Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Một số giải pháp thu hút vốn FPI vào Việt Nam trong chiến lược phát triển đất nước đến năm 2020 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.64 KB, 11 trang )

Một số giải pháp thu hút vốn FPI vào Việt Nam trong chiến
lược phát triển đất nước đến năm 2020

Trên thế giới, nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng giữ vai trò quan trọng đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước, đặc biệt là với những nước đang
phát triển. Nguồn vốn này thường phân thành đầu tư trực tiếp (FDI), viện trợ phát
triển chính thức (ODA) và đầu tư gián tiếp (FPI), trong đó FPI được xem là một
kênh thu hút vốn quan trọng của thị trường tài chính. So với vốn đầu tư trực tiếp
thì vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam vẫn ở mức thấp, chỉ khoảng 2-
3% GDP. Vì thế, việc khơi thông và duy trì dòng vốn này là thực sự cần thiết.

Thực trạng thu hút dòng vốn gián tiếp vào Việt Nam
Ngay từ những năm đầu của thập niên 90, khi Việt Nam bắt đầu thực hiện chính
sách mở cửa nền kinh tế và cho ra đời Luật Công ty và Luật Đầu tư nước ngoài,
dòng vốn FPI đã được đổ vào Việt Nam. Đây được coi là làn sóng FPI thứ nhất
vào Việt Nam.
Trong giai đoạn 1991-2000, hoạt động đầu tư gián tiếp của các nhà đầu tư nước
ngoài (NĐTNN) ở mức độ rất khiêm tốn, chủ yếu là thông qua các quỹ đầu tư. Giai
đoạn này chỉ có khoảng 70 công ty cổ phần của Việt Nam có vốn đầu tư gián tiếp
với tổng số vốn khoảng 200 triệu USD. Hầu hết các tổ chức đầu tư nước ngoài đều
là những quỹ đầu tư nhỏ đã hoạt động lâu ở Việt Nam. Đến năm 1997, có 08 quỹ
đầu tư nước ngoài được thành lập với tổng số vốn được huy động khoảng trên 400
triệu USD. Đó là các quỹ: The Vietnam Fund Ltd; Beta Vietnam Fund; Beta
Mekong Fund; Vietnam Frontier Fund; Templeton Vietnam Opportunities Fund;
Vietnam Enterprise Investments Ltd; Lazard Vietnam Fund Ltd và Vietnam
Enterprise Investments Ltd “C share” issue. Và trong khoảng thời gian từ năm
1992-1997, 03 trong 08 số quỹ đã lần lượt chấm dứt hoạt động, giá cổ phiếu của 4
quỹ đầu tư còn lại sụt giảm và chỉ được giao dịch trên 43-48% giá trị tài sản ròng.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do thiếu thị trường đầu tư, bởi suốt từ
năm 1992-1998, cả nước chỉ có 38 doanh nghiệp tư nhân được thành lập và 128
doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa.


Thời kỳ khủng hoảng và hậu khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á (1998-2000),
các dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài đổ vào châu Á bị chững lại
và Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng chung của xu hướng này. Trong số 08 quỹ đầu
tư kể trên đã có 06 quỹ rút khỏi Việt Nam, 01 quỹ thu hẹp trên 90% quy mô quỹ,
chỉ còn duy nhất Quỹ Vietnam Enterprise Investments Ltd được thành lập 7/1995
với quy mô vốn 35 triệu USD (nhỏ nhất trong số 8 quỹ) là còn hoạt động. Suốt thời
gian này, hoạt động FPI ở Việt Nam hết sức mờ nhạt.
Những năm 2001-2009 chứng kiến sự phục hồi trở lại của dòng vốn FPI vào Việt
Nam. Sau 4 năm khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, làn sóng FPI thứ hai đã
được khởi động lại vào tháng 4/2002 với sự xuất hiện của quỹ Mekong Enterprise
Fund. Những nỗ lực và quyết tâm của Chính phủ trong cải cách kinh tế nói chung
và trong việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước nói riêng đã thổi một làn gió
mới vào các hoạt động đầu tư kể cả đầu tư trong nước, FDI và hoạt động FPI.
Hoạt động giao dịch của các NĐTNN tại Sở GDCK TP.HCM giai đoạn 2001-
2009

