Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Cải thiện chất lượng nước từ ao cá chảy vào đường nước " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.3 KB, 31 trang )

Báo cáo kỹ thuật (CARD 023/06 VIE)

Cải thiện chất lượng nước từ ao cá chảy vào đường nước


Cao văn Phụng
1
và Bell R.W.
2

1. Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long, huyện Thới Lai, TP. Cần Thơ, Vietnam. Email:

2. School of Environmental Science, Murdoch University, Murdoch 6150, Australia.


Tóm lược
Ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt Nam, chất lượng nước là cực kỳ quan trọng
cho sức khỏe con người và hạnh phúc cũng như cho hệ sinh thái. Nuôi cá da trơn ở ĐBSCL
hầu như giới hạn ở các tỉnh An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp và Vĩnh Long, được xem như là
nguồn gây ô nhiễm nước ở các tỉnh này. Một cuộc điều tra trên 240 nông dân nuôi cá ở tỉnh
An Giang và thành ph
ố Cần Thơ, và của nông dân nuôi cá Trê ở Cần Thơ khẳng định rằng
việc xả chất thải lỏng và rắn ra nguồn nước cộng đồng có hơn 75% trường hợp vào sông rạch.
Những người dân dùng nước ở các khu vực này nơi có các ao nuôi cá cho rằng nước thải từ
các ao nuôi cá là nguyên nhân chính làm giảm chất lượng nước. Mẫu nước được thu ở 2 nơi
xả thải của tỉnh An Giang trong 5 tháng khẳng đị
nh rằng việc xả thải làm cho nước kênh vượt
các tiêu chuẩn xả thải về COD, TSS và NH
4
. Tuy nhiên, ngay cả mức chất lượng nền tảng
trước cũng thường trên mức ấn định để sử dụng cho sinh hoạt. Hai nghiên cứu tình huống cho


thấy khi đưa nước thải ao nuôi ca Trê qua ruộng lúa hoặc nước có chứa chất thải ao nuôi cá
Trê đi qua ruộng lúa thì chất lượng nước được cải thiện về cơ bản, bằng cách giảm được về
cơ bản TSS, COD, BOD, N và P. Cùng với chứng cứ là ch
ất thải ao nuôi cá có thể thay thế
được một phần nhu cầu phân bón dùng cho lúa, các kết quả này cho thấy tái chế chất thải rắn
và nước thải từ ao nuôi cá có thể thúc đẩy một kỹ thuật hữu hiệu dể cải thiện chất lượng nước
cho cộng đồng. Mới đây việc giảm mật độ ao nuôi cá ở vùng ĐBSCL, do lợi tức thấp, có thể
có tác động tốt cho chất lượng n
ước.

1
Corresponding author Cuu Long Rice Research Institute, O’Mon district, Cantho city-Vietnam. Phone No (84)
710861452. Fax: (84) 710861457. Email:
Nội dung

• Dẫn nhập
• Điều tra cơ bản
• Chất lượng nước trong kênh nhận chất thải từ ao nuôi cá
• Nghiên cứu chất lượng nước trong hệ thống VAC
• Chất lượng nước sau khi qua ruộng lúa
• Ruộng lúa tải chất thải ao cá
• Khuôn khổ chiến lược để xác định áp dụng chất thải ao cá

Dẫn nhập
Mục tiêu chính của dự án này là tìm ra phương pháp hữu hiệu để làm giảm ô nhiễm nước do
chất xả thải từ ao nuôi cá. Trong các báo cáo khác, việc xử lý nước và chất thải rắn đã được
nghên cứu (Cao et al. 2010a,b). Trong báo cáo này, nhấn mạnh vào chất lượng nước trong ao
cá và trong nước bị ảnh hưởng do xả thải. Báo cáo xem vấn đề chất lượng nước gắn liền với
cá Tra cũng như cá Trê nuôi trong hệ th
ống VAC.

Trong báo cáo này, kết quả của điều tra cơ bản được đùng để chứng minh dạng của ô nhiễm
nước do chất xả thải từ ao nuôi cá Tra theo cách nhìn của nông dân và còn do lấy mẫu trên
đồng ruộng ở tại 2 địa điểm.
Mẫu nước thu thập được dùng để xác định hiệu quả của xử lý nước bằng cách tái chế qua
ruộng lúa. Sau cùng có thảo luwjn về nguyên tắc dự kiế
n cho việc áp dụng để xử lý nước
trong tương lai bằng cách xả thải qua ruộng lúa.
Điều tra cơ bản ở Cần Thơ và An Giang
Điều tra được tiến hành vào tháng 10 và tháng 11 năm 2007 ở Cần Thơ và vào tháng Giêng
và tháng Hai năm 2008 ở tỉnh An Giang. Trong tổng số 240 phiếu phỏng vấn hoàn tất do các
bên có liên quan (nông dân trồng lúa và nông dân nuôi cá được chọn ngẫu nhiên với số lượng
bằng nhau) được thu thập (2 huyện/tỉnh) (Bảng 1, 2). Kết qu
ả điều tra cơ bản được báo cáo
đầy đủ vào tháng Tư năm 2009 (Cao et al. 2009). Kết quả chính của nghiên cứu này được
thảo luận bên dưới để nêu bật mối quan tâm chính về chất lượng nước như các nông dân
nông dân nhận thức. Thêm vào đó, kết quả điều tra báo cáo về tình hình lan tràn bệnh trên cá
và trên người mà chúng có thể là dấu hiệu cho sự ô nhiễm.
Chất lượng nước
Nhìn chung khoảng phân nửa số nông dân hài lòng về
chất lượng nước và 15-24 % cho rằng
chất lượng nước kém. Chỉ có 5-8 % nông dân nuôi cá có ao lắng riêng và đa số họ thải trực
tiếp chất thải vào kênh rạch mà không qua xử lý. Phan et al. (2009) trong cuộc điều tra 89 trại
nuôi cá dọc theo sông ở DDBSCL thấy chỉ có 3 % nông dân cho biết là có ao lắng riêng. Tuy
nhiên 15-24 % nông dân nuôi cá trong nghiên cứu này xử dụng ruộng lúa làm nơi xả thải.
Chất thải ao cá được nhìn nhận là tác nhân chính gây ô nhiễm ở An Giang trong khi ở Cần
Thơ 37 % trả lời cho r
ằng ao cá Tra là nguyên nhân chính làm cho chất lượng nguồn nước
kém. Một phần cho lý do có sự khác biệt này là do 50 % của người được phỏng vấn ở An
Giang sử dụng nước sông cho mục đích sinh hoạt trong khi có một tỉ lệ hộ tương tụ ở Cần
Thơ sử dụng nước giếng khoan (Cao et al. 2009). Nông dân cũng quan tâm đến hiểm họa cho

