Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Vấn đề xác định sản phẩm tương tự trong thủ tục điều tra chống bán phá giá theo quy định của tổ chức thương mại thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGƠ MINH TÍN

VẤN ĐỀ XÁC ĐỊNH
SẢN PHẨM TƢƠNG TỰ TRONG THỦ TỤC
ĐIỀU TRA CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ THEO QUY
ĐỊNH CỦA TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành Luật Quốc tế - Mã số 60380108

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Ánh Nguyệt

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu thực sự của cá nhân
tơi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Lê Thị Ánh Nguyệt.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này là
trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào.
Tơi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Tác giả

Ngơ Minh Tín


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


Từ viết tắt

Tên tiếng Việt

WTO

Tổ chức Thương mại thế giới

ADA

Hiệp định thực thi điều VI của GATT 1994 ngày 15/4/1994

GATT
EU

Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
Liên minh Châu Âu

USDOC

Bộ Thương mại Hoa Kỳ

USITC

Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài ..........................................................................4
4. Đối tượng nghiên cứu .........................................................................................5
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu..............................................................................5
6. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu .............................................................6
7. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của luận văn ...........................................6
8. Bố cục của luận văn ............................................................................................7
CHƢƠNG 1. PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH SẢN
PHẨM TƢƠNG TỰ TRONG THỦ TỤC ĐIỀU TRA CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
CỦA TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI ........................................................8
1.1. Quy định của Tổ chức Thương mại thế giới về việc xác định sản phẩm tương
tự trong thủ tục điều tra chống bán phá giá ............................................................8
1.1.1. Khái niệm sản phẩm tương tự ..................................................................8
1.1.2. Đặc điểm sản phẩm tương tự .................................................................14
1.1.3. Cơ sở xác định sản phẩm tương tự .........................................................16
1.1.4. Thẩm quyền xác định sản phẩm tương tự...............................................18
1.2. Việc xác định sản phẩm tương tự của Tổ chức Thương mại thế giới qua một
số vụ kiện chống bán phá giá ................................................................................19
1.2.1. Vụ DS312: Hàn Quốc - Thuế chống bán phá giá đối với giấy nhập khẩu
từ Indonesia ......................................................................................................20
1.2.2. Vụ DS331 Mexico - Các mức thuế chống bán phá giá đối với ống thép
nhập khẩu từ Guatemala ..................................................................................21
1.2.3. Vụ DS425: Trung Quốc - Thuế chống bán phá giá cuối cùng đối với các
thiết bị kiểm tra an toàn X - Quang nhập khẩu từ Liên minh châu Âu ............23
1.2.4. Vụ DS141: EC - Thuế chống phá giá áp dụng đối với khăn trải giường
cotton nhập khẩu từ Ấn Độ ...............................................................................25
CHƢƠNG 2. PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH SẢN
PHẨM TƢƠNG TỰ TRONG THỦ TỤC ĐIỀU TRA CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
CỦA MỘT SỐ NƢỚC THÀNH VIÊN TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI

...................................................................................................................................31


2.1. Quy định của một số nước thành viên Tổ chức Thương mại thế giới về việc
xác định sản phẩm tương tự trong thủ tục điều tra chống bán phá giá .......................31
2.1.1. Quy định của Hoa Kỳ .............................................................................31
2.1.2. Quy định của Liên minh Châu Âu ..........................................................39
2.1.3. Quy định của Việt Nam...........................................................................42
2.2. Việc xác định sản phẩm tương tự của một số nước thành viên Tổ chức
Thương mại thế giới qua một số vụ kiện chống bán phá giá ................................45
2.2.1. Việc xác định sản phẩm tương tự trong một số vụ kiện điều tra chống
bán phá giá cụ thể của Hoa Kỳ ........................................................................45
2.2.2. Việc xác định sản phẩm tương tự trong một số vụ kiện điều tra chống
bán phá giá cụ thể của Liên minh Châu Âu .....................................................48
2.2.3. Việc xác định sản phẩm tương tự trong một số vụ kiện điều tra chống
bán phá giá cụ thể của Việt Nam......................................................................51
KẾT LUẬN ..............................................................................................................56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thương mại quốc tế, hành vi bán phá giá dưới góc độ xuất khẩu với giá
thấp hơn giá trị thông thường đang được lưu thông tại thị trường của quốc gia xuất
khẩu trong điều kiện thương mại thông thường, với nhiều mục đích khác nhau, đã
đang và sẽ gây thiệt hại cho nhiều ngành sản xuất của quốc gia nhập khẩu, người
lao động cũng như đối với nền kinh tế của các quốc gia có liên quan.

Để đối phó lại hành vi này, hơn 100 năm trước, một số quốc gia đã ban hành
pháp luật chống bán phá giá. Canada ban hành Luật Chống bán phá giá đầu tiên vào
năm 1904; Hoa Kỳ ban hành năm 1916, Nam Phi và Vương quốc Anh năm 1921,
…. Sau khi một loạt quốc gia đơn phương ban hành Luật chống bán phá giá, đã xuất
hiện một số sáng kiến đa phương phân tích và bàn về chính sách này. Tuy nhiên,
vẫn chưa có Hiệp định về chống bán phá giá nào được ký kết.
Sau khi Liên hợp quốc được thành lập, một thỏa thuận chung đã đạt được tại
GATT1 1947. Theo đó, Điều VI của GATT 1947 đã đặt ra các nguyên tắc cơ bản về
chống bán phá giá. Nhưng GATT 1947 không quy định cụ thể hình thức quản lý và
cách tính tốn thuế chống bán phá giá, mà giành cho các quốc gia tham gia ký kết
quy định cơ chế riêng cho mình. Do quy định thiếu chi tiết về phương pháp và cơ
chế quản lý trong điều VI dẫn đến hoạt động chống bán phá giá thời kì này cịn
thiếu thống nhất.
Tại vòng đàm phán Uruguay về thương mại đa phương kết thúc vào ngày
15/4/1994, đã thơng qua ADA2. Vì nhiều lý do, chống bán phá giá là vấn đề gây
tranh cãi nhiều nhất trong giai đoạn cuối của vòng đàm phán Uruguay. ADA ra đời
đã chấm dứt những quy định tùy ý của các quốc gia thành viên, hạn chế phần nào tình
trạng lạm dụng chính sách chống bán phá giá để bảo hộ ngành sản xuất trong nước.
Tuy nhiên, đây cũng là công cụ mà các quốc gia sử dụng với mục đích bảo hộ ngành
sản xuất trong nước một cách bất công bằng, tạo ra một loại rào cản thị trường mới
trong thương mại quốc tế, đi ngược lại mục tiêu tự do hóa thương mại tồn cầu.
Ngun nhân chủ yếu của việc lạm dụng các hiệp định này là do một số quy định

1

GATT là viết tắt của General Agreement of Taift and Trade hay còn gọi là Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại.
2
ADA là viết tắt của Anti-Dumping Agreement hay còn gọi là Hiệp định thực thi điều VI của Hiệp định
chung về thuế quan và thương mại 1994 hoặc Hiệp định Chống bán phá giá.



