhà nước.
Đối với các trường hợp Tòa án ra quyết định chỉ giải quyết vụ án do người
khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện quy định tại điểm c và trường hợp khác
quy định tại các điểm d, đ, e và g khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 thì tiền
tạm ứng án phí được trả lại cho đương sự.

* Áp dụng pháp luật trong xét xử vụ án:
Khi việc hòa giải vụ án không đạt được kết quả hoặc vụ án khơng tiến
hành hịa giải được thì Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Quyết định
đưa vụ án xét xử có đầy đủ nội dung theo quy định tại khoản 1 Điều 220 BLTTDS
năm 2015 và được tổng đạt cho các đương sự, gửi cho Viện Kiểm sát ngay sau khi
ra quyết định. Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án theo thời gian và địa điểm ghi
trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Việc xét xử của Tòa án được thực hiện đúng
các quy định về phiên tòa sơ thẩm quy định tại Chương XIV của BLTTDS năm
2015. Nhìn chung, hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết các trường hợp ly
hôn của TAND thành phố Vinh trong những năm qua cho thấy, hầu hết các vụ án
được giải quyết kịp thời, đúng pháp luật. Trong quá trình giải quyết, các Thẩm
phán ln kiên trì hịa giải để vợ chồng về đồn tụ hoặc hịa giải để các đương sự
thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên số vụ án giải quyết bằng
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hoặc quyết định công nhận thuận tình ly hơn
và sự thỏa thuận của các đương sự luôn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số các vụ án hơn
nhân và gia đình đã giải quyết. Chỉ xét xử một số lượng nhỏ các cụ án do một bên
vợ hoặc chồng không đồng ý ly hôn với nhiều lý do như: mâu thuẫn vợ chồng chưa
đến mức thật sự trầm trọng, muốn đoàn tụ để cùng nhau chăm sóc, ni dạy con
cái và cố tình cản trở, gây khó khăn cho bên xin ly hơn vì lý do nào đó và các vụ
án mà đương sự trong vụ án không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết
toàn bộ nội dung các vấn đề trnh chấp.
Khi việc hịa giải vụ án khơng đạt được kết quả hoặc vụ án khơng tiến
hành hịa giải được thì Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Quyết định
đưa vụ án xét xử có đầy đủ nội dung theo quy định tại khoản 1 Điều 220 BLTTDS


13

năm 2015 và được tổng đạt cho các đương sự, gửi cho Viện Kiểm sát ngay sau khi
ra quyết định. Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án theo thời gian và địa điểm ghi

trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Việc xét xử của Tòa án được thực hiện đúng
các quy định về phiên tòa sơ thẩm quy định tại Chương XIV của BLTTDS năm
2015. Nhìn chung, hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết các trường hợp ly
hôn của TAND thành phố Vinh trong những năm qua cho thấy, hầu hết các vụ án
được giải quyết kịp thời, đúng pháp luật. Trong quá trình giải quyết, các Thẩm
phán ln kiên trì hịa giải để vợ chồng về đồn tụ hoặc hịa giải để các đương sự
thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên số vụ án giải quyết bằng
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hoặc quyết định cơng nhận thuận tình ly hơn
và sự thỏa thuận của các đương sự luôn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số các vụ án hơn
nhân và gia đình đã giải quyết. Chỉ xét xử một số lượng nhỏ các cụ án do một bên
vợ hoặc chồng không đồng ý ly hôn với nhiều lý do như: mâu thuẫn vợ chồng chưa
đến mức thật sự trầm trọng, muốn đoàn tụ để cùng nhau chăm sóc, ni dạy con
cái và cố tình cản trở, gây khó khăn cho bên xin ly hơn vì lý do nào đó và các vụ
án mà đương sự trong vụ án không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết
toàn bộ nội dung các vấn đề tranh chấp.
2.2. Một số hạn chế vướng mắc, bất cập và nguyên nhân trong thực tiễn
giải quyết các trường hợp ly hôn tại TAND thành phố Vinh
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động giải quyết các trường hợp ly
hôn của TAND thành phố Vinh trên thực tế vẫn còn tồn tại một số vướng mắc, bất
cập cần khắc phục:
Thứ nhất, bất cập tại giai đoạn nhận và xử lý đơn khởi kiện, việc nghiên
cứu, xem xét áp dụng các quy định của pháp luật nội dung để thụ lý, giải quyết vụ
án trong một số trường hợp còn chưa chính xác như thụ lý, giải quyết vụ việc chưa
đủ điều kiện khởi kiện, viện dẫn áp dụng pháp luật khơng đúng. Ngồi ra, theo quy
định tại khoản 5 điều 189 BLTTDS 2015 khi nộp đơn khởi kiện tại Tòa án, kèm
theo đơn khởi kiện người khởi kiện phải nộp cho Tòa án các tài liệu chứng cứ
chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Tuy nhiên,
có nhiều trường hợp các tài liệu, chứng cứ về nhân thân giấy tờ về tài sản của
người khởi kiện nộp kèm theo đơn khởi kiện chưa thống nhất về họ và tên, ngày
tháng năm sinh…khi xác nhận vào đơn trình bày để xác nhận thân của người khởi