việc nuôi cá do thuốc trừ sâu thải ra từ ruộng lúa.
Loại thức ăn và các phụ li
ệu cung cấp cho cá làm ảnh hưởng đến chất lượng nước. Ở thành
phố cần Thơ phần lớn nông dân nuôi cá bằng thức ăn viên trong khi ở An Giang hầu hết nông
dân tự chế thức ăn (Bảng 3). Cả hai nơi bổ sung trong thức ăn với các loại vitamins, enzymes
và khoáng. Theo De Silva et al. (2010) thức ăn tự chế làm gia tăng P thải ra chứ không phải
N so với thức ăn viên.
Bảng 1. Nhận thức của nông dân về chất lượng nước mặt gần nhà và việc thực hành xả thải
hiện nay của các nông dân nuôi cá Tra. Giá trị tính theo % của người được phỏng vấn trong
đó N=60 là số người trong 4 nhóm trả lời.
Cần Thơ An Giang
Danh mục
Nuôi cá Trồng lúa Nuôi cá Trồng lúa
Chất lượng nước (%)
- Tốt
- Trung bình
- Xấu

30
52
18

55
22
23

51
25
24


46
39
15
Nước xả thải
- Sông hoặc kênh
- Ruộng lúa
- Ao lắng

80
15
5

100

68
24
8

100

Bảng 2: Lý do làm xấu chất lượng nước dùng để tưới tiêu và cho sinh hoạt gia đình theo nông
dân trồng lúa và nuôi cá. Giá trị tính theo % của người trả lời ở mỗi tỉnh.
Danh mục An Giang (%) Cần Thơ (%)
Chất thải từ ao cá 91 37
Thuốc trừ sâu từ ruộng lúa 9 15
Khác 0 48

Để xử lý nước ao nuôi cá, gần 50 % nông dân ở hai nơi sử dụng Vikong, BKC, Bioca, Yucca,
Aquapure, Prawbac và một số các chất khác (Bảng 4). Họ cũng sử dụng kháng sinh để chủ trị
các bệnh do vi khuẩn gây ra trong đường tiêu hóa của cá Tra. Một số thuốc kháng sinh thông

thường được sử dụng để trị bệnh đường tiêu hóa cho cá Tra như Amoxycilline, Cotrim,
Penicilline, Kanamycine, Oxamet, Tetracylline.được sử dụng để trộn vào thức ăn ở An Giang
(96 %) hoặc hòa vào nước trực tiếp 40% nông dân ở
Cần Thơ. Hầu như tất cả nông dân đều
sử dụng thuốc kháng sinh ở liều lượng được khuyến cáo.
Để trừ rong tảo trong ao nuôi cá, 93 % nông dân ở Cần Thơ và khoảng 66 % ở tỉnh An Giang
dùng copper sulphate, BKC, Vikong, Chlorine, jucca và ngay cả muối ăn và vôi bột (Bảng 4).
Điều đáng ghi nhận là chất thải rắn ao nuôi cá thường có shuwas một lượng đánh kể Cu
nhưng không đến mức dư thừa (Bảng 14). Trong số các hóa chấ
t sử dụng, BKC và chlorine là
phổ biến nhất cho cả hai nơi An Giang và Cần Thơ.
Bảng 3: Đặc tính của thức ăn và phụ gia được sử dụng trong nông trại nuôi cá Tra. Giá trị
theo % của người trả lời phỏng vấn N= 60 tại mỗi tỉnh.
Danh mục Cần Thơ An Giang
Loại thức ăn (%)
Viên (Công nghiệp) 55 27
Bánh (thức ăn tự chế) 37 58
Hổn hợp (viên+bánh) 8 15
Sử dụng phụ gia 88 66
Loại chất bổ sung
Vitamins 64 69
Enzyme 57 74
Khoáng 23 36

Bảng 4: Hóa chất sử dụng để xử lý nước ở trại nuôi cá Tra. Giá trị theo % của người trả lời
với N= 60 ở mỗi tỉnh.
Danh mục Cần Thơ An Giang
Sản phẩm sinh học (%) 48 43
Kháng sinh (%) 72 54
Trộn vào thức ăn 60 96

Hòa vào nước ao nuôi cá 40 4
Xử lý nước 97 100
BKC 21 28
Vikong 43 5
Copper sulfate 7 8
Chlorine 21 10
Khác 8 49

Hầu hết nông dân thường rải vôi hoặc muối ăn dọc bờ ao và đáy ao nuôi sau khi lập ao mới
hoặc sên ao sau khi thu hoạch. Lượng vôi và muối biến thiên từ 300-400 kg/ ha. Ao được
phơi khô trong 3-5 ngày trước khi cho nước vào để nuôi vụ kế tiếp. Có hơn 95 % nông dân
thay và/ hoặc châm thêm nước vào ao thường xuyên (khoảng 1/3 thể tích ao hàng ngày) và có
khoảng 50 % nông dân ở cả hai nơi thực hành vệ sinh đáy ao bằng cách bơm bùn ngoài trong
lúc nuôi cá. Thêm vào đó, tất cả nông dân đều bơm bùn ra khỏi ao sau khi thu hoạ
ch cá
(Bảng 5). Thực hành bơm chất thải rắn trực tiếp vào nguồn nước được 63-70 % nông dân
nuôi cá thực hiện (Bảng 6).
Hầu hết nông dân đều có máy đo pH cầm tay để giám sat chất lượng nước (Bảng 5). Cách
khác để phát hiện chất lượng nước bằng cách quan sát màu hoặc mùi nước. Nông dân kết
luận rằng thiếu oxygen khi hầu hết cá nổi lên mặt ao ravào sáng sớm.
Bảng 5: Quản lý nước trong ao nuôi cá Tra. Giá trị theo % của người tr
ả lời với N= 60 ở
mỗi tỉnh.
Danh mục Cần Thơ An Giang
Thay nước ao cá (%) 100 100
Xử lý vôi (kg/ha) 425 350
Muối (kg/ha) 325 300
Sên ao (%) 100 100
Phơi ao (ngày) 3.5 4
Châm thêm nước hoặc thay nước định