Năm
Khối lượng giao dịch (1 CK) Giá trị giao dịch (Tỷ đồng)
Toàn thị
trường
ĐTNN (mua)
ĐTNN
(bán)
Toàn thị
trường
ĐTNN
(mua)
ĐTNN
(bán)
2001

7.900.522 161.600 45.000 537 12,1 2,4
2002
35.715.939 3.699.979 867.979 958 107,2 25,2
2003
26.822.600 3.176.020 331.910 481 79,7 6,0
2004
72.894.288 13.497.910 2.364.495 1.970 452,9 65,0
2005
94.846.187 11.941.248 4.515.127 2.784 425,7 144,5
2006
246.080.058 32.638.357 8.169.511 7.267 1.089,8 245,4
2007
2.389.522.805 513.754.396 348.566.437 263.055 66.616,1 43.131,4
2008
3.404.397.430 592.773.623 526.263.995 152.580 38.045,6 30.928,5
2009
6.278.179.829 1.171.643.133 891.124.454 429.632
106.829,
2 74.548,5
Nguồn: Tổng hợp từ Website của Sở GDCK TP.HCM, .

Hoạt động giao dịch ngày càng sôi động của khối NĐTNN đã cho thấy sự quan
tâm của khối này đối với TTCK Việt Nam , đặc biệt vào năm 2007. Năm 2001,
khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch của khối này chỉ chiếm tương ứng là
2,62% và 2,69% so với giao dịch của toàn thị trường tại Sở GDCK TP. HCM thì
đến năm 2007, con số này tăng gấp 18-20 lần, tương ứng đạt 36,09% và 41,72%.
Điều này cho thấy sức hút mạnh mẽ của TTCK Việt Nam kể từ sau thời điểm Việt
Nam gia nhập WTO.
Tuy nhiên, bước sang năm 2008, do phải đối mặt với cuộc đại suy thoái kinh tế
toàn cầu, TTCK Việt Nam gặp phải sự sụt giảm khá sâu về giá trị của các cổ phiếu.

Do đó, tuy khối lượng giao dịch của các NĐTNN có tăng lên nhưng xét về giá trị
giao dịch thì sụt giảm khá nhiều so với năm 2007. Năm 2009, trái với những lo
ngại về dư âm của cuộc khủng hoảng, thị trường đã có sự khởi sắc trở lại cùng với
sự gia tăng về khối lượng và giá trị giao dịch của khối ngoại, lần lượt chiếm tương
ứng là 32,86% và 45,21% so với giao dịch của toàn thị trường.
Tỷ trọng quy mô giao dịch của NĐTNN tại Sở GDCK TP. HCM giai đoạn
2001-2009
Năm Tổng KLGD
của nhà ĐTNN
(1 CK)
Tỷ trọng
KLGD của nhà
ĐTNN
Tổng GTGD
của nhà ĐTNN
Tỷ trọng GTGD
của nhà ĐTNN
(%) (tỷ đồng) (%)
2001 206.600 2,62 14,5 2,69
2002 4.567.958 12,79 132,5 13,83
2003 3.507.930 13,08 85,7 17,82
2004 15.862.405 21,76 517,9 26,29
2005 16.456.375 17,35 570,2 20,48
2006 40.807.868 16,58 1.335,2 18,37
2007 862.320.833 36,09 109.747,5 41,72
2008 1.119.037.618 32,87 68.974,2 45,21
2009 2.062.767.587 32,86 181.377,7 42,22
Nguồn: Tổng hợp từ Website của Sở giao dịch TP.HCM