2
trong thủ tục điều tra và áp dụng hiệp định của WTO3 chưa thật sự rõ ràng, dẫn đến
sự tùy tiện giải thích của các quốc gia theo hướng có lợi cho mình. Trong số các vấn
đề đó, đáng quan tâm nhất đó là vấn đề xác định như thế nào là sản phẩm tương tự
trong quá trình tiến hành các thủ tục điều tra cũng như áp dụng các biện pháp phòng
vệ thương mại này. Trong thực tế việc giải quyết tranh chấp của cơ quan giải quyết
tranh chấp WTO có liên quan đến ADA, hầu hết các tranh chấp này đều ít nhiều liên
quan đến việc xác định phạm vi của sản phẩm tương tự mà các quốc gia đã áp dụng.
Trong đó, tranh chấp liên quan trực tiếp đến định nghĩa sản phẩm tương tự theo ADA
là 10 vụ kiện trong tổng số 112 vụ kiện về chống bán phá giá4.
Theo ADA, việc xác định sản phẩm tương tự giúp cơ quan điều tra có cơ sở
để tiến hành xác định thiệt hại của ngành sản xuất trong nước, từ đó tạo cơ sở để
xác định xem liệu có hành vi bán phá giá hay khơng. Tuy nhiên vấn đề như thế nào
là sản phẩm tương tự lại được quy định rất mơ hồ và mang tính mở để các quốc gia
tự giải thích. Thực tế qua các vụ tranh chấp tại WTO cho thấy, các quốc gia có xu
hướng giải thích sản phẩm tương tự theo cách có lợi nhất cho quốc gia mình. Trong
khi đó, WTO lại giải thích khơng thống nhất cho từng vụ kiện dẫn đến tranh chấp
liên quan đến sản phẩm tương tự ngày một nhiều hơn.
Chính sự bất cập này địi hỏi Việt Nam phải kịp thời cập nhật các quy định
của WTO nói chung và các quy định về sản phẩm tương tự nói riêng. Bên cạnh đó,
Việt Nam cũng phải tìm hiểu về sự giải thích, cách hiểu cũng như việc vận dụng
quy định về sản phẩm tương tự giữa các nước thành viên, từ đó tạo cơ sở cho Việt
Nam có thể tiến hành điều tra cũng như khiếu nại, khiếu kiện các quyết định của các
quốc gia đối với các doanh nghiệp Việt Nam liên quan đến hoạt động bán phá giá
theo ADA. Đây chính là một trong số các cơng cụ hợp pháp và hữu ích mà Việt
Nam có thể sử dụng để bảo vệ thị trường nội địa của mình, tạo cơ sở cho sự phát
triển toàn diện của đất nước.
Từ những yêu cầu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Vấn đề xác định sản

phẩm tương tự trong thủ tục điều tra chống bán phá giá theo quy định của Tổ
chức thương mại thế giới” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật.

3
4

WTO là viết tắt của World Trade Organization hay còn gọi là Tổ chức Thương mại thế giới.
Phụ lục II. Thống kê các vụ kiện liên quan Điều 2.6 ADA.


3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời đại kinh tế hội nhập sâu rộng như hiện nay, cánh cửa vào thị trường
Việt Nam đã được mở ra khá rộng cho hàng hóa nước ngồi nhập khẩu. Cùng với đó
cũng xuất hiện những dấu hiệu của hiện tượng cạnh tranh khơng lành mạnh của hoạt
động bán phá giá hàng hóa nước ngoài tại thị trường Việt Nam. Đây là hiện tượng đã
và đang gây ra những thiệt hại nặng nề cho các doanh nghiệp Việt Nam và trong lâu
dài có thể ảnh hưởng tới triển vọng của các ngành sản xuất trong nền kinh tế. Tại Việt
Nam đã có khá nhiều Hội thảo, cơng trình cấp nhà nước nghiên cứu đến vấn đề này.
Chẳng hạn như: Hội thảo về pháp luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ và EU năm
2003; Hội thảo về nâng cao năng lực chống bán phá giá cho Việt Nam trong quá
trình hội nhập kinh tế thế giới năm 2005; Hội thảo về pháp luật và thực tiễn chống
bán phá giá tại Liên minh Châu Âu năm 2004; Hội thảo khoa học quốc gia về
Thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế do Bộ Thương mại
tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2004; Hội thảo chính sách cơng nghiệp và
thương mại của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập của cơ quan hợp tác quốc tế Nhật
Bản và Đại học Kinh tế quốc dân tổ chức tại Hà Nội năm 2004...
Một số sách chuyên khảo có liên quan như: Tác phẩm “Chủ động ứng phó
với các vụ kiện chống bán phá giá trong thương mại quốc tế” của tác giả Đinh Thị
Mỹ Loan do nhà xuất bản Lao động xã hội xuất bản năm 2006; Sách chuyên khảo

“Tranh chấp về chống bán phá giá trong WTO” của Hội đồng Tư vấn về Phịng vệ
thương mại, 2010; Cuốn “Tìm hiểu Luật WTO qua một số vụ kiện về chống bán phá
giá” với nhóm tác giả Trần Việt Dũng, Trần Thị Thùy Dương ; Hà Thị Thanh Bình,
Vũ Duy Cương chủ biên, do Nhà xuất bản Hồng Đức xuất bản năm 2013;….
Ngồi ra, cịn có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề
này như: Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật của Liên minh Châu Âu về chống bán phá giá
và thực tiễn việc chống bán phá giá của Liên minh Châu Âu với hàng hóa Việt Nam”
của tác giả Phạm Thị Trang bảo vệ năm 2009; Luận án Tiến sĩ “Pháp luật chống bán
phá giá hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Ngọc Sơn hoàn thành năm 2010 và bảo vệ năm 2012; Luận án Tiến sĩ “Giải quyết
tranh chấp trong tổ chức thương mại thế giới và những vấn đề đặt ra đối với Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Tiến Hoàng bảo vệ năm 2012; Luận án Tiến sĩ “Pháp luật
về chống phá giá trong thương mại quốc tế và những vấn đề đặ ra đối với Việt Nam”
của tác giả Vũ Thị Phương Lan bảo vệ năm 2011; Luận án Tiến sĩ “Kinh nghiệm sử
dụng chính sách chống bán phá giá hàng nhập khẩu trên thế giới và bài học cho Việt


4
Nam” của tác giả Phạm Đình Thưởng bảo vệ năm 2013; Luận án Tiến sĩ “Điều tra
chống bán phá giá dưới góc độ luật so sánh” của tác giả Nguyễn Tú bảo vệ năm
2013; Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật chống bán phá giá ở Việt nam – Thực trạng và
giải pháp” của tác giả Nguyễn Thị Thu Trang bảo vệ năm 2014; ....
Bên cạnh các cơng trình nghiên cứu khoa học, hội thảo và các luận văn, luận
án, còn có một số bài viết của các nhà luật học, kinh tế học liên quan đến hoạt động
chống bán phá giá như: “Cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng chính sách khoan hồng
theo Luật Cạnh tranh của một số nước trên thế giới và đề suất bổ sung cho Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Anh Tuấn đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý năm 2013;
“Bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra” của tác giả Đỗ
Văn Đại và Nguyễn Thị Hoài Trâm đăng trên tạp chí Khoa học Pháp lý số 2/2012;
Bài viết “Sử dụng chứng cứ sẵn có trong điều tra chống bán phá giá” của tác giả

Nguyễn Thị Thái Hịa đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 1/2010; “Nhận diện
hành vi bán phá giá trong thương mại quốc tế” của tác giả Lê Minh Toán đăng trên
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và pháp luật số 8/2010; “Cơ quan
chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam thực trạng và hướng hoàn
thiện” của tác giả Đoàn Trung Kiên đăng trên tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội số 6/2010; “Lịch sử pháp luật chống bán phá giá trong thương mại quốc
tế” của tác giả Vũ Thị Phương Lan được đăng trên Tạp chí Luật học, Đại học Luật
Hà Nội, số 11/2009; … Ngồi ra, cịn có nghiên cứu chun sâu của tác giả Won –
Mog Choi về sản phẩm tương tự trong luật thương mại quốc tế nói chung5.
Các cơng trình nghiên cứu trên của các tác giả được đề cập chỉ nghiên cứu
riêng biệt về bán phá giá hoặc về sản phẩm tương tự dưới nhiều góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu về ―Vấn đề xác
định sản phẩm tƣơng tự trong thủ tục điều tra chống bán phá giá theo quy
định của Tổ chức thƣơng mại thế giới‖ một cách thống nhất và chuyên sâu.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn nhằm mục đích khai thác và làm rõ hơn về các vấn đề lý luận và
thực tiễn các quy định của WTO có liên quan để làm rõ cách xác định sản phẩm
tương tự trong thủ tục điều tra chống bán phá giá của WTO nhằm đưa ra những
đánh giá có cơ sở khoa học và thực tiễn về vấn đề này. Từ đó làm cơ sở tham khảo
5

Won – Mog Choi (2006), Like products in International Trade Law Towards a Consistent GATT/WTO
Jurisprudence, Oxford, England.