kỳ (%)
98 100
Lượng nước châm thêm hoặc thay 1/3 1/3
Chất lượng nước

pH 95 90
Màu và mùi 8 12
NH
3
và Oxygen 62 65

Nông dân nuôi cá thường vét sạch chát thải hữu cơ trong ao cá để ngăn ngừa bệnh lây lan cho
cá (Bảng 6). Số liệu điều tra cho thấy hầu hết bùn được thải trực tiếp ra đường nước (63 %),
các cách sử dụng bùn khác như để lấp chổ trủng hoặc tôn gốc cây ăn trái (37 %). Bơm bùn ra
từ 1 hoặc 2 lần (97 %), nhưng có khi hơn 2 lần là không phổ biến. Bơm bùn thường bằng
máy bơm đáy ao (86%) hoặ
c bơm nước ra rồi vét bùn bằng tay (14 %)
Bệnh cá
Như đã cho thấy ở trên, hầu hết nông dân được phỏng vấn ở Cần Thơ và An Giang đều xả
thải trực tiếp vào sông rạch . Việc xả chất thải từ ao cá có lẻ là nguyên nhân làm lây lan dịch
bệnh cho các ao lân cận. Trong điều tra cơ bản, nông dân ở Cần Thơ và An Giang cho biết là
bệnh cá thường hiện hữu ở hai tỉnh này (Bảng 7). Hơ
n 65-73 % nông dân nuôi cá có kinh
nghiệm nhận diện triệu chứng bệnh xuất huyết hoặc phù đầu cá Tra, đặc biệt ở giai đoạn còn
nhỏ.
Ở các huyện Châu Phú, Phú Tân, Thốt Nốt và Cần Thơ nơi có mật độ ao nuôi tương đối cao
so với diện tích tự nhiên, thường ở các nơi dễ tiếp cận với nước sông hoặc kênh chính. Tất cả
các ao dọc theo kênh hoặc sông lấy nước cho ao cá Tra từ một nguồn n
ước chung. Như vậy,
vi sinh vật gây bệnh có thể sản sàng lây lan từ người này sang người khác. Việc phát tán bệnh

–do vi sinh vật trong kênh rạch không được khảo sát trong nghiên cứu này, mặc dù việc phát
tán chất rắn lơ lững trong chất thải tối thiểu là 600 m từ điểm xả thải. Trong khi nông dân cho
biết thường có biện pháp hữu hiệu để kiểm soát các loài dịch bệnh chính, giảm thiểu sự lây
lan bệnh tật bằng chất l
ượng nước tốt hơn có lẻ là kết quả của biện pháp xử lý chất thải ao
nuôi cá hiệu quả hơn.
Bảng 6: Quản lý chất thải rắn ở trại nuôi cá Tra. Giá trị theo % của người trả lời phỏng vấn
với N= 60 ở mỗi tỉnh.
Danh mục Cần Thơ An Giang
Mục đích của vét bùn
Vệ sinh 51 65
Kierm soát dịch bệnh 46 35
Phương pháp vét bùn

Bơm bùn 86 89
Vét bằng tay 14 11
Nơi thải bùn
Đường nước 70 63
Lấp chổ trũng 30
Tôn gốc cây ăn trái 37
Sô lần vét bùn

Một lần 37 35
Hai lần 60 59
Ba lần 3 6
Thời điểm nạo vét bùn

Trong khi nuôi cá (%) 50 50
Sau khi thu hoạch 60 75


Tường trình về bệnh trên ngườido ô nhiễm:
Khảo sát về bệnh trên người do ô nhiễm được hoàn tất ở huyện Ô Môn và Thốt Nốt của TP.
Cần Thơ và ở huyện Châu Phú và Phú Tân tỉnh An Giang. Theo số liệu thu thập được từ
Trung tâm Y tế Dự phòng ở huyện Ô Môn và Thốt Nốt, trong năm 2006 và 2007 bệnh sốt
xuất huyết gia tăng. Bệnh này lại xảy ra vào cuối năm 2008 chủ yếu ở miề
n Nam Việt Nam,
tình rất nghiêm trọng ở hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp (Cục Y Tế Dự Phòng – MOH Việt
Nam, 2008). Số liệu trong Bảng 8 cũng cho thấy bệnh tiêu chảy vào năm 2007 vao hơn năm
2006.
Bệnh sốt xuất huyết, tiêu chảy và lỵ ở Phú Tân cao hơn ở Châu Phú và chúng có chiều hướng
gia tăng (Bảng 9). Dịch bệnh có liên quan đến hệ thống đê bao khép kín ở huyện Phú Tân nơi
mà mước kênh không thoát được. Như đã báo cáo trong kết qu
ả điều tra cơ bản, đa số nông
dân ở tỉnh An Giang (57 %) hiện vẫn còn dùng nước kênh rạch là nguồn cung cấp nước cho
cho gia đình sử dụng.
Bảng 7: Bệnh trên cá Tra, giai đoạn xuất hiện và biệm pháp phòng trừ. Giá trị tính theo %
của người trả lời N= 60 tại mỗi tỉnh.
Danh mục Cần Thơ An Giang
Triệu chứng

Xuất huyết 55 67
Phù đầu 10 6
Tuột nhớt 0.1 4
Giai đoạn xuất hiện

Cá giống tới 1 tháng 72 88
Từ 1-3 tháng 17 8
Hơn 3 tháng tuổi 11 4
Hiệu quả chữa trị


Xuất huyết 92 82
Phù đầu 77
Tuột nhớt 100

Trong khi không phải là số liệu chính, thông tin về chiều hướng bệnh trên người ở 2 huyện có
mật độ ao nuôi cá cao có lẻ liên quan đến sự mở rộng nhanh chóngao nuôi cá trong những
năm gần đây.

Bảng 8: Bệnh trên người theo báo cáo của Trung Tâm Y Tế Dự Phòng năm 2006 & 2007 tại
huyện Ô Môn và Thốt Nốt
Ô Môn Thốt Nốt
Bệnh
2006 2007 2006 2007
Sốt xuất huyết 179 237 246 546
Sốt thương hàn 2 0
Tiêu chảy 159 220 3210 2822
Bệnh lỵ 0 1 138 31

Bảng 9: Bệnh trên người theo báo cáo của Trung Tâm Y Tế Dự Phòng năm 2006 & 2007 tại
huyện Phú Tân và Châu Phú
Bệnh Phú Tân Châu Phú
2005 2006 2007 2005 2006 2007
Sốt xuất huyết 112 300 495 411 595 438
Sốt thương hàn 169 153 71
Tiêu chảy 752 957 1502 189 187 200
Bệnh lỵ 202 250 463 21 10

Chất lượng nước ở kenh nhận chất xả thải từ ao nuôi cá
Các địa điểm được chọn để thu mẫu nước là: huyện Châu Phú và Phú Tân ở tỉnh An Giang;
huyện Thốt Nốt ở Cần Thơ. Khu vực nghiên cứu có mật độ ao nuôi cá cao (Phan et al. 2009).