Quy mô dòng vốn đầu tư gián tiếp giai đoạn 2001-2007

Đơn vị: Tỷ USD
Chỉ
tiêu
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Vốn
FPI
0,02 0,03 0,07 0,17 1,19 1,9 6,3 5,7 5,2
Nguồn: Tổng hợp từ Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước
Trong giai đoạn 2001-2009, dòng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam đã có bước tăng trưởng
đáng kể, tăng mạnh nhất là năm 2007, đạt 6,3 tỷ USD. Dòng vốn FPI chảy mạnh vào Việt Nam
trong giai đoạn này chủ yếu là thông qua TTCK và bất động sản. FPI vào TTCK Việt Nam dần
dần gia tăng từ quý III/2006 đến quý I/2008. Trong thời kỳ này, lượng vốn FPI đổ vào thị trường
trái phiếu chiếm ưu thế (chiếm khoảng 60% - 70%). FPI đã trở thành nguồn tài trợ chính cho
lượng thiếu hụt ngoại tệ của Việt Nam. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng dòng vốn FPI mang tính đầu
cơ cao và chảy mạnh vào Việt Nam với kỳ vọng mang lại lợi nhuận nhanh chóng vì thế, có thể
tạo nên rất nhiều bong bóng kinh tế.
Tỷ lệ FPI/FDI giai đoạn 2001-2009
Đơn vị: %
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Tỷ lệ
FPI/FDI
0,5 1,2 2,3 3,7 17,5 15,8 29,6 8.9 24,2
Nguồn: Tổng hợp từ Bộ Tài chính và tính toán.

Một số giải pháp thu hút và quản lý dòng vốn FPI
Thứ nhất, xây dựng và thực hiện chiến lược thu hút vốn và đầu tư có trọng điểm để
phát triển nền kinh tế
Thực tiễn phát triển TTCK Việt Nam (trong đó có việc thu hút đầu tư FPI) thời gian qua cho
thấy, sự lúng túng, bất cập trong hoạch định và thực hiện chiến lược, cũng như kế hoạch phát
triển TTCK nói chung và thu hút FPI nói riêng. Trong 15 - 20 năm tới, khi mục tiêu tăng trưởng

kinh tế đặt ra hàng năm là 8 - 8,5%, nhu cầu vốn sẽ rất lớn, trong khi kênh huy động vốn truyền
thống không thể đáp ứng được thì việc thu hút FPI là rất cần thiết. Và, việc định hướng nguồn
vốn này vào lĩnh vực gì để tạo nên sự bứt phá là điều vô cùng quan trọng. Bởi, trong điều kiện
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, của doanh nghiệp nói riêng còn kém, yếu tố công
nghệ còn nhiều bất cập, việc chọn hướng đầu tư đúng sẽ giúp Việt Nam rút ngắn thời gian, nhanh
chóng phát triển ngang bằng các nước trong khu vực. Lĩnh vực cần phải ưu tiên hàng đầu là đầu
tư cho công nghệ cao và đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Thực tế, việc này cũng đã có định
hướng của Chính phủ, song chưa có những chính sách khuyến khích thiết thực với những biện
pháp cụ thể có tính bứt phá nên chưa có sự phát triển mạnh mẽ. Tuy vậy, cũng cần hiểu rằng, đầu
tư vào khoa học công nghệ cao đòi hỏi nhiều vốn, thời gian thu hồi được vốn rất lâu, mức độ rủi
ro cao nên cần phải có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ tài chính đối với những nhà đầu tư tham
gia vào lĩnh vực này.
Thứ hai, tạo dựng hành lang pháp lý đầy đủ và đồng bộ để thu hút và quản lý
nguồn vốn này
Việc ban hành các văn bản pháp lý và cơ chế chính sách về FPI, trước hết là thể
chế FPI liên quan đến thị trường tài chính nói chung và đến nhà ĐTNN nói riêng
phải được chuẩn hóa với một môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, đảm bảo
quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư cũng như các chủ thể liên quan.
Ngoài ra, cần tiến hành rà soát, hoàn chỉnh các quy định hiện hành, so sánh với các
quy định của các tổ chức quốc tế, đặc biệt là các quy định của WTO cũng như
những cam kết song phương và đa phương của Việt Nam nhằm đảm bảo một hành
lang pháp lý an toàn, ổn định và dài hạn, tạo điều kiện tốt cho các dòng đầu tư gián
tiếp từ nước ngoài vào thị trường trong nước.
Thiết lập các quy định cụ thể về mua bán, sáp nhập, hợp nhất các doanh
nghiệp; quy định về việc chuyển nhượng vốn và dự án giữa các nhà đầu tư; quy
định về việc chuyển đổi từ hình thức đầu tư gián tiếp sang đầu tư trực tiếp với sự
tham gia quản lý điều hành của NĐTNN; quy định về thủ tục phá sản, tái cấu trúc
doanh nghiệp; quy định về quản lý ngoại hối và mức độ tự hóa tài khoản vốn; quy
định về việc kiểm soát các nguồn vốn vào và ra trong những tình huống đặc biệt
Đó là những quan hệ kinh tế chắc chắn sẽ nảy sinh trong quá trình thu hút và hoạt