5
cho Việt Nam trong hoạt động chống bán phá giá để bảo vệ tốt cho các ngành sản
xuất trong nước cũng như trước nguy cơ bị khởi kiện lên WTO. Xuất phát từ mục
đích như vậy, đề tài tập trung hướng đến:
- Đưa ra cơ sở lý luận, các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề sản

phẩm tương tự, phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm, cách xác định sản phẩm
tương tự trong điều tra chống bán phá giá theo quy định của WTO;
-

Thông qua việc phân tích một số vụ tranh chấp tại WTO liên quan đến

cách xác định sản phẩm tương tự từ đó nêu bật và phân tích cách tiếp cận của Cơ
quan giải quyết tranh chấp WTO cũng như các bên liên quan;
- Phân tích cách tiếp cận của Việt Nam về vấn đề xác định sản phẩm tương tự
thông qua một số cuộc điều tra chống bán phá giá mà Việt Nam khởi sướng. Từ đó đưa
ra bình luận và một số khuyến nghị có cơ sở khoa học và thực tiễn cho Việt Nam về
phương pháp xác định sản phẩm tương tự trong quá trình điều tra chống bán phá giá
nhằm nâng cao khả năng vận dụng các công cụ này để bảo vệ ngành sản xuất trong nước
trước sự cạnh tranh khơng lành mạnh từ đối tác nước ngồi và cũng là tài liệu tham khảo
khi Việt Nam tiến hành xem xét khởi kiện các quyết định điều tra chống bán phá giá của
các quốc gia thành viên khác.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung xem xét, phân tích các nội dung liên quan về vấn đề
xác định sản phẩm tương tự, bao gồm:
- Những quy định của WTO cũng như của Việt Nam và một số quốc gia
thành viên về cách xác định sản phẩm tương tự liên quan đến thủ tục điều tra chống
bán phá giá;
- Một số tranh chấp được Cơ quan giải quyết tranh chấp WTO thụ lý và
giải quyết liên quan đến cách xác định sản phẩm tương tự liên quan đến thủ tục điều
tra chống bán phá giá.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung vào nghiên cứu về vấn đề xác định sản phẩm tương tự
trong thủ thục điều tra chống bán phá giá theo quy định của WTO mà cụ thể là
trong ADA. Trong Luận văn, tác giả có đề cập đến các hiệp định cụ thể như ADA,
nhưng chỉ nhằm mục đích phân tích và so sánh cách xác định sản phẩm tương tự

của hiệp định này với quy định có liên quan của các nước thành viên WTO chứ
khơng phân tích sâu rộng chúng.


6
Bên cạnh đó, luận văn cũng đề cập đến một số vụ tranh chấp tại WTO và
một số vụ điều tra chống bán phá giá do Việt Nam khởi xướng, nhưng chỉ dừng lại
ở việc phân tích làm rõ quan điểm của các bên và WTO liên quan đến vấn đề xác
định sản phẩm tương tự chứ không đi sâu vào phân tích và bình luận từng vụ tranh
chấp cũng như các sự việc liên quan khác.
6. Các phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu sau đây sẽ được sử dụng trong quá trình nghiên
cứu:
-

Phương pháp nghiên cứu so sánh pháp luật

Đây là phương pháp sẽ được thực hiện xuyên suốt trong luận án. Với phương
pháp này, tác giả sẽ so sánh và đối chiếu được các quy định của ADA, quy định của
pháp luật Việt Nam, quy định của pháp luật Hoa Kỳ và pháp luật EU về xác định
sản phẩm tương tự trong điều tra chống bán phá giá. Từ đó, chỉ ra được những bất
cập mà quy định về xác định sản phẩm tương tự của Việt Nam cần phải bổ sung,
hoàn thiện, trên nguyên tắc phải phù hợp với ADA, các quy định của WTO, phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nền kinh tế Việt Nam, với mục đích đáp ứng được
nhiệm vụ bảo vệ ngành sản xuất trong nước, cũng như bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng và bảo đảm sự hoạt động lành mạnh của nền kinh tế.
- Phương pháp chuyên gia
Với phương pháp này, tác giả tham khảo ý kiến của các chuyên gia pháp lý,
các nhà nghiên cứu luật học. Đây là một phương pháp rất quan trọng, với sự góp ý
của các nhà nghiên cứu, của các chuyên gia cũng như những nhà tham gia trực tiếp

trong các vụ kiện cần xác định sản phẩm tương tự trong điều tra chống bán phá giá
sẽ giúp tác giả có cái nhìn hồn thiện hơn, những vấn đề mà giữa lý luận và thực
tiễn còn chưa giải quyết được.
Ngồi ra, các phương pháp lịch sử, phân tích, logic, tổng hợp, chứng minh
cũng được sử dụng hợp lý xuyên suốt quá trình nghiên cứu.
7. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của luận văn
Luận văn là một cơng trình nghiên cứu luật học góp phần làm sáng tỏ vấn đề
xác định sản phẩm tương tự theo quy định của WTO và một số quốc gia thành viên
về vấn đề này;
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho Việt Nam trong hoạt động
chống bán phá giá để bảo vệ tốt cho các ngành sản xuất trong nước cũng như trước
nguy cơ bị khởi kiện lên WTO;


7
Hơn nữa, việc nghiên cứu này sẽ là cơ sở để triển khai trên thực tế những
hoạt động cụ thể nhằm hiện thực hóa mục tiêu điều tra chống bán phá giá hiệu quả
trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu và rộng trong thời gian tới;
Ngoài ra, luận văn cịn có thể được sử dụng như một tài liệu chuyên ngành
cho sinh viên tham khảo liên quan đến thực tiễn xác định sản phẩm tương tự; cũng
như các doanh nghiệp có thể xem như sách gối đầu trong quan hệ thương mại quốc
tế khi có tranh chấp.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn được chia làm hai chương:
Chương 1: Pháp Luật và thực tiễn về việc xác định sản phẩm tương tự trong
thủ tục điều tra chống bán phá giá của Tổ chức thương mại thế giới.
Chương 2: Pháp luật và thực tiễn về việc xác định sản phẩm tương tự trong
thủ tục điều tra chống bán phá giá của một số nước thành viên tổ chức thương mại
thế giới.



8
CHƢƠNG 1. PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC
XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM TƢƠNG TỰ TRONG THỦ TỤC ĐIỀU
TRA CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI
1.1. Quy định của Tổ chức Thƣơng mại thế giới về việc xác định sản phẩm
tƣơng tự trong thủ tục điều tra chống bán phá giá
1.1.1. Khái niệm sản phẩm tương tự
Ngay từ khi những quy định đầu tiên về chống bán phá giá ra đời, khái niệm
sản phẩm tương tự đã được quan tâm và sử dụng rộng rãi. Với vai trò là một trong
những khái niệm cơ bản, “sản phẩm tương tự” giữ một vị trí quan trọng, quyết định
đến kết quả của nhiều giai đoạn trong suốt quá trình điều tra và áp dụng các biện
pháp chống bán phá giá.
Như đã trình bày, trong quá trình điều tra chống bán phá giá, sản phẩm tương
tự với sản phẩm bị điều tra tại nước xuất khẩu dùng để xác định giá trị thông thường
được so sánh với giá xuất khẩu để cho ra kết quả là có bán phá giá hay không 6. Rõ
ràng nếu các thành viên điều tra khơng hiểu chính xác khái niệm sản phẩm tương tự
và khơng thể xác định được chúng thì khơng thể nào đưa ra kết luận chống bán phá
giá được. Tiếp theo, trong q trình xác định thiệt hại của ngành cơng nghiệp trong
nước sản phẩm tương tự với sản phẩm bị điều tra tại nước nhập khẩu được dùng để
xác định ngành công nghiệp trong nước bị thiệt hại hoặc đe dọa bị thiệt hại, trong
trường hợp này, rõ ràng nếu khơng xác định sản phẩm tương tự thì cơ quan điều tra
không thể nào xác định được ngành công nghiệp trong nước bị thiệt hại, mức độ
thiệt hại và không thể yêu cầu chống bán phá giá được. Hơn thế nữa, nếu không xác
định được ngành công nghiệp trong nước, cơ quan điều tra cũng không thể bắt đầu
điều tra một vụ kiện vì khơng đáp ứng u cầu của WTO.
Giữ vai trò rất quan trọng trong thủ tục điều tra chống bán phá giá, tuy nhiên,
để hiểu và áp dụng đúng, hiệu quả “sản phẩm tương tự” không phải là một vấn đề
dễ dàng đối với doanh nghiệp và các Chính phủ trong q trình xử lý các tranh chấp