Việc thu mẫu nước cũng được tiến hành ở huyện Bình Thủy và Phong Điền gần TP Cần
Thơ, trên mô hình VAC.
Mẫu nước ở Châu Phú và Phú Tân trong mùa khô và mùa mư
a (đặc biệt ở mùa lũ) được thu
ở cống xả, 100 m ngược dòng và 100, 200, 300, 400 và 500 m xuôi dòng. Mẫu nước được đo
pH, EC, TSS, COD và NH
4
-N. Mẫu nước trong kênh được thu định kỳ 15 ngày/lần trong 5
tháng vào 2 thời điểm trước khi xả thải 1-2 giờ và sau khi xả thải (Tháng Mười hai đến tháng
Tư).
Số liệu trong hình 1 cho thấy pH nước trước khi mở cống cao hơn sau khi xả thải; tuy nhiên
chúng không khác biệt nhau (P < 0.05) trong cả hai mùa mưa và nắng. Trong mùa lũ, sự
khác biệtt của hai bộ số liệu còn nhỏ hơn là vào mùa nắng do yếu tố pha loãng trong lúc lũ
cao hơn nhiều (s
ố liệu không được trình bày). Tóm lại pH nước trong kênh sau khi xả thải
vẫn còn nằm trong giới hạn chấp nhận được cho nước dùng cho sinh hoạt (TCVN-5492-
2005).
Độ dẫn điện đo được sau khi mở cống xả thải cao hơn so với giá trị trước khi mở cống (Fig.
2). Tuy nhiên, trị số pH, EC của các lần thu mẫu trong mùa lũ là không khác biệt nhau có ý
nghĩa về thống kê.
Không giống như pH, nhưng tương tự như EC, tr
ị số trung bình của COD rất khác biệt nhau
qua phân tích thống kê trước và sau khi mở cống (Hình. 3). Sự gia tăng trị số COD hiện hữu
ngay cả khi mùa lũ. Trung bình, trị số COD giảm theo khoảng cách từ điểm xả thải. Tại điểm
500 m cách nơi xả thải, chúng chỉ vào khoảng một nửa nhưng vẫn còn cao hơn trị số trước
khi xả thải.








Hình 1: pH củ
a nước kênh trước và sau khi mở cống xả chất thải ao nuôi cá vào nguồn nước.
Giá trị trung bình cho 40 số được thu 15 ngày 1 lần trong 5 tháng (Tháng Mười Hai đến
tháng Tư) ở hai địa điểm của tỉnh An Giang (huyện Phú Tân và Châu Phú).


6.9
7
7.1
7.2
7.3
7.4
7.5
-100 0 100 200 300 400 500
m
pH
Before
After
0
50
100
150
200
250
300
350
-100 0 100 200 300 400 500

m
Ec (uS/cm)
Before
After

Hình 2: Độ dẫn điện (EC) của nước kênh trước và sau khi xả chất thải ao nuôi cá. Giá trị
trung bình cho 40 số được thu 15 ngày 1 lần trong 5 tháng (Tháng Mười Hai đến tháng Tư) ở
hai địa điểm của tỉnh An Giang (huyện Phú Tân và Châu Phú).

Thông thường COD của chất thải lỏng từ ao nuôi cá vượt trị số cho phép nước sử dụng cho
sinh hoạt (dưới10 mg/L) ngoại trừ trong mùa lũ (tháng Mười – tháng Giêng). Thật vậy, ngay
cả trị số
trong kênh chính trước và sau khi xả thải thường > 10 mg /L. Tất cả các trị số trước
avf sau khi xả thải vẫn nằm trong khoảng chấp nhận được cho chất thải thủy sản vào nguồn
nước (35 mg/L <COD<100 mg/L).

0
20
40
60
80
0 100 200 300 400 500
Distance (m)
COD
After
Before

Hình 3: COD (mg/L) của nước kênh trước và sau khi mở cống xả thải nước ao cá. Giá trị
trung bình cho 40 số được thu 15 ngày 1 lần trong 5 tháng (Tháng Mười Hai đến tháng Tư) ở
hai địa điểm của tỉnh An Giang (huyện Phú Tân và Châu Phú).

Nồng độ ammonium ở cống xả vẫn cao hơn trước khi xả thải cho tới 500 m xuôi dòng chảy
(Hình. 4). Các nồng độ này nhìn chung cao hơn Tiêu chuẩn Việt Nam cho phép dùng làm
nước sinh hoạt (ít hươn 0.5 mg/L) dựa theo TCVN5492-2005 nhưng chúng vẫn còn chấp
nhậ
n được cho xả thải theo Thông Tư số 02 của Bộ Thủy Sản.
Trong trường hợp của nồng độ nitrite và nitrate đo được ở các thời điểm khác nhau trước và
sau khi mở cống, chúng còn thấp hơn mức cho phép sử dunjng làm nước sinh hoạt ngay cả
trong mùa khô khi nồng độ nitrite và nitrate trong nước kênh đạm đặc hơn mùa lũ (số liệu
không được trình bày).

Trị số trung bình TSS trong nước kênh sau khi xả thải (261± 64 mg/l) cao hơn gấp 5 lần
trước khi xả thải (54 ± 20 mg/l). Hình 5 cho thấy rằng hầu hết trị số TSS trong nước kênh do
tác động của xả thải cao hơn từ 10-13 lần Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5942-1995 (cột A-
TSS nhỏ hơn 20 mg/l). Ngay cả giá trị cho phép (nhỏ hơn 80 mg/L) chất thải ao cá xả vào
nguồn nước mặt theo Thông Tư số 02 của Bộ Thủy Sản cũng thường bị vượt quá.
Như vậy kết quả lấy mẫu cho thấy rõ rằng tác động đo đạc được của nước thải trên chất
lượng nước kênh tối thiểu 100 m ngược dòng và 500 m xuôi dòng nước chảy. Chất lượng
nước đo được suy giảm do COD, NH
4
và TSS tăng cao.
Số liệu chất lượng nước này bổ trợ cho kết quả điều tra cơ bản của nông dân. Tại Cần Thơ và
An Giang, 7-36 % nông dân đánh giá chất lượng nước là xấu, mà trong đó 37 đến 91 % là do
chất lượng nước xấu do các ao cá thải ra. Một tỉ lệ nông dân ở An Giang cao hơn nông dân ở
Cần Thơ bị lâm nguy do chất lượng nước kém, có lẻ bởi vì tỉ lệ hộ gia đình cao h
ơn vẫn còn
lệ thuộc vào nước sông rạch dùng cho sinh hoạt.