kiện chưa xác nhận đúng nội dung cần xác nhân dẫn đến việc người dân phải đi lại
nhiều lần để xin xác nhận tại cơ quan có thẩm quyền, gây bức xúc cho người dân
thậm chí dẫn đến sai sót, vi phạm khi giải quyết, xét xử và tuyên án.
Ví dụ: Vụ án ly hơn giữa ngun đơn Chị Nguyễn Thùy D và bị đơn anh
Nguyễn Văn D, tại bản án sơ thẩm số 233/2018/HNGĐ-ST ngày 13/11/2018 của
Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên án sai
tên người được quyền thăm con từ anh Nguyễn Văn D thành Nguyễn Văn H.
Thứ hai, Bất cập trong việc xác minh thu thập chứng cứ. Sau khi thụ lí vụ
án, bên cạnh việc xác định quan hệ tranh chấp, Tòa án phải thẩm định, kiểm tra,
xác minh cụ thể, thu thập đầy đủ tài liệu chứng cứ cũng như yêu cầu của đương sự
tránh trường hợp thiếu xót. Trong thực tế, có một số vụ án HN&GĐ, Tòa án nhân


14

dân thành phố Vinh đã không xác minh đúng đắn các chứng cứ, tài liệu dẫn đến án
bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích của các đương sự trong vụ án.
Ví dụ: Vụ án ly hơn giữa ngun đơn Chị Trần Thị H và bị đơn anh Trần
Đình T.
Nội dung vụ án: Chị Trần Thị H và anh Trần Đình T kết hơn trên cơ sở tự
ngun, có đăng ký kết hôn với nhau tại UBND phường Bến Thủy, thành phố
Vinh, tỉnh Nghệ An vào ngày 03/3/2019. Quá trình chung sống vợ chồng sống hòa
thuận hạnh phúc với nhau được một thời gian thì bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn. Chị
và anh T bất đồng quan điểm, thường xuyên xảy ra tranh cãi dẫn đến việc chị bỏ
nhà đi 05 ngày. Mâu thuẫn giữa chị và anh T không thể giải quyết. Nên chị H đã
làm đơn xin ly hôn với anh T. Tại bản án số 20/2019/HNGĐ-ST ngày 29/12/2019
của Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã quyết định: Giao cho chị
Trần Thị H được trực tiếp trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con chung là
Trần Đình Huy, sinh ngày 10/12/2015. Buộc anh Trần Đình T phải cấp dưỡng ni

con chung cho chị Trần Thị H mỗi tháng 500.000đ. Việc cấp dưỡng được thực
hiện từ tháng 01 năm 2017 trở đi cho đến lúc con chung đã thành niên. Anh T có
quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung không ai được quyền cản trở.
Ngày 11/01/2017, anh Trần Đình T làm đơn kháng cáo với nội dung: Bản
án giao cho chị H là người trực tiếp ni dưỡng và chăm sóc cháu Trần Đình Huy
là khơng đúng với quy định của pháp luật và không đảm bảo được điều kiện phát
triển tốt nhất cho cháu.
Cấp phúc thẩm đã thụ lý giải quyết vụ án tuyên sửa quyết định giao con
chung Trần Đình Huy cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng và nhận định sự sai sót của
tịa án cấp sơ thẩm. Tịa án cấp sơ thẩm không xem xét đến điều kiện của người
trực tiếp trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con mà đã quyết định giao
cho chị H nuôi con là chưa đây đủ toàn diện, ảnh hưởng đến quyền lợi cũng như sự
phát triển bình thường về thể chất, tinh thần của con. Các tài liệu, chứng cứ có tại
hồ sơ cũng như lời trình bày của các đương sự tại phiên tịa thể hiện: Từ khi kết
hơn với anh T về làm dâu chung sống với gia đình anh T đến nay, mặc dù không bị
ai đánh đập, xua đuổi nhưng chị H đã nhiều lần bỏ nhà đi. Lúc cháu Trần Đình
Huy được hơn 7 tháng tuổi, đang cần được chăm sóc bằng nguồn sữa mẹ thì chị H
đã bỏ nhà ra đi, để mặc cho anh T cùng gia đình anh T chăm sóc, ni dưỡng cháu.
Hơn nữa, chị H khơng có việc làm và thu nhập ổn định; Hiện tại chị H đang ở
chung với bố mẹ đẻ tại xã Nghi Văn, huyện Ng, tỉnh Nghệ An. Chị H trình bày thu
nhập của chị từ nghề bán bánh mướt tại chợ Bộng, huyện Yên Thành được khoảng
5.000.000đ/tháng nhưng khơng có tài liệu chứng cứ để chứng minh. Tại biên bản
xác minh ngày 03/4/2017 do người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh T
cung cấp thể hiện ở Chợ Bộng, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An khơng có ai tên là
H làm nghề bán bánh mướt. Như vậy, không thể bảo đảm để trang trải cho cuộc
sống của mình cũng như đảm bảo điều kiện tối thiểu để ni dưỡng, chăm sóc con.
Xét về điều kiện ni con thì anh T có nơi ở, việc làm và thu nhập ổn định cho nên
giao bé Huy cho anh T.