động của các luồng vốn đầu tư gián tiếp ở nước ta. Vì vậy, cần phải được thể chế
hóa bằng luật pháp càng sớm càng tốt.
Thứ ba, tăng cường tính minh bạch của TTCK và các doanh nghiệp cổ phần
Trước hết, cần xây dựng, triển khai áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quản lý và
điều hành doanh nghiệp. Nhanh chóng ban hành quy chế về quản trị công ty niêm
yết trên TTCK, hệ thống công bố thông tin công khai theo các chuẩn mực quốc tế.
Đồng thời, áp dụng các chuẩn mực về thông lệ tốt nhất trong quản trị công ty, tạo
sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp tham gia TTCK. Các NĐTNN có tổ chức xem
quản trị công ty như một tiêu chuẩn cơ bản khi đưa ra quyết định đầu tư. Thông lệ
quản trị công ty tốt tạo ra tính hiệu quả của vốn đầu tư và hạn chế rủi ro. Vì vậy,
cần nâng cao nhận thức và xây dựng cơ chế bắt buộc các doanh nghiệp phải áp
dụng các chuẩn mực quản trị và điều hành, các bộ tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp
theo thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, cần phải có những cơ chế để đảm bảo sự thực
thi của các quy định này. Bản thân các quỹ đầu tư, công ty quản lý quỹ cũng phải
tuân thủ các quy định này.
Tiếp đến, cần có những biện pháp triển khai đồng bộ hệ thống chuẩn mực kinh tế
và kiểm toán mới vào thực tế, biến chúng trở thành văn hóa kinh doanh của từng
doanh nghiệp, làm cầu nối thông tin giữa TTCK trong nước và thị trường quốc tế,
tạo điều kiện thuận lợi cho các NĐTNN có đủ tự tin đầu tư vào Việt Nam. Hệ
thống kế toán và công bố thông tin hoàn thiện hơn sẽ giúp các NĐTNN đầu tư tốt
hơn. Đồng thời, các quy định và quy chế chuẩn hóa sẽ giúp hệ thống tài chính hiệu
quả hơn, đặc biệt là khả năng chịu đựng các cú sốc từ bên ngoài.
Thứ tư, xếp hạng tín nhiệm để thu hút đầu tư
Việt Nam cần phải coi định mức tín nhiệm như một công cụ hỗ trợ đầu tư, góp
phần tăng cường tính minh bạch, chất lượng của các công ty trong nước cũng như
mức độ tín nhiệm quốc gia của Việt Nam trong con mắt các nhà đầu tư quốc tế. Do
đó, cần có biện pháp thúc đẩy sự ra đời và hoạt động của các tổ chức phân hạng tín
nhiệm của Việt Nam. Nhà nước với vai trò “bà đỡ” cần đứng ra thành lập các tổ
chức phân hạng tín nhiệm. Sau một thời gian có thể chuyển đổi hình thức sở hữu
thành các công ty cổ phần hoạt động độc lập kết hợp với việc kêu gọi đầu tư với