0.0000
0.0200
0.0400

0.0600
0.0800
0 100 200 300 400 500
Distance (m)
Ammonia (mg/L)
After
Before

Hình 4: Nồng độ ammonium trong nước kênh trước và sau khi mở cống xả nước thải ao cá.
Giá trị trung bình 40 mẫu được thu 15 ngày 1 lần trong 5 tháng (Tháng Mười Hai đến tháng
Tư) ở hai địa điểm của tỉnh An Giang (huyện Phú Tân và Châu Phú).

0
50
100
150
200
250
300
-100 0 100 200 300 400 500
Distance (m)
TSS (mg/L)
After
Before

Hình 5: Tổng chất rắn lơ lững trong nước kênh trước và sau khi xả nước thải ao cá. Giá trị
trung bình 40 mẫu được thu 15 ngày 1 lần trong 5 tháng (Tháng Mười Hai đến tháng Tư) ở
hai địa điểm của tỉnh An Giang (huyện Phú Tân và Châu Phú).
Điều kiện lũ vào mùa mưa cải thiện được tác động xấu nhưng vẫn không tránh được nước
thải vượt tiêu chuẩn xả thải theo TCVN 5942-1995 hoặc trị số cho phép của chất th

ải từ ao
nuôi cá thải vào nguồn nước theo Thông Tư số 02 của Bộ Thủy Sản. Nếu cống xả thải nước
ao cá bên cạnh cách khoảng dưới 500 m sẽ làm tác động tích lủy trên chất lượng nước. trong
khi Bosma et al. (2009) chứng tỏ rằng tác động dồn của chất thải ao cá Tra lên chất lượng
nước trên dòng chính sông Mekong sẽ không có ý nghĩa, trong các kênh sườn và trong hệ
thống đê bao khép kín, sự suy giảm chất lượng nước đo l
ường được là bằng chứng trong các
mẫu nước ở huyện Châu Phú và Phú Tân. Thật vậy, sau khi xả thải, mẫu nước trong kênh
dưới mức tiêu chuẩn về TSS, COD và NH4. Trong nghiên cứu này chúng tôi không khảo sát
các đỉnh cao nồng độ về chất lượng nước tồn tại bao lâu theo phút, giờ hay ngày. Sự hiện
diện của các đỉnh trong nước ô nhiễm do chất thải ao nuôi cá xả ra dường như có liên quan
dến mức độ ô nhiễm của nước th
ải, thể tích của nước thải quan hệ với dòng nước chảy trong
kênh. Kênh nhỏ vào mùa nắng với dòng chảy thaaspddeer tẩy rữa dường như chịu suy giảm
về chất lượng nước.

Chất lượng nước trong ao nuôi cá:
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng Mười Hai năm 2007 đến tháng Sáu 2008 ở huyện Phú
Tân và Châu Phú của tỉnh An Giang trên chất lượng nước của 12 ao nuôi cá sử dụng 2 loại
thức ăn viên và thức
ăn tự chế.
Kết quả cho thấy rằng trị số pH vẫn nằm trong mức chấp nhận được (7.0-8.0) mặc dù có sự
khác biệt giữa các ao sử dụng thức ăn viên và thức ăn tự chế (kết quả không được trình bày).
Tất cả các ao cá đều có độ đục cao hơn mức cho phép để ao cá xả thải (80 mg/L; kết quả
không được trình bày). Ao cá ở Phú Tân có TSS thấp hơn ở Châu Phú bởi vì hầ
u hết ao ở Phú
Tân gần sông lớn để họ có thể thay nước tốt cho ao cá (số liệu không trình bày). Trị số TSS
và BOD trong ao nuôi thức ăn viên thấp hơn ao nuôi bằng thức ăn tự chế nhưng không khác
biệt về thống kê. COD ở cả hai nơi đều cao hơn giới hạn cho phép về nước thải ao nuôi thủ
sản thải ra nguồn nước mặt điều này cũng phù hợp với mẫu thu trong kênh có xả thải (Hình

Fig. 3).
Bảng 10: So sánh chất lượng nước ao nuôi cá Tra ở tinh An Giang (huyện Phú Tân và Châu
Phú) dùng thức ăn khác nhau. Giá trị trung bình của 4 ao nuôi bằng thức ăn viên và 8 hộ nuôi
bằng thức ăn tự chế.

Ao nuôi bằng thức ăn viên có trị số N hữu dụng và tổng P cao hơn thức ăn tự chế do thức ăn
viên có dinh dưỡng đậm đặc hơn (Bảng 10). Tuy nhiên , nồng độ nitrite và nitrate trong ao
nuôi bằng thức ăn viên thấp hơn.
Tổng đạm hữu dụng, nitrite, nitrate, phosphate, tổng N và P gia tăng theo thời gian sau khi
thả cá nhưng không có sự khác biệt gì đáng kể cho cả hai nơi (số lieju không trình bày ở đây.

Nghiên cứu chất lượng nước ở hệ thống VAC
Hệ tống VAC thường ở các khu vực đất cao ven sông. Những nơi này có sa cấu đất th
ịt có độ
thấm rút nước cao thích hợp cho việc lập vườn cây ăn trái và trồng các loại rau màu.
Một nghiên cứu nhỏ được tiến hành trên hệ thống VAC ở 2 quận/huyện Bình Thủ và Phong
Điền của TP Cần Thơ. Vườn cây ăn trái được bố trí trên những chổ đất cao cạnh các mương
vườn và ao nuôi cá. Cây ăn trái gồm nhã, vú sữa, sầu riêng, chôm chôm hoặc cam quít/chanh
là các loại cây phổ biến nhất ở những nơ
i này. Vịt được nuôi nhiều nhất kế đến là gà hoặc
heo. Cá rô phi, cá mè và cá tai tượng được nuôi trong các mương vườn. Những loài này
thường được nuôi với mật số thấp (<30 fish/m
2
) và chúng không gây ra ô nhiễm nào được ghi
nhận. Cá da trơn với loài khác cá Tra như cá Trê trắng, Trê vàng, Trê lai được nuôi trong ao
để bán cho thị trường nội địa là chủ yếu.
Không có sự khác biệt lớn về kích cở và chiều sâu ao giữa hai địa điểm này (Bảng 11). Do ao
không qáu lớn, lao động gia đình có thể quản lý tất cả các hoạt động liên quan đến việc nuôi
cá. Cá Trê đạt trọng lượng 200-250 g/con được bán thịt (cở thương mại). Kích cở lớn hơn
hoặc nhr hơn thì bán giá thấp hơn. Hầu hết nông dân nuôi cá Trê nuôi bằng thức ăn tự chế