15

Thứ ba, trong quá trình giải quyết vụ án, một số Thẩm phán chưa tập trung
xác minh, làm rõ những cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến việc giải quyết phân chia tài sản chung của vợ chồng, từ đó khơng đưa họ vào
tham gia tố tụng khi giải quyết vụ án. Hoặc sau khi đã thực hiện một số hoạt động
tố tụng đối với vụ án, Tòa án mới xác định được thêm người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án, Tòa án đưa họ vào tham gia tố tụng nhưng lại không làm đầy
đủ các thủ tục tố tụng đối với họ, thực hiện cấp, tống đạt các văn bản tố tụng không
đúng quy định theo quy định của BLTTDS.
Thứ tư, bất cập việc xác đinh căn cứ ly hôn đối với trường hợp vợ chồng ly
thân và trường hợp vợ hoặc chồng có u cầu ly hơn với chồng hoặc vợ đang chấp
hành hình phạt tù. Luật HN&GĐ 2014 chưa có quy định cụ thể căn cứ ly hơn trong
trường hợp vợ hoặc chồng đang chấp hành hình phạt tù và bên cịn lại có u cầu
ly hơn cũng như xác định ly thân là căn cứ ly hôn. Điều này gây nên những khó
khăn, vướng mắc trong việc thụ lí và giải quyết vụ án hơn nhân và gia đình.
Ví dụ: Vụ án ly hơn giữa ngun đơn chị Phạm Thị T và bị đơn anh Nguyễn
Hoàng T thụ lí số 608/2020/TLST - HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2020 về tranh
chấp Hơn nhân và gia đình.
Nội dung vụ án: Chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Hoàng T kết hơn trên cơ
sở tự ngun, có đăng ký kết hôn với nhau tại UBND xã Nghi Kim, thành phố
Vinh, tỉnh Nghệ An vào ngày 17/5/2017. Quá trình chung sống vợ chồng sống hòa
thuận hạnh phúc, Đến tháng 01/2028, anh T đi làm ăn xa và cắt đứt liên lạc với chị
T. Đến tháng 3 năm 2020 anh T bị bắt và phải chấp hành hình phạt tù về tội “Cướp
giật tài sản” tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Nha trang, tỉnh Khánh Hịa. Nhận
thấy tình cảm vợ chồng khơng cịn do anh T đã chủ động cắt đứt liên lạc, khơng có
trách nhiệm, quan tâm chị T nên chị quyết định làm đơn ly hôn đơn phương. Trong
đơn khởi kiện chị T ghi lí do ly hơn là vì anh T đang chấp hành hình phạt tù nên
mong muốn ly hôn đơn phương. Do căn cứ ly hơn khơng có cơ sở nhưng bộ phận
thụ lý vẫn thụ lí đơn khởi kiện nên khi Thẩm phán xem xét chị T lại phải thực hiện