mô hình 100% vốn nước ngoài hoặc kết hợp hỗn hợp các hình thức nêu trên
Trong điều kiện thị trường vốn Việt Nam còn nhỏ bé và định mức tín nhiệm còn là
một khái niệm hết sức mới mẻ thì các tổ chức định mức tín nhiệm ở Việt Nam chỉ
nên triển khai một số nghiệp vụ cơ bản, cần thiết cho sự phát triển của thị trường
vốn trong nước.Trước mắt, có 4 đối tượng cần được ưu tiên triển khai việc định
mức tín nhiệm:
Một là, xếp hạng các công cụ nợ dài hạn, bao gồm việc xếp hạng tổ chức phát
hành nợ dài hạn và xếp hạng đợt phát hành nợ dài hạn. Xếp hạng tổ chức phát hành
nợ liên quan tới việc đưa ra đánh giá chung về năng lực của tổ chức phát hành nợ,
của tổ chức bảo lãnh hoặc cung cấp các hỗ trợ tín dụng nhằm đáp ứng các cam kết
tài chính liên quan đến các nhà phát hành nợ hoạt động trên thị trường tài chính
Việt Nam. Còn xếp hạng đợt phát hành nợ dài hạn là việc đánh giá khả năng của
công ty hoàn trả vốn gốc và lãi vay.
Hai là, xếp hạng tiền gửi và khả năng tài chính của các ngân hàng thương mại
quốc doanh và thương mại cổ phần Việt Nam. Điều này liên quan tới khả năng của
một ngân hàng có thể đáp ứng đúng hạn các nghĩa vụ nợ của mình đối với các tổ
chức hoặc cá nhân gửi tiền trong và ngoài nước. Còn xếp hạng khả năng tài chính
của ngân hàng liên quan tới đặc tính an toàn và chất lượng hoạt động của một ngân
hàng, thường tính tới các yếu tố như các chỉ số tài chính cơ bản, giá trị mạng lưới
hoạt động, sự đa dạng hóa tài sản đầu tư và cả các yếu tố liên quan tới môi trường
hoạt động của ngân hàng, triển vọng của nền kinh tế
Ba là, xếp hạng các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn đã và đang tiến hành cổ
phần hóa, các doanh nghiệp đang niêm yết trên TTCK Việt Nam. Việc tiến hành
định mức tín nhiệm đối với các đối tượng này cần được coi là một điều kiện bắt
buộc nhằm bảo vệ công chúng đầu tư nói chung, vì đại bộ phận trong số họ còn
chưa có đầy đủ kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán.
Bốn là, xếp hạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) của Việt Nam. Hiện SMEs
chiếm tới 95% tổng số doanh nghiệp Việt Nam và được coi là khu vực có nhiều
tiềm năng phát triển xen lẫn rủi ro cao. Một trong những vấn đề nghiêm trọng cản
trở việc vay vốn ngân hàng cho đầu tư phát triển của khu vực SMEs chính là sự

thiếu minh bạch thông tin và thiếu những nguồn cung cấp thông tin đáng tin cậy về
tình hình tài chính của các SMEs. Vì thế, việc xếp hạng các SMEs được coi là một
bước đi quan trọng trong việc đem lại những lợi ích cho chính các SMEs cũng như
cho các tổ chức cho vay và sự phát triển nói chung của kinh tế Việt Nam.
Thứ năm, thực thi chính sách mở cửa thu hút vốn
Trước hết, cần tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến khuyến khích đầu tư
nước ngoài và đầu tư nói chung. Bao gồm: (1) Nới lỏng, tối đa hóa mức khống chế
tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán của các nhà đầu tư gián tiếp nước
ngoài trong các doanh nghiệp cổ phần Việt Nam hoạt động thuộc các ngành nghề,
lĩnh vực cho phép đầu tư 100% vốn trực tiếp nước ngoài; mở rộng tỷ lệ tham gia
của bên nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam trên nguyên tắc đảm bảo mặt
bằng chung về tỷ lệ tham gia giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. (2) Thu hẹp
đối tượng ngành nghề Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn hoặc nắm giữ cổ phần chi
phối. Nói cách khác, tiếp tục giảm nhanh các doanh nghiệp và lĩnh vực hạn chế đầu
tư nước ngoài (cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp), trong đó có lĩnh vực dịch vụ
trình độ cao như ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, điện lực, hàng không, công
nghệ thông tin và báo chí, điện ảnh. (3) Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa các DNNN
lớn và giảm thiểu tỉ lệ nắm giữ cổ phần của Nhà nước cũng như của các nhà đầu tư
sáng lập trong các doanh nghiệp này. (4) Rà soát điều chỉnh, hoàn thiện các quy
định liên quan về việc chuyển đổi giữa các loại hình, phương thức đầu tư (gián tiếp
- trực tiếp, công ty trách nhiệm hữu hạn - công ty cổ phần ) một cách thuận tiện,
nhanh chóng; về các quy định thủ tục mua - bán, sáp nhập doanh nghiệp và tài sản
doanh nghiệp; về việc chuyển nhượng dự án và chuyển nhượng vốn giữa các nhà
đầu tư (trong đó có sự chuyển nhượng giữa các nhà đầu tư trong nước và
NĐTNN). (5) Cần có chính sách ưu đãi đặc biệt (trước hết là chính sách thuế và
giảm chi phí đầu vào, chi phí vận hành) để phát triển các công ty cổ phần đa sở
hữu tổ chức theo quy mô tập đoàn kinh tế, công ty mẹ - con, hoạt động xuyên quốc
gia và các quỹ đầu tư, trong đó có quỹ đầu tư mạo hiểm và các quỹ đại chúng, các
quỹ đầu tư có vốn nước ngoài Đảm bảo sự liên thông và hội nhập các định chế và
quy tắc, tiêu chuẩn vận hành, chất lượng hàng hóa trên TTCK Việt Nam với các