TAN
(mg/L)
NO
3
-

(mg/L)

PO
4
3-
(mg/L)

TN
(mg/L)
TP
(mg/L)
BOD
(mg/L)
COD
(mg/L)
TSS
(mg/L)
TĂ viên 0.145 0.032 0.134 0.662 0.416 13.3 69.4 86.9
TĂ tự
chế 0.138
0.077 0.104 0.569 0.318
18.0
73.3
90.7

LSD
(5%) 0.017
0.012 0.012 0.246 0.093
1.94
14.5
15.3
hoặc mua nguyên liệu từ lối xosmvowsi giá 2,500-3,000VND/kg. Cá Trê được bán với giá
12,000-20,000VND/kg tùy theo nhu cầu của thị trường.
Canh tác cá Trê (Clarias sp.) gây ra ô nhiễm nguồn nước mặt cao hơn cá Tra bởi vì nước thải
chủ yếu xả vào sông rạch. Nước thải từ ao nuôi cá Trê có đặc trưng là màu đen, các chỉ tiêu
TSS, BOD và COD rất cao, mùi tanh do thiếu oxy (Bảng 12). Tác động sâu sắc nhất của
nước thải ao cá Trê là làm cho cá tự nhiên trong sông rạch bị chết do có nồng độ oxygen thấp
trong n
ước thải. Bùn tích tụ trong ao nuôi cá Trê là không đáng kể do các chất thải hầu như lơ
lũng do mật độ cá trong ao cao và độ sâu thấp nên được quậy liên tục (khoảng 120-150 con/
m
2
diện tích mặt ao). Chất thải rắn được trộn với nước và thải ra môi trường bên ngoài. Tuy
nhiên, các vật chất lơ lững sẽ lắng tụ dọc đường nước và kênh rạch làm ngăn trở giao thông
thủy.
Bảng 11: Thông tin tổng quát về nuôi cá Trê ở hai huyện của tỉnh Cần Thơ.
Danh mục Bình Thủy Phong Điền
Loại cá nuôi (%)

Cá Trê (%) 86 92
Khác 14 8
Thời gian nuôi trung bình (tháng) 3.5-5 3.5-5
Từ cá bột – cá hương (tháng) 1.2 1.3
Từ cá hương – cá thành phẩm (tháng) 7.2 7.5
Kích thước ao (m

2
) 500-3000 1000-3000
Chiều sâu ao (m)

Nuôi cá giống 1.2 1.1
Nuôi cá thành phẩm 1.8 1.6
Mật độ cá /m
2
90-120 70-100
Hệ số biến chuyển thức ăn (thức
ăn/thịt)
3.5 3.6

Bảng 12: Chất lượng nước ao cá Trê thu mẫu ở ao tại quận/huyện Bình Thủy và Phong Điền
của TP. Cần Thơ.
Danh mục Bình Thủy Phong Điền
BOD
5
(20
0
C) (mg/L) 120 104
TSS (mg/L) 312 258
oxygen hòa tan(mg/L) 0.05 0.1
COD (mg/L) 128 117

Tất cả các ao nuôi cá Trê qua điều tra cho thấy đều thải nước trực tiếp vào đường nước làm
cho ô nhiễm cao ở các khu vực này. Sự xung đột giữa nông dân nuôi cá Trê và cư dân trong
vùng là phổ biến vì vậy rất khó để thuyết phục học hợp tác để xử lý chất thải. Mặc dù chính
quyền địa phương đã xiết chặt việc cấm xả thải trực tiếp vào nguồn nước nhưng v
ấn đề này

hầu như vượt ngoài tầm kiểm soát. Do hầu hết nông dân nuôi cá Trê không có ao lắng hoặc
ruộng để áp dụng xử lý, ô nhiễm nguồn nước trong khu vực này rất nghiêm trọng.
Dù cá Trê có thể sống được trong nước bị ô nhiễm, nó cũng bị các bệnh do vi khuẩn gây ra
nhưng tỉ lệ hao hụt thì thấp hơn nhiều so với cá Tra. Các chất hóa học và sinh học dùng cho
nuôi cá Trê ít nhiều cũng giống như trong việc nuôi cá Tra. (Bảng 13).

Bảng 13: Hóa chất dùng cho xử lý nước và trị bệnh cá Tra. Giá trị được tính theo % của nông
dân có sử dụng sản phẩm.
Danh mục Bình Thủy Phong Điền
Sản phẩm sinh học: biozyme, US-zyme,
biomix
56 34
Xử lý nước (vệ sinh 76 82
BKC, 32 24
Vikong 16 22
Copper sulfate, potassium permanganate 39 48
Chlorine, formol 7 110
Xử lý đáy ao (zeolite, lime) 62 75

Chất lượng nước sau kho đi qua ruộng lúa
Tác động của đường nước thải đi qua ruộng lúa trên chất lượng nước được đánh giá ở 2 địa
điểm Châu Phú và Phong Điền. Trong trường hợp đầu nước di vào kênh dẫn chứa nước thải
nhiều ao cá tập trung. Nước đước hướng đi qua ruộng lúa bằng kênh khác. Mẫu nước được
thu trên các kênh dẫn này. Trong trường hợp thứ hai, nước được thu từ ao nuôi cá Trê và rồi
sau khi đi qua một số các dòng kênh dẫn để đỗ về kênh chính thì mẫu nước được thu để đánh
giá sự thay đổi chất lượng nước.
Tại Châu Phú, mẫu nước được thu dọc đường kênh chính nơi tiếp nhận nước thải nước thải từ
các ao cá, qua các đường nhánh nhỏ đi qua ruộng lúa, ao lắng và vùng đất ngập nước nhỏ
để
rồi sau đó đổ vào kênh cính khác (Hình 6). Mẫu nước được phân tích về ammonium-N,

nitrate-N, tổng N, TSS, COD và tổng P (Bảng 14).
Trên đường nước ở Châu Phú từ kênh chính dẫn nước ô nhiễm đi đến kênh xả thải, nồng độ
N và P giảm 3-4 lần (Bảng 14). Trị số COD cũng giảm xuống từ hơn 230 mg /L xuống
khoảng 100 mg/L. Tuy nhiên TSS gia tăng chút ít với trị số ở VTT10 và VTT11 vẫn giữ ở
khoảng 100 mg/L và cao hơn tiêu chuẩn cho phép xả
thải nước ao cá (80 mg/L) và cho hộ gia
đình là nước sinh hoạt (20 mg/L).
Nơi ao lắng và khu đất ngập nước, thành phần của nước khó mà thay đổi so với trên các kênh
nhỏ dẫn nước đi lên ruộng, thật vậy đạm ammonium-N và nitrate-N gia tăng.