liên quan đến thủ tục điều tra.
Về mặt thuật ngữ, người Việt đã sử dụng phổ biến từ “tương tự” để ám chỉ
những thứ gần giống nhau khi miêu tả một sự vật, sự việc hay một hiện tượng nào
đó. Theo cách hiểu thông thường của người Việt, “tương tự” có nghĩa là “có một số
6

Xem Điều 2.1 ADA.


9
mặt hoặc nhiều mặt giống nhau”7. Như vậy chúng ta có thể thấy, trong khái niệm
của người Việt Nam, “tương tự” ám chỉ những sự vật, sự việc có một số mặt hoặc
nhiều mặt giống nhau. Vì vậy, sản phẩm tương tự sẽ là những sản phẩm có một số
hoặc nhiều mặt giống nhau. Trong khi đó, người Việt Nam đã định nghĩa từ “giống
hệt” là “hoàn toàn giống nhau”8. Như vậy có thể thấy, ngay từ đầu người Việt Nam
đã sử dụng hai khái niệm tương tự và giống hệt trong những tình huống khác nhau
và mang ý nghĩa khác nhau.
Trong Tiếng Anh, thuật ngữ “like product” được dùng để nói đến “sản phẩm
tương tự”. Theo cách giải thích của Từ điển luật học Black‟ Law Dictionary9, “like
product” được giải thích là các sản phẩm giống hệt nhau hoặc về cơ bản giống
nhau10.
Như vậy, xét về ngữ nghĩa và ngữ cảnh, khái niệm “like product” trong
Tiếng Anh có phạm vi sử dụng rộng hơn cách dùng của người Việt Nam. Nó bao
gồm cả hai khái niệm giống hệt và tương tự trong cách dùng của người Việt Nam.
Xét về mặt pháp lý, thuật ngữ "sản phẩm tương tự" xuất hiện với tần số khá
lớn tại các hiệp định của WTO như Điều I (1), III (2,4) GATT liên quan đến các
quy định đối xử phân biệt giữa các sản phẩm nhất định. Với mục đích là để ngăn
ngừa sự phân biệt đối xử nhằm ngăn chặn sự bóp méo cạnh tranh giữa các hàng hóa
cạnh tranh với nhau. Quy định về “sản phẩm tương tự” cũng được quy định tại hai
điều luật quan trọng là Điều VI và Điều XIX của GATT, theo đó nhằm ngăn chặn

những nhà sản xuất được bảo hộ không công bằng, hoặc gây thiệt hại cho nhà nhập
khẩu. Tuy nhiên, không hề tồn tại một quy định nào trong các hiệp định này giải
thích một cách rõ ràng thuật ngữ "sản phẩm tương tự".
Điều 2.6 Hiệp định thực thi Điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại - GATT 1994 (ADA) có định nghĩa như sau: “Throughout this
Agreement the term “like product” (“produitsimilaire”) shall be interpreted to
mean a product which is identical, i.e. alike in all respects to the product under
7

Định nghĩa “tương tự”, Từ điển Tiếng Việt: truy cập ngày
15/6/2015.
Từ điển Tiếng Việt: truy cập ngày
15/6/2015.
8
Hồng Mây – Ngọc Xương – Minh Mẫn – Trần Tú Lăng (2005), Từ điển Tiếng Việt, NXB Thanh Niên, TP.
Hồ Chí Minh, trang 247.
9
Oxford Univesity (2005), Black Law Dictionary 9th, Oxford, England, page 1012.
10
Tương tự, U.S. Deparment of State (2006), Pocket Dictionary, Incorporated Springfield, Massachusrtts,
USA, page 200.


10
consideration, or in the absence of such a product, another product which, although
not alike in all respects, has characteristics closely resembling those of the product
under consideration11. - Sản phẩm tương tự được hiểu là sản phẩm giống hệt, tức là
sản phẩm có tất cả các đặc tính giống với sản phẩm đang được xem xét, hoặc trong
trường hợp khơng có sản phẩm nào như vậy thì là sản phẩm khác mặc dù khơng
giống ở mọi đặc tính nhưng có nhiều đặc điểm gần giống với sản phẩm được xem

xét”. Theo định nghĩa này thì, thuật ngữ “identical” được dùng để giải thích sản
phẩm tương tự và thuật ngữ “characteristics”được sử dụng khi mơ tả các tiêu chí
xét tính tương tự trong trường hợp khơng có sản phẩm giống hệt (identical). Cịn
“alike” được dùng để giải thích trong trường hợp khơng có sản phẩm giống (like).
Thế nhưng, việc áp dụng định nghĩa này khơng được chính thức cơng nhận
trong việc giải thích các Điều I và III của GATT12. Chính vì vậy mà thực tế đã dẫn
đến những mâu thuẫn trong cách hiểu, giải thích và vận dụng quy định về sản phẩm
tương tự giữa các nước thành viên. Với khái niệm tưởng chừng đơn giản như vậy,
nhưng khi áp dụng vào thực tiễn thì vơ cùng khó khăn, gây ra nhiều tranh cãi giữa các
học giả, giữa các chuyên gia và các quốc gia. Vì thế, có rất nhiều cơng trình trong và
ngồi nước đã nghiên cứu về khái niệm này, cụ thể là:
Quan điểm về sản phẩm tương tự của Konrad von Moltke trong tác phẩm
Reassessing„Like Products‟ Trade13 – Đánh giá lại về sản phẩm tương tự. Trước hết
tác giả này phân tích về “sản phẩm tương tự” trong giải quyết tranh chấp của WTO,
mọi vấn đề xoay quanh việc giải thích từ “like” trong “like product”. Khái niệm sản
phẩm tương tự là yếu tố cốt lõi được đề cập đến nhiều phương diện trong hệ thống
GATT/WTO. Hai nguyên tắc trung tâm của nó là Quy chế tối huệ quốc (MFN) và
Quy chế đối xử quốc gia (NT) đều phụ thuộc rất nhiều vào khái niệm này. Theo
GATT “bất cứ lợi thế, đặc ân, đặc quyền hoặc miễn trừ bởi bất cứ bên ký kết nào
đối với bất cứ sản phẩm nào có xuất xứ hoặc đến từ bất kỳ quốc gia nào khác thì sẽ
được giành ngay lập tức và vô điều kiện cho sản phẩm tương tự xuất xứ hoặc đến từ
lãnh thổ của tất cả các thành viên khác”14. “Sản phẩm của bất cứ quốc gia thành
viên nào nhập khẩu vào lãnh thổ của quốc gia thành viên khác sẽ không phải là đối
11

Điều 2.6, ADA.
Report of the Appellate Body No. WT/DS8/AB/R ngày 04/10/1996.
13
Konrad von Moltke, Reassessing„Like Products‟ Trade, Paper presented at the Chatham House
Conference, Trade, Investment and the Environment, 29 & 30 October 1998.