yêu cầu, tiêu chuẩn và xu hướng hoạt động chung của thị trường vốn khu vực,
quốc tế.
Thứ nữa, phát triển các công ty quản lý quỹ, khuyến khích thành lập các công ty
liên doanh quản lý quỹ, lập văn phòng đại diện và cho phép lập chi nhánh công ty
quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam. Khuyến khích lập các quỹ đầu tư nước ngoài
để huy động vốn đầu tư vào thị trường Việt Nam. Đa dạng hoá các loại hình quỹ
đầu tư như quỹ đóng, quỹ mở, quỹ dạng hợp đồng, quỹ đầu tư là pháp nhân
Bên cạnh đó, thiết lập các chính sách bình đẳng về ưu đãi đầu tư, chính sách thuế,
phí, lệ phí giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chính phủ tiếp tục thực hiện
bảo hộ tài sản của các NĐTNN tại Việt Nam dưới mọi hình thức.
Đồng thời, tiếp tục thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vãng lai để tạo điều
kiện thu hút nguồn từ nước ngoài và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển các
nguồn thu nhập hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài. Ở đây hệ
thống ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát các giao dịch của
tài khoản vốn.
Ngoài ra, tăng cường an ninh của hệ thống tài chính, thực hiện kiểm soát các dòng
vốn khi cần thiết. Tăng cường phối hợp giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá
và chính sách thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài; đảm bảo sự phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan ngân hàng - tài chính - chứng khoán trong việc quản lý các
dòng vốn nhằm đảm bảo sự an toàn, vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài
chính. Vì dòng vốn đầu tư gián tiếp di chuyển giữa các quốc gia, các khu vực và
mang tính toàn cầu nên sự hợp tác, phối hợp trên không chỉ giới hạn trong nước mà
phải mang tính quốc tế liên quốc gia, liên thị trường thì mới có hiệu quả.
Thứ sáu, tạo sân chơi bình đẳng và tăng khả năng hấp thụ vốn FPI một cách hiệu
quả
Rõ ràng, khả năng thẩm thấu vốn đầu tư gián tiếp của khối các doanh nghiệp
nhà nước được cổ phần hoá còn rất mỏng trong khi đây lại là khu vực có tiềm năng
nhất. Vì thế, muốn tăng khả năng hấp thụ nguồn vốn FPI phục vụ phát triển kinh
tế, không có cách nào khác là phải đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh
nghiệp lớn. Đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm giữ cổ phần chi