viết lại đơn khởi kiện, bản tự khai.
Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập trong giải quyết các trường
hợp ly hôn tại Tịa án nhân dân thành phố Vinh gồm:
+ Cơng tác lãnh đạo, quản lý trong việc giải quyết, xét xử các vụ việc hơn
nhân và gia đình chưa thực hiện tốt việc kiểm tra, đôn đốc thường xuyên để nắm
chắc tình hình thụ lý và giải quyết các vụ việc HN&GĐ; chưa có những biện pháp
kịp thời để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho Thẩm phán trong những vụ án
phức tạp.
+ Vẫn cịn một số ít thẩm phán, Thư ký và cán bộ Tòa án chưa thật sự chủ
động, tích cực trong việc cập nhật đầy đủ, kịp thời các quy định của pháp luật liên
quan đến công tác giải quyết các vụ việc HN&GĐ; chưa làm tốt công tác thụ lý,
yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ, xác minh, thu thập chứng cứ, xây dựng hồ
sơ chưa đầy đủ đã đưa vụ án ra xét xử; trong quá trình giải quyết chưa nghiên cứu
kĩ hồ sơ vụ việc, đánh giá chứng cứ chưa toàn diện, chính xác, thiếu thận trọng.


16

+ Số lượng các loại vụ án nói chung, các vụ việc HN&GĐ nói riêng của
TAND thành phố Vinh trong những năm qua thụ lý, giải quyết tăng cả về số lượng
và tính chất phức tạp của tranh chấp. Trong khi đó, chỉ tiêu biên chế cơng chức cán
bộ, Thẩm phán chưa được đáp ứng. Do đó, số lượng án mà Thẩm phán, số lượng
công việc mà Thư ký, cán bộ Tòa án phải làm rất lớn. Điều này làm ảnh hưởng đến
chất lượng giải quyết các loại án nói chung và án hơn nhân và gia đình nói riêng.
+ Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ. Đặc biệt chưa có sự
bổ sung, sửa đổi kịp thời, chuẩn xác các văn bản hướng dẫn chi tiết đối với các
điều luật liên quan đến căn cứ ly hôn. Điều này cũng dễ tạo nên những bất cập trên
thực tế xét xử, gây ảnh hưởng đến việc giải quyết các vụ án.
+ Trong công tác giải quyết, xét xử các vụ án, một số vụ án bị kéo dài do
các cơ quan, tổ chức chưa phối hợp chặt chẽ với Tịa án, thậm chí chưa làm hết

trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong việc cung
cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, giám định,
tham gia định giá tài sản, thực hiện ủy thác tư pháp,…
+ Một số đương sự trong vụ án HN&GĐ thường khơng hợp tác với Tịa án
để giải quyết vụ án được kịp thời, đúng pháp luật. Nhiều đương sự chưa hiểu được
tầm quan trọng của việc cung cấp chứng cứ cho Tịa án nên cung cấp chứng cứ
khơng đầy đủ hoặc cố ý không cung cấp chứng cứ hoặc chây ỳ, trốn tránh, khơng
đến Tịa theo giấy triệu tập, khơng có mặt khi thẩm định tại chỗ hoặc định giá tài
sản gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢI QUYẾT CÁC TRƯỜNG HỢP LY HƠN TẠI TỊA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ VINH.
3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về
HN&GĐ.
Thứ nhất, cần quy định chi tiết cụ thể hơn về nghĩa vụ chịu án phí đối với
trường hợp các bên yêu cầu khơng thỏa thuận được với nhau về việc thuận tình ly
hơn, Tịa án đình chỉ u cầu cơng nhận thuận tình ly hơn, thỏa thuận ni con,
chia tài sản khi ly hơn và trả lại tiền lệ phí cho đương sự. Vậy khi Tòa án tiên
shanhf chuyển thụ lý từ việc dân sự sang vụ án dân sự thì nghĩa vụ chịu án phí sẽ
thuộc về ai.
Thứ hai, cần quy định cụ thể chi tiết hơn nữa về các căn cứ ly hôn. Mặc dù
trong luật HN&GĐ 2014 không quy định ly thân là căn cứ ly hôn nhưng trên thực
tế xét xử, các Tòa án đánh giá ly thân là căn cứ để giải quyết ly hôn. Để pháp luật
và thực tiễn có sự thống nhất, pháp luật Việt Nam cần bổ sung và quy định thêm ly
thân là một trong những căn cứ để ly hôn nếu xét thấy tình trạng vợ chồng khơng
thể chung sống được với nhau nữa mà phải ly thân và trong khoảng thời gian ly
thân vẫn khơng thể hàn gắn được tình cảm; Bổ sung quy định căn cứ ly hôn khi
chồng hoặc vợ phạm tội và đang chấp hành hình phạt tù và một bên có yêu cầu
nhằm tạo điều kiện cho vợ hoặc chồng ly hơn vì khi một bên vợ, chồng đang chấp
hành hình phạt tù thì khơng thể cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình, ni dạy

con cái, đảm bảo những yếu tố cơ bản của quan hệ hôn nhân được. hơn nữa cũng



×