14
Điều I.1, Hiệp định GATT.
12


11
tượng trực tiếp hoặc gián tiếp phải chịu thuế, phí trong nước vượt quá mức thuế đã
áp dụng trực tiếp, gián tiếp đối với sản phẩm nội địa tượng tự”.15
Theo tác giả này, từ “like” tiếng Anh khơng hồn tồn tương ứng trong phiên
bản tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha. Phiên bản tiếng Pháp của GATT là
“equivalent” diễn tả sự “tương đương” mà thực sự thể hiện một gì đó khác nhau.
Các nhà soạn thảo đã chọn từ “like” là chính xác và phản ánh sự “khơng hồn tồn
rõ ràng” của nó. Tác giả cũng cho rằng một số sản phẩm là “tương đương”
(equivalent) nhưng khơng giống (like), (ví dụ: rượu Wishky và rượu Sake) hoặc là
một số sản phẩm là tương đương nhưng không giống (cá Hồi tự nhiên và cá Hồi
nuôi ở trang trại).16
Quan điểm về sản phẩm tương tự của Robert E.Hudec trong Bài viết “Like
Product”: The Differences in Meaning in GATT Articles I and III17 – “Sản phẩm
tương tự”: sự khác nhau về ý nghĩa theo Điều I và Điều III Hiệp định GATT.
Theo tác giả, không thể áp dụng khái niệm “tương tự” mà khơng chỉ ra các
đặc tính để “cấu thành” sự “tương tự”. Tác giả này cho rằng, để so sánh được “sản
phẩm tương tự” cần phải xác định được các tiêu chí mà tính tương tự có thể đo
được, đó là các tiêu chí về đặc tính vật lý. Theo tác giả này, thì có sự định nghĩa
khác nhau về tính chất “tương tự” (likeness), có hai điều quan trọng mà khái niệm
“sản phẩm tương tự” được đề cập trong Điều I và III của GATT là liên quan đến các
quy định cấm sự khác biệt trong việc xử lý một sản phẩm nhất định, với mục đích
ngăn chặn sự bóp méo cạnh tranh giữa các hàng hóa và vấn đề chính là “sản phẩm
tương tự” được quy định tại Điều VI và Điều XIX của GATT, theo đó nhà sản xuất
được bảo vệ khỏi sự cạnh tranh không lành mạnh từ các sản phẩm nhập khẩu. Có
rất nhiều khái niệm về tiêu chí của “tính tương tự” được đề cập trong các cuộc đàm

phán của GATT, như là khả năng thay thế của người tiêu dùng, chức năng tương tự,
đôi khi áp dụng tính tương tự mà sản phẩm đó khơng liên quan đến sự cạnh tranh
đối với hàng hóa đề cập trong bảng câu hỏi (ví dụ: hai sản phẩm đó được làm từ

15

Điều III.2, Hiệp định GATT.
Konrad von Moltke, Reassessing„Like Products‟ Trade, Paper presented at the Chatham House
Conference, Trade, Investment and the Environment, 29 & 30 October 1998.
17
Robert E. Hudec “Like Product”: The Differences in Meaning in GATT Articles I and III, this article was
originally published in thomas cottier & petros mavroidis, eds., regulatory barriers and theprinciple of nondiscrimination in world trade law (University of Michigan Press 2000) page 101-123.
16


12
nguyên liệu thô như nhau, bởi cùng người lao động, cùng nhà máy, từ một nguồn
vốn …).18
Qua phân tích của các tác giả nêu trên cho ta thấy một vấn đề chung trong
nhận định là cần phải làm rõ tính “tương tự” (likeness), giống nhau ở mức độ nào
thì sẽ được xem là sản phẩm tương tự với những quy định hiện tại trong luật thì
chưa đủ chi tiết để áp dụng thành công cho một vụ kiện cụ thể. Theo quy định,
“nhiều đặc tính cơ bản giống với hàng hóa bị điều tra” vậy đặc tính thế nào được
gọi là cơ bản? Các tỷ lệ đó chiếm bao nhiêu phần trăm trong các đặc tính được coi
là nhiều để xem đó là sản phẩm tương tự? Cần phải quy định rõ các tiêu chí của tính
“tương tự” để cơ quan chống bán phá giá có thể xác định được chính xác khi điều
tra sản phẩm nhập khẩu. Mặt khác chính sự quy định rõ ràng này nhằm tránh sự lạm
dụng của cơ quan điều tra, có thể gây tổn hại đến các quan hệ thương mại quốc tế.
Như vậy, trong quan hệ chống bán phá giá thì khái niệm sản phẩm tương tự
được xét trên hai khía cạnh. Thứ nhất, sản phẩm tương tự là sản phẩm nội địa của

nước nhập khẩu với sản phẩm bị điều tra để xác định giá trị thông thường của sản
phẩm bị điều tra và các mục đích khác có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá
trình điều tra. Thứ hai, sản phẩm tương tự là sản phẩm nội địa của nước nhập khẩu
với sản phẩm bị điều tra, thông qua đó xác định thiệt hại đối với ngành sản xuất
những sản phẩm tương tự tại nước nhập khẩu và mối quan hệ nhân quả của hành vi
bán phá giá với thiệt hại nêu trên.
Việc quyết định một sản phẩm là "sản phẩm tương tự" là một yếu tố rất quan
trọng trong bất kỳ vụ việc điều tra chống bán phá giá nào, vì nó khơng chỉ xác định
sản phẩm nào sẽ thuộc phạm vi để phân tích cho thiệt hại, và do đó sẽ xác định
ngành cơng nghiệp nội địa nào để điều tra xác định thiệt hại, mà nó còn liên quan
đến xác định sản phẩm nào của thị trường nội địa nước xuất khẩu sẽ được sử dụng
để xác định giá trị thông thường. Việc quyết định một sản phẩm là "sản phẩm tương
tự" sẽ liên quan đến việc quyết định biên độ phá giá, cũng như quyết định về tình
trạng thiệt hại.

18

Robert E. Hudec “Like Product”: The Differences in Meaning in GATT Articles I and III, this article was
originally published in thomas cottier & petros mavroidis, eds., regulatory barriers and theprinciple of nondiscrimination in world trade law (University of Michigan Press 2000) page 101-123.


13
Khái niệm sản phẩm bị điều tra
Theo khái niệm sản phẩm tương tự tại Điều 2.6 ADA tồn tại hai thuật ngữ có
mối quan hệ mật thiết với nhau cấu thành nên khái niệm này đó là sản phẩm tương
tự và sản phẩm được xem xét/sản phẩm bị điều tra. Muốn xác định được sản phẩm
nào là sản phẩm tương tự thì phải căn cứ vào sản phẩm bị điều tra. Sản phẩm bị
điều tra (Subject merchandise): là những sản phẩm nhập khẩu bị kiện bán phá giá và
là loại sản phẩm sẽ bị áp đặt thuế chống bán phá giá nếu quyết định chống bán phá
giá được ban hành.19 Như vậy, sản phẩm bị điều tra là sản phẩm đang bị nghi ngờ

bán phá giá tại nước nhập khẩu cần phải được điều tra làm rõ. Muốn hiểu bản chất
của sản phẩm này cần phải làm rõ khái niệm sản phẩm bán phá giá.
Trong các cuộc đàm phán Hiến chương Havana và sau đó được quy định tại
Điều VI của GATT 1947, bán phá giá được khái niệm là: các nhà xuất khẩu bán
hàng hóa ra nước ngồi với giá thấp hơn giá tại thị trường trong nước, và điều này
có thể gây ảnh hưởng có hại cho ngành công nghiệp ở nước nhập khẩu sản xuất sản
phẩm tương tự. Hiện nay, định nghĩa về bán phá giá được các quốc gia thống nhất
tại Hiệp định thực thi Điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
năm 1994 của WTO: Một sản phẩm bị coi là bán phá giá (tức là được đưa vào lưu
thông thương mại của một nước khác với giá thấp hơn trị giá thơng thường của sản
phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất từ một nước này sang một
nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu
dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường.20
Trên cơ sở quy định khung của ADA, các nước thành viên WTO ban hành
các nội luật của mình cho phù hợp với Hiệp định. Theo đó, quy định của EU: Một
sản phẩm bị xem là bán phá giá nếu giá xuất khẩu vào khối cộng đồng ít hơn so với
mức giá đối với sản phẩm tương tự theo tiến trình thương mại thơng thường được
thiết lập ở nước xuất khẩu21; Tương tự, pháp luật Hoa kỳ cũng quy định: bán phá
giá là việc bán một sản phẩm ở thị trường Hoa Kỳ với một mức giá thấp hơn giá của
sản phẩm đó được bán ở thị trường nội địa (giá trị thông thường), sau khi điều chỉnh
những khác biệt về hàng hóa, số lượng mua, điều kiện bán. Trong trường hợp khơng
có giá bán ở thị trường nội địa thì giá của sản phẩm được bán được thay thế
19

Thuật ngữ về chống bán phá giá tại trang thông tin của Phịng thương mại và cơng nghiệp Việt Nam về
Phịng vệ thương mại: />20
Điều 2.1 ADA.
21
Article 1.2 Council Regulation (EC) No 1225/2009 of 30/11/2009.