Hình 6. Các điểm thu mẫu nước ở Châu Phú từ dòng kênh chính (VTT1, VTT2- đầu trái),
đường thoát nước nước nhỏ trên ruộng (VTT3,4,5), ao lắng (VTT6), khu đất ngập nước
(VTT7,8), đường thoát nước ruộng (VTT9) và kênh dẫn nước chính (VTT10,11).

Nước từ ao cá Trê ở Phong Điền được cho chảy qua ruộng lúa trước khi thải ra kênh. Mẫu
nước được thu ở 15 vị trí (Hình. 7) từ nơi ao nuôi cá cho đến kênh chính và được phân tích
các chỉ tiêu về pH, EC, BOD, COD, TSS, tổng N, nitrate-N và tổng P (Bảng 15).
Bảng 14. Thành phần của nước ở các điểm trình bày trong hình 6.

NH
4

(mg/L)
NO
3

(mg/L)
TSS
(mg/L)

COD
(mg O
2
/l)
TP
(mg/L)
TN
(mg/L)
VTT1 0.22 0.16 142 248 1.16 1.34
VTT2 0.16 0.54 128 232 1.14 1.28
VTT3 0.15 0.44 122 214 1.08 1.12
VTT4 0.17 0.64 118 220 1.02 0.94
VTT5 0.22 0.84 116 180 1.06 0.86
VTT6 0.26 1.24 115 152 0.84 0.78
VTT7 0.16 0.33 122 124 0.56 0.64
VTT8 0.22 0.35 114 128 0.62 0.82
VTT9 0.06 0.08 112 82 0.34 0.28
VTT10 0.06 0.08 98 98 0.28 0.31
VTT11 0.09 0.05 104 64 0.32 0.34

Sites 13,14,15
Điểm 10,11,12 (xuôi dòng); thải ra kênh chính (vòng màu xanh- Điểm 13,14,15).
Nước ao cá Trê có độ đục cao, BOD dư thừa và có nồng độ cao tổng N, nitrate-N và tổng P
(Bảng 15). Nước sau khi đi qua ruộng lúa đã giảm được TSS xuống 15 lần và cả hai TSS và
BOD giảm xuống đến mức chấp nhận cho xả thải. Tổng N và nitrate-N cả hai giảm 3 tới 4-
lần, trong khi tổng P chỉ giảm xuống khoảng 25 %. Thành phần của nước chảy ra khỏi ruộng
lúa cũng giống như kênh gần đó theo chi
ều xuôi cũng như chiều ngược, cũng như tại điểm xả
thải ra nơi kênh chính gần nhất.
Bảng 15. Chất lượng nước trong ao cá Trê ở Phong Điền (Điểm 1-3), sau khi đi qua ruộng

lúa (Điểm 4-6) và ở chiều xuôi kênh (Điểm 7-15). Giá trị trung bình của 3 điểm lấy mẫu cho
mỗi vị trí. Xem Hình 7 sơ đồ vị trí thu mẫu.
Vị trí pH
EC
(mS/cm)
TSS
(mg/L)
COD
(mg
O
2
/L)
TN
(mg/L)
NO
3

(mg/L)
TP
(mg/L)
BOD
(mg
O
2
/L)
1,2,3 6.64 0.22 618 35 17.0 16.3 1.2 119
4,5,6 6.86 0.14 43 19 4.8 3.7 0.9 70
7,8,9 6.83 0.14 35 19 4.1 3.5 0.9 69
10,11,12 6.81 0.14 32 16 3.9 3.3 1.1 68
13,14,15 6.76 0.14 42 13 3.5 3.1 1.0 70


Chất thải ao cá tải qua ruộng lúa
Hai trường hợp nghiên cứu trên cho thấy rằng đường dẫn nước thải ao cá Tra và cá Trê đi qua
ruộng lúa có thể cải thiện chất lượng nước bằng cách lọc, lắng và đồng hóa chất dinh dưỡng
nơi đường nước và ở trên ruộng lúa. Trong một báo cáo khác, chúng tôi đã cho thấy chất thải
rắn từ ao nuôi cá Tra và nước thải từ ao nuôi cá Tra và cá Trê có thể được sử dụng để thay
th
ế một lượng đáng kể phân bón dùng cho lúa (Cao et al. 2010a,b). Để áp dụng rộng rãi thực
hành xử lý chất thải và cải thiện chất lượng nước trong kênh rạch, một số các yếu tố cần được
lưu ý đến. Tải lượng chất thải vào đất tùy thuộc vào tối ưu hóa 4 tiêu chuẩn: tải lượng nước,
chất rắn, phản ứng hóa học của chất thải; và khả năng đồng hóa d
ưỡng chất của hệ thống.
Việc tối ưu hóa các yếu tố này trong mối tương quan với chất thải ao cá ao dụng lên ruộng
lúa vùng đồng bằng sông Cửu Long được thảo luận bên dưới.
Ao cá tạo ra nước thải liên tục trong năm, trong khi chất thải rắn từ đáy ao được lấy đi không
thường xuyên, thường vào lúc thu hoạch cá sau 6 tháng (Bảng 6). Áp dụng của hai loại chất
thải được lưu ý d
ưới đây. Khoảng phân nữa cuộc điều tra ở Cần Thơ và An Giangcho thấy
việc bơm chất thải rắn định kỳ trong khi nuôi cá (Cao et al. 2009; Phan et al. 2009) làm gia
tăng chất dinh dưỡng, COD, BOD và TSS trong nước thải xả ra. Nồng độ các chất dinh
dưỡng và mức COD và BOD trong chất thải rắn cao hơn trong nước thải, nhưng thể tích nước
thải lớn có nghĩa là tổng tải lượng dinh dưỡng có lẻ cũng cao. Với việ
c thay nước thường
xuyên, thành phần của nước thải có lẻ không quá khác biệt với nước trong kênh (Bosma et al.
2009).
Trong cuộc điều tra ở Cần Tho và An Giang, Người nuôi ccas trong ao thay nước ao hàng
ngày khoảng 33 % để tránh dưỡng chất và chất hữu cơ tăng cao, và để giảm mức độ nhiễm
bệnh cho cá (Cao et al. 2009). Trong một nghiên cứu khác, việc thay nước ao hàng ngày
trong khoảng 20-40 % (Phan et al. 2009), mặc dù tần suất được báo cáo là thay đổi theo với
chu kỳ nuôi của cá da trơn. Trong giai đoạn đầu nuôi cá Tra, ít cần thay n