phối, phải mạnh dạn bán cổ phần rộng rãi kể cả cho các NĐTNN để vừa thu hút
vốn từ bên ngoài, vừa là tiền đề để cải thiện tình trạng lãng phí, trì trệ, kém hiệu
quả của khối doanh nghiệp này. Song song với việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần
hóa, cần phải có biện pháp thúc đẩy các doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên sàn
giao dịch và phát triển hoạt động giao dịch thứ cấp trên TTCK Việt Nam. Đây sẽ là
kênh thu hút vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài chủ chốt trong tương lai khi
TTCK của Việt Nam phát triển hơn. Bởi, ưu tiên hàng đầu của các nhà đầu tư gián
tiếp nước ngoài là cổ phiếu của các công ty niêm yết, đặc biệt là các loại cổ phiếu
có tính thanh khoản cao. TTCK phát triển, sự đa dạng về chủng loại hàng hóa, quy
mô lớn về giá trị thị trường và tính thanh khoản cao của các loại chứng khoán hàng
hóa chắc chắn sẽ hấp dẫn các NĐTNN. Đó được xem là cầu nối hết sức quan trọng
giúp các NĐTNN có thể nhanh chóng tiếp cận được vốn trên thị trường đầu tư tiềm
năng của Việt Nam.
Đối với khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước, để có thể tăng khả năng hấp
thụ vốn FPI trong dài hạn, cần thiết phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư
nhân phát triển không những cả về số lượng, quy mô mà còn cả về trình độ quản
lý, kỹ năng giao thương và các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Đây cũng đồng thời là
xu hướng tất yếu khi gia nhập WTO.
Thứ bảy, điều tiết sự di chuyển của dòng vốn đầu tư gián tiếp
Để điều tiết được sự di chuyển của dòng vốn FPI, người ta có thể áp dụng
một loạt các chính sách khác nhau từ điều tiết tỷ giá hối đoái, thắt chặt tài chính và
kiểm soát vốn cho tới việc điều tiết thận trọng đối với hệ thống ngân hàng và xây
dựng hệ thống thu thập và xử lý thông tin về sự di chuyển vốn nước ngoài ra và
vào trong nước, bằng các biện pháp hành chính hoặc mang tính thị trường hoặc kết
hợp cả hai.
Việt Nam cần thận trọng trong việc thiết lập một hình thức điều tiết cụ thể (có thể
là công cụ tỷ giá, có thể là công cụ thuế ), song cần tránh gây ra sự hiểu lầm để
dẫn đến việc nhà đầu tư rút vốn ồ ạt, gây bất ổn cho thị trường tài chính.
Thứ bảy, tăng cường an ninh của hệ thống tài chính
Cần tăng cường sự vững chắc của hệ thống tài chính trong nước đảm bảo có khả

năng chống chọi những rủi ro, bất ổn gây ra từ các dòng vốn này thông qua việc
tăng dự trữ ngoại tệ của quốc gia, nâng cao chất lượng các khoản đầu tư và chất
lượng tài sản, phát triển các sản phẩm và các dịch vụ thị trường. Muốn vậy, cần
tăng cường phối hợp giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và chính sách thu
hút vốn FPI; nâng cao sự phối hợp giữa các cơ quan ngân hàng - tài chính - chứng
khoán trong việc quản lý các dòng vốn nhằm đảm bảo sự an toàn, vững chắc và
lành mạnh của hệ thống tài chính.
Bên cạnh đó, áp dụng các biện pháp kiểm soát các dòng vốn vào và dòng vốn ra
trong những trường hợp cần thiết nhằm giảm áp lực đối với tỷ giá thực tế, đối phó
với các biểu hiện méo mó của thị trường tài chính hoặc giảm tính dễ dịch chuyển
của vốn gây mất ổn định kinh tế.
Ngoài ra, việc quản lý rủi ro, bảo vệ tài sản khách hàng, tăng cường năng lực
quản trị công ty, quản lý các nhà đầu tư quốc tế cũng như năng lực của hệ thống
quản lý nhằm đảm bảo khả năng giám sát và can thiệp khi cần thiết là những điều
rất quan trọng cho việc đảm bảo an toàn của thị trường.
Các biện pháp nêu trên liên quan đến nhiều lĩnh vực từ hoàn thiện khuôn khổ pháp
lý, đến ban hành thể chế, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát Để thu hút FPI
có hiệu quả, và quản lý được nguồn vốn này cần sự nỗ lực cao của nhiều Bộ, ngành
trên cơ sở nhận thức rõ rằng: hiệu quả của FPI luôn đi kèm những thách thức nảy
sinh từ chính FPI.

×