14
(surrogate) ở nước thứ ba có thể được áp dụng. Nếu ở thị trường nội địa và nước thứ
ba thay thế khơng xác định được giá thì sử dụng “giá xây dựng” để áp dụng.22
Nhìn chung, các định nghĩa nêu trên đã góp phần xác định khái niệm bán phá
giá hàng hóa trong thương mại quốc tế. Tuy nhiên, khơng đề cập đến việc bán hàng
hóa dưới mức chi phí (price-cost dumping), một yếu tố vốn được xem là nội hàm của
việc bán phá giá. Ở đây, yếu tố then chốt để xác định hành vi bán phá giá là sự so
sánh biên độ chênh lệch giữa giá được bán tại nước nhập khẩu với giá thông thường
của sản phẩm tại nước xuất khẩu. Việc so sánh phải được tiến hành đối với sản phẩm
cùng loại hoặc đối với sản phẩm tương tự (like product). Theo Điều 2.6 của Hiệp
định ADA, “sản phẩm tương tự” trong trường hợp bán phá giá được hiểu theo nghĩa
rất hẹp là sản phẩm phải giống hệt, tức là có tất cả các yếu tố tương đồng với sản
phẩm đang được xem xét, hoặc nếu khơng có sản phẩm nào như vậy thì phải sử dụng
sản phẩm có những đặc tính rất giống (closely resembling) với sản phẩm đang được
xem xét. Sản phẩm tương tự tại Điều 2.6 của Hiệp định ADA bao gồm mang ý nghĩa
sản phẩm tương tự ở nước xuất khẩu khi xác định để tính giá trị thơng thường hoặc
nước thứ ba trong trường hợp quốc gia xuất khẩu là thuộc quốc gia có nền kinh tế phi
thị trường (None Market Economy - NME) và sản phẩm tương tự mang ý nghĩa đối
với sản phẩm ở quốc gia nhập khẩu khi xác định thiệt hại.
Như vậy đặc điểm của sản phẩm bị điều tra bao gồm những điểm sau:
- Là mặt hàng của nước xuất khẩu bán vào thị trường của nước nhập khẩu;
- Là mặt hàng có giá được bán tại nước nhập khẩu thấp hơn so với với giá thông
thường của sản phẩm tại nước xuất khẩu theo kết luận điều tra của nước nhập khẩu;
- Là sản phẩm mà ở thị trường nước nhập khẩu có sản phẩm giống hệt hoặc
có nhiều đặc tính gần giống. Tức sản phẩm bị điều tra chính là cơ sở để tìm ra sản
phẩm tương tự tại thị trường nội địa nước nhập khẩu.
1.1.2. Đặc điểm sản phẩm tương tự
Xuất phát từ khái niệm của WTO về sản phẩm tương tự theo quy định tại
Điều 2.6 ADA ta có thể nhận thấy đặc điểm cốt lõi của sản phẩm tương tự chính là

“tính tương tự” tức sự giống nhau về tất cả hoặc một vài đặc tính quy định cho sản
phẩm được điều tra xem xét. Như đã phân tích thì cách hiểu và áp dụng về tính
“tương tự” của sản phẩm tương tự ở đây còn nhiều bất cập và chưa được làm rõ.

22

Title 771 (34) of the Tariff Act of 1930 update on 29/9/2015.


15
Tuy nhiên, ta có thể tham khảo một số tiêu chí xác định hàng hóa là sản phẩm tương
tự với hàng hóa khác từ pháp luật một số thành viên WTO như Hoa Kỳ, Liên minh
Châu Âu, Việt Nam. Theo đó, các thành viên này đã sử dụng một số đặc điểm như:
- Tính năng, cơng dụng của sản phẩm là nhóm tính chất quyết định giá trị
sử dụng của sản phẩm nhằm thỏa mãn một yêu cầu nào đó trong những điều kiện
xác định phù hợp với tên gọi của sản phẩm hàng hóa. Hai sản phẩm có cùng công
dụng tức cùng thỏa mãn một yêu cầu sử dụng có thể coi là tương tự nhau. Ví dụ:
một chiết điện thoại có chức năng chụp ảnh và chiếc máy ảnh chỉ có chức năng
chụp ảnh vẫn có thể xem là sản phẩm tương tự nhau do có cùng tính năng, công
dụng chụp ảnh.
- Đặc điểm kỹ thuật, công nghệ của sản phẩm là nhóm đặc tính quan trọng
nhất trong việc thẩm định, lựa chọn, nghiên cứu cải tiến, thiết kế sản phẩm mới.
Đây là đặc tính mang tính đa dạng, phong phú và có quan hệ hữu cơ với đặc tính về
cơng nghệ của sản phẩm. Việc nghiên cứu các đặc tính kỹ thuật giúp ta hiểu được
các phương pháp cơng nghệ, quy trình cơng nghệ chế tạo nên sản phẩm. Mặt khác,
đặc tính này quyết định chất lượng sản phẩm như cấu trúc, kích thước, các thơng số
kỹ thuật, độ bền, độ tin cậy… Với sản phẩm có cùng quy trình cơng nghệ sản xuất
dẫn đến yếu tố kỹ thuật giống nhau thì có khả năng được xem là tương tự nhau. Ví
dụ: Ví dụ: một chiếc điện thoại sử dụng cơng nghệ chụp ảnh thơng thường có thể
không được xem là tương tự với chiếc máy ảnh DSLR, tuy nhiên một chiếc điện

thoại cao cấp, sử dụng công nghệ tự động lấy nét và hấp thụ sáng giống như công
nghệ được dùng để chế tạo chiếc máy ảnh DSLR thì vânc có thể xem là tương tự
với máy ảnh đó.
- Các đặc tính vật lý của sản phẩm là các đặc điểm định dạng vật chất và
chuyển động của sản phẩm bao gồm các yếu tố: hình dạng, khối lượng, kích thước,
màu sắc, mùi vị, âm thanh… Thơng thường những đặc tính này được xác định thơng
qua hoạt động quan sát, thực nghiệm đơn giản để khiến các sản phẩm này thể hiện
các đặc tính vật lý của mình rồi tác động tới các giác quan của con người giúp ta nhận
thức được đặc tính của chúng. Cho nên khi các sản phẩm có những đặc tính vật lý
giống nhau ta cũng khó lịng nhận thấy được chúng có thể cịn khác nhau ở những
đặc điểm nào khác nếu khơng có q trình nghiên cứu sâu sắc, khoa học hơn. Ví dụ:
thiết kế bo trịn và siêu mỏng trên các dịng điện thoại khác nhau có khả năng làm
tăng thị hiếu, ảnh hưởng đến sự lựa chọn của khách hàng, vì vậy tuy các sản phẩm này
có cơng nghệ, tính năng và giá khác nhau nhưng vẫn có thể được xem là tương tự nhau.


16
-

Các nguyên liệu thô được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm. Đây là tiêu

chí có liên hệ mật thiết với yếu tố công nghệ, kỹ thuật sản xuất ra sản phẩm. Nhưng
nếu những sản phẩm được sản xuất từ các ngun liệu hồn tồn giống nhau rất có
thể cho ra thành phẩm tương tự nhau và chắc chắn là chúng tương tự nhau khi cùng
một công nghệ sản xuất. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa trên nguyên liệu thô chủ yếu mà
khơng xét các phụ gia khác thì rất có khả năng cho ra hai sản phẩm khác nhau. Ví dụ
như đường và bột ngọt đều được làm từ mía. Nhưng chúng là hai sản phẩm khác
nhau bởi yếu tố quyết định là tính năng, cơng dụng là khác nhau.
- Khả năng thay thế cho nhau là việc hai sản phẩm tương đương về công
dụng khi ở các điều kiện khác nhau có thể thay thế cho nhau. Đây là đặc tính phụ

thuộc hồn tồn vào cơng dụng của hai sản phẩm, nếu chúng không cùng thỏa mãn
một nhu cầu sử dụng thì cũng khơng thể thay thế cho nhau. Tuy nhiên, chúng có thể
khác nhau về chất lượng sản phẩm, đặc tính vật lý cũng như giá cả. Ví dụ: Sữa đặc có
thể thay thế cho sữa tươi dù sữa đặc chất lượng kém hơn và giá thành rẻ hơn.
1.1.3. Cơ sở xác định sản phẩm tương tự
WTO được thành lập và hoạt động từ 01/01/1995 với mục tiêu thiết lập và
duy trì một nền thương mại tồn cầu tự do, thuận lợi và minh bạch. 23 Đây là kết quả
mong đợi sau nhiều vòng đàm phán kể từ khi ITO không thể thành lập do Hoa Kỳ
không thơng qua Hiến chương La Havana, thay vào đó là việc hình thành nên
GATT 194724, trải qua nhiều vịng đàm phán mà trực tiếp là vòng đàm phán
Uruguay. WTO điều chỉnh ba mảng nội dung lớn là thương mại hàng hóa, thương
mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ.
Như vậy có thể nói GATT 1947 là tiền thân của WTO, các quy định GATT
1994 cũng kế thừa phần lớn những quy định của GATT 1947. Trong đó, quy định
về chống bán phá giá đã được cụ thể hóa bằng Hiệp định ADA.
Thuật ngữ sản phẩm tương tự được xuất hiện trong nhiều điều khoản của
GATT 1994 như Điều I (1), III (2,4), VI (1.a và 1.b), XIII (1), XIX (1), IX (1)... 25).
Thông thường, sản phẩm tương tự được chia thành hai nhóm: (1) Điều I và Điều III
của GATT 1994 liên quan đến việc cấm đoán chế độ đối xử khác biệt giữa các sản
23

Giới thiệu WTO: truy cập ngày 14/6/2015.
Raj Bhala (2001), Luật thương mại quốc tế: những vấn đề lý luận và thực tiễn – tái bản lần thứ hai, NXB
Tư pháp, Hà Nội, trang 68 – 69.
25
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình luật thương mại quốc tế - Phần 1, NXB
Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, trang 106.
24



17
phẩm nhập khẩu với nhau và giữa sản phẩm nhập khẩu với sản phẩm được sản xuất
bởi thành viên nhập khẩu và (2) Điều VI của GATT 1994 liên quan đến hàng nhập
khẩu cạnh tranh không lành mạnh.26
Đặc biệt, trong lĩnh vực bán phá giá, theo Điều 2.6 ADA, sản phẩm tương tự
được định nghĩa là “sản phẩm giống hệt (ví dụ: giống sản phẩm bị điều tra ở tất cả
các lĩnh vực), hoặc trong trường hợp khơng có sản phẩm như vậy, một sản phẩm
khác, mặc dù không giống sản phẩm bị điều tra ở tất cả các lĩnh vực, có nhiều đặc
điểm gần giống với các đặc điểm của sản phẩm điều tra”.
Định nghĩa này đã làm rõ được yêu cầu cơ bản trong việc xác định yếu tố
tương tự; (1) sản phẩm giống hệt hoặc (2) sản phẩm có nhiều đặc điểm giống với sản
phẩm điều tra nếu khơng có sản phẩm giống hệt. Tuy nhiên, nó vẫn chưa giải quyết
được liệu rằng cơ quan có thẩm quyền của WTO và các nước thành viên có thể căn
cứ chỉ vào một tiêu chí nào đó để xác định sản phẩm tương tự hay khơng?27 Nếu
khơng có một tiêu chí duy nhất thì nhiều tiêu chí sẽ là bao nhiêu tiêu chí và cụ thể bao
gồm những tiêu chí gì, và thứ tự ưu tiên áp dụng sẽ như thế nào?
Trong thực tế, việc xác định sản phẩm tương tự là hồn tồn do cơ quan có
thẩm quyền của quốc gia nhập khẩu quyết định và do đó, các thành viên khơng ít lần
tranh cãi với nhau về việc xác định sản phẩm tương tự như vụ kiện DS8, DS10, DS11
về sản phẩm đồ uống có cồn giữa Nhật Bản với một số nước hay là vụ kiện số DS141
về sản phẩm khăn trải giường loại coton28. Hoặc các vụ khác liên quan đến Điều 2.6
ADA được thống kê tại Phụ lục II, tùy từng vụ việc có sự tham gia của Ban Hội thẩm
và Cơ quan phúc thẩm của WTO, các cơ quan này thường trích dẫn nhận xét về sản
phẩm tương tự của Báo cáo năm 1970 như sau: “sản phẩm tương tự được xác định
trên cơ sở của vụ việc cụ thể, có thể căn cứ vào mục đích sử dụng cuối cùng của sản
phẩm tại thị trường nhất định nào đó; căn cứ vào thói quen và thị hiếu của người tiêu
dung – thay đổi theo từng quốc gia khác nhau; đặc điểm cấu tạo, bản chất và chất
lượng của sản phẩm”29.

26


Robert E.Hudec, “Like product: the differences in meaning in GATT I and III”, in Regulatory Barriers and
the Principles of non-discrimination in World Trade Law”, page 103.
27
Won – Mog Choi (2003), Like products in International Trade Law Towards a Consistent GATT/WTO
Jurisprudence, Oxford University Press, Oxford, England, page 13.
28
Report of the Panel No. WT/DS141/R on 30 October 2000.
29
BISD, 18th Supp, trang 101-102, 1972.


18
Việc điều tra áp thuế chống bán phá giá theo quy định tại ADA có liên quan
đến việc xác định sản phẩm tương tự là sản phẩm nội địa của nước xuất khẩu với
sản phẩm bị điều tra để xác định giá trị thông thường của sản phẩm và các mục đích
khác có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình điều tra; và sản phẩm tương
tự là sản phẩm nội địa của nước nhập khẩu với sản phẩm bị điều tra, thơng qua đó
xác định thiệt hại đối với ngành sản xuất những sản phẩm tương tự tại nước nhập
khẩu và mối quan hệ nhân quả của hành vi bán phá giá với thiệt hại nêu trên. Theo
định nghĩa tại Điều 2.6 ADA, sản phẩm tương tự được hiểu là “sản phẩm giống hệt,
tức là sản phẩm có tất cả các đặc tính giống với sản phẩm đang được xem xét, hoặc
trong trường hợp khơng có sản phẩm nào giống như vậy thì là sản phẩm khác mặc
dù khơng giống ở mọi đặc tính nhưng có nhiều điểm gần giống với sản phẩm đang
được xem xét”. Thực tế thì những sản phẩm được xem là sản phẩm tương tự của
nhau thường được xếp vào cùng một loại mã HS trong phân loại hàng hóa của hải
quan (thường giống nhau về đặc tính vật lý, hóa học, mục đích sử dụng, khả năng
thay thế từ gốc độ người tiêu dùng …). Tuy nhiên trong mỗi nhóm sản phẩm lại có
nhiều loại, nhiều hình thức, mẫu mã, kiểu dáng khác nhau. Nếu các loại, với mẫu
mã, kiểu dáng sản phẩm có những khác biệt ảnh hưởng đáng kể đến giá thành hay

chi phí sản xuất của sản phẩm đó thì có thể khơng được xem là sản phẩm tương tự
theo cách hiểu của ADA.
1.1.4. Thẩm quyền xác định sản phẩm tương tự
Điều tra chống bán phá giá do cơ quan có thẩm quyền điều tra thực hiện.
Việc xác định sản phẩm tương tự là một phần của quá trình điều tra chống bán phá
giá. Vì vậy, thẩm quyền xác định sản phẩm tương tự trong điều tra chống bán phá
giá thuộc về cơ quan điều tra chống bán phá giá. Hiệp định của WTO về chống bán
phá giá không quy định về hình thức tổ chức cơ quan chống bán phá giá của các
quốc gia thành viên. ADA chỉ quy định thủ tục thụ lý và tiến hành điều tra tại Điều
5 của Hiệp định. Theo đó, một cuộc điều tra để quyết định xem thực sự có tồn tại
việc bán phá giá không cũng như quyết định mức độ và ảnh hưởng của trường hợp
đang bị nghi ngờ là bán phá giá sẽ được bắt đầu khi có đơn yêu cầu bằng văn bản
của ngành sản xuất trong nước hoặc của người nhân danh cho ngành sản xuất trong
nước.30 Trong đơn yêu cầu, người nộp đơn sẽ miêu tả về số lượng và giá trị của sản

30

Điều 5.1 ADA.


19
phẩm tương tự mà người nộp đơn sản xuất trong nước.31 Các cơ quan có thẩm
quyền sẽ điều tra mức độ xác thực và đầy đủ của các bằng chứng được đưa ra tại
đơn yêu cầu để quyết định xem liệu đã có được các bằng chứng đầy đủ để bắt đầu
q trình điều tra hay khơng.32 Tức cơ quan có thẩm quyền điều tra sẽ đánh giá mọi
vấn đề trong đơn yêu cầu của người nộp đơn trong đó bao gồm mô tả sản phẩm
tương tự của họ để từ đó kết luận sản phẩm đó có tương tự hay khơng.
Bởi vì WTO khơng quy định hình thức tổ chức của cơ quan điều tra chống bán
phá giá cho nên mỗi quốc gia thành viên căn cứ vào tình hình thực tế và yêu cầu trong
nước để quy định hình thức tổ chức của cơ quan chống bán phá giá cho riêng mình.

1.2. Việc xác định sản phẩm tƣơng tự của Tổ chức Thƣơng mại thế giới qua
một số vụ kiện chống bán phá giá
Như đã đề cập ở phần trên, về mặt lý thuyết, thuật ngữ sản phẩm tương tự đã
được WTO nhắc đến nhiều lần trong các quy định của mình với ý nghĩa khác nhau.
Cụ thể, sản phẩm tương tự đã được định nghĩa tại Điều 2.6 ADA. Trong hiệp định
này, sản phẩm tương tự được định nghĩa tương đối giống nhau. Mặc dù được định
nghĩa tương đối giống nhau, tuy nhiên, cũng giống như các lần xuất hiện khác của
thuật ngữ sản phẩm tương tự trong các quy định khác của WTO, cách giải thích thuật
ngữ này giữa chúng khơng có sự liên kết rõ ràng nào. Điều này cho thấy định nghĩa
về sản phẩm tương tự theo quy định của WTO vẫn rất mơ hồ và gây rất nhiều khó
khăn cho các nước thành viên cũng như chính cơ quan giải quyết tranh chấp WTO.
Để hiểu rõ hơn về cách xác định và giải thích thuật ngữ sản phẩm tương tự
trong thủ tục điều tra chống bán phá giá của WTO, chúng ta sẽ xem xét quan điểm
của cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO khi tiến hành xác định và giải thích sản
phẩm tương tự trên thực tế. Qua đó có thể đưa ra cách nhận diện chung nhất về sản
phẩm tương tự theo quy định của WTO.
Trong lịch sử giải quyết tranh chấp của cơ quan giải quyết tranh chấp WTO,
có khá nhiều tiền lệ được cơ quan này đưa ra trong quá trình giải quyết tranh chấp
giữa các thành viên liên quan đến cách thức định nghĩa, xác định và giải thích sản
phẩm tương tự. Tác giả xin nêu và phân tích một số vụ việc tiêu biểu dưới đây mà
WTO đóng vai trị là cơ quan giải quyết tranh chấp để làm rõ quan điểm của WTO
trong việc xác định sản phẩm tương tự trong điều tra chống bán phá giá.
31
32

Điểm 1 Điều 5.2 ADA.
Điều 5.3 ADA.


20

1.2.1. Vụ DS312: Hàn Quốc - Thuế chống bán phá giá đối với giấy nhập khẩu
từ Indonesia
Trong lịch sử giải quyết tranh chấp của WTO, vụ kiện Hàn Quốc – Thuế
chống bán phá giá đối với giấy nhập khẩu từ Indonesia33 có thể xem là vụ kiện đầu
tiên giữa các thành viên liên quan trực tiếp đến cách xác định sản phẩm tương tự theo
Điều 2.6 ADA và đã được WTO kết luận.
Cụ thể, ngày 04/06/2004, Indonesia yêu cầu tham vấn với Hàn Quốc liên quan
đến các mức thuế chống bán phá giá chính thức mà Hàn Quốc áp dụng đối với giấy
nhắn công tác và giấy in không phủ bột (business information paper anduncoated
wood-free printing paper) nhập khẩu từ Indonesia và một số vấn đề của cuộc điều tra
dẫn đến việc áp đặt những mức thuế này. Theo Indonesia thì Hàn Quốc đã vi phạm
Điều 2.6 ADA khi xác định các sản phẩm giấy gỗ cuộn và lớn hơn và giấy photo
thường, nhỏ có đặc điểm khác nhau là tương tự với nhau. Cịn trong kết quả điều tra
phía Hàn Quốc thì khẳng định căn cứ vào định nghĩa về sản phẩm tương tự tại Điều
2.6 ADA thì hai sản phẩm này tương tự nhau.
Sau khi tham vấn không thành công, ngày 16/08/2004, Indonesia yêu cầu
WTO thành lập Ban Hội thẩm giải quyết tranh chấp. Ngày 25/10/2004, Ban Hội thẩm
được thành lập và bắt đầu làm việc. Tới ngày 28/10/2005, Ban Hội thẩm hoàn thành
Báo cáo giải quyết tranh chấp và gửi tới tất cả các thành viên WTO. Mặc dù trong
báo cáo của mình, Ban Hội thẩm đã khơng đưa ra giải thích về sản phẩm tương tự,
nhưng trong báo cáo này, Ban Hội thẩm đã có một số kết luận về sản phẩm tương tự
mang ý nghĩa rất lớn và là cơ sở để các thành viên có thể tham khảo, dẫn chiếu về
sau. Cụ thể, ủng hộ quan điểm của Hàn Quốc, Ban Hội thẩm đã đưa ra kết luận và
khuyến nghị các thành viên rằng:
(1) Các sản phẩm được lựa chọn trong nước chỉ cần tương tự với sản phẩm bị
điều tra, ADA không rằng buộc giữa chúng phải có sự tương đồng với nhau. Tức
tính tương tự ở đây có thể thuộc hai trường hợp đó là có sự tương đồng hoặc có
nhiều đặc điểm gần giống nhau. Hai sản phẩm tương tự không bắt buộc chỉ thuộc
trường hợp tuyệt đối là có tất cả các đặc tính giống nhau. Đây chính là quy định mở
giúp các nước thành viên có thể xác định sản phẩm tương tự trong hoạt động điều


33

Report of the Panel No. WT/DS312/R on 28 October 2005,
Report of the Panel No. WT/DS312/RW on 28 September 2007.


×