ước hơn và đến khi
sắp thu hoạch thì nước được thay nhiều hơn. Ao thay nước thường xuyên có lẻ tích tụ chất
thải rắn chậm. Ngược lại, khi người nuôi cá thay nước ít thường xuyên làm cho ao ao sẽ có
nhiều dinh dưỡng và các bon và tích tụ chất thải rắn lớn hơn vào thời điểm thu hoạch. Số
lượng cá và kích cở cá thả nuôi (cả hai yếu tố này đều làm ảnh hưởng đến lượng thức ă
n cung
cấp hàng ngày) sẽ ảnh hưởng dến thành phần của nước thải. Việc sử dụng thức ăn viên cũng
như thức ăn tự chế cũng có thể ảnh hưởng đến nước thải và chất thải rắn tích tụ do sự khác
biệt về lượng thức ăn, thành phần của thức ăn và hệ số biến chuyển thức ăn. Theo Bosma et
al. (2009) hệ s
ố biến chuyển thức ăn của 89 trại nuôi cá ở DDBSCL là 1.86, trong khi Phan et
al. (2009) báo cáo hệ số biến chuyển thuwssc ăn trung bình của thức ăn viên là 1.69 và của
thức ăn tự chế là 2.25. Khoảng dao động dường như là từ 1,45-3.
1. Tải nước thải
Lúa được trồng bằng cách tưới hoàn toàn vào mùa khô ở DDBSCL và được tưới bổ sung vào
đầu vụ mùa mưa. Vào lúc mưa chính vụ, tháng Chín-tháng Mười một, DDBSCL ít có trồng
lúa do bị mực n
ước sâu. Lượng nước lũ và nước mưa phân bố trong năm sẽ quyết định đến
lượng nước thải có thể tải trên ruộng lúa. Biến động về nhiệt độ làm giới hạn tác động đến
vận tốc bốc thoát hơi nước (ET) ở ĐBSCL. Mây trong mùa mưa cũng có thể làm giới hạn
đến vận tốc bốc thoát hơi nước (Bảng 16).
Với chất thải r
ắn ao cá, tải lượng nước trên một đơn vị diện tích nhỏ hơn chất thải lỏng và nó
không được xem xét đến nữa trong phần này.
Ngập đất ruộng để làm đất cần nhiều nước (300- 700 mm theo Greenland 1997). Hơn thế nữa
duy trì ruộng lúa ở điều kiện ngập nước về cơ bản tiêu tốn một lượng nước cho cây trồng
phát triển. Tùy theo độ bốc thoát hơi nước, vậ
n tốc nước thấm lậu và lượng nước chảy tràn
trên đồng ruộng, cần 1020-2860 mm nước cho lúa cấy có thời gian sinh trưởng 100 ngày
(Greenland 1997). Lúa nước sử dụng 4000 kL/ tấn hạt (Greenland 1997). Để sản xuất 6 tấn

lúa trong mùa khô cần có 24,000 kL nước tưới (2400 mm nước), trong khi sản xuất 3 tấn vào
mùa mưa chỉ cần 12,000 kL (2000 mm), trong đó 75-100 % được mưa cung cấp.
Lịch tưới nước cho lúa điển hình như sau (Bảng 16). Lịch này có lẻ đại diệ
n cho giới hạn cao
cho tải nước thải ao nuôi cá. Nó cho thấy sự biến động theo mùa về lượng nước thải có thể áp
dụng. Như vậy vào lúc mưa chính vụ, biện pháp xử lý khác như ao lắng có lẻ cần để xử lý
nước thải. Vào mùa mưa, một diện tích ruộng lúa lớn hơn cần để phục vụ cho việc tưới nước
từ một ao cá. Thời điểm mưa c
ũng quan hệ với thời điểm áp dụng nước thải cho ruộng lúa.
Mưa trước có thể làm ngưng trệ việc sử dụng nước thải trong một ruộng đặc thù trong nhiều
ngày. Như vậy, điều quan trọng là phải uyển chuyển khi vận hành ao cá để thu xếp thêm
ruộng lúa hoặc ao lắng để có thể áp dụng nước thải tránh trường hợp không có chổ chứa nước
thải một khi cần thải nước ao cá.
Từ nghiên cứu thí điểm ở Châu Phú thuộc tỉnh An Giang Province, báo cáo cho thấy trồng 3
vụ lúa trong năm cần tưới 12-13 lần, mỗi lần tưới khoảng 75 mm nước. Như vậy tại nơi này
cần 900-1000 mm nước tưới cho một năm. Nhiều nơi ch
ỉ trồng 2 vụ lúa mỗi năm, nhưng ở
Châu Phú trồng lúa 3 vụ và vụ lúa mùa mưa chính vụ không cần tưới nước. Như vậy việc ước
lượng trong Bảng 18 là 835 mm nước cần tưới hàng năm dường như là hợp lý cho lúa 3 vụ
hoặc 2 vụ, mặc dù có lẻ việc ước lượng là dè dặt.
Thể tích nước lớn hơn cần thải ra từ ao cá. Giả định ao có chiều sâu 3 m (Phan et al. 2009) và
9.2 cm nước th
ải cho mỗi lần bơm lên ruộng lúa, 1 ha ao nuôi cs cần khoảng 33 ha ruộng lúa
cho mỗi lần ao cần thay sạch nước trong ao. Giả định lúa cần 4.6 mm nước mỗi ngày (bốc
thoát hơi – xem bảng 18) để áp dụng 9.2 mm nước thải cần xảy ra trong mỗi 2 ngày. Trong
thực tế nông dân bơm tưới 50-100 mm nước cho mỗi 10 days vào mùa khô và mỗi 18-22
ngày trong đầu mùa mưa. Việc thay nước ao 33 % mỗi ngày là thông thường như vậy tính ra
việc thay sạch nước ao diễn ra theo chu kỳ 3 ngày. Nh
ư vậy cần có diện tích ruộng 10-20 ha
để sử dụng nước thải tạo ra trong mùa khô do 1 ha ao nuôi cá giả sử chỉ có nước ao cá được

sử dụng để tưới. Đầu mùa mưa, mưa làm cho việc tưới nước thải bị đình trệ như vậy để sử
dụng nước thải 1 ha ao nuôi cần có 20-40 ha ruộng lúa.
Bảng 16. Ví dụ nhu cầu tưới hàng tháng cho ruộng lúa ở DDBSCL và lượng mưa (trung bình
cho Long Xuyên và Cần Thơ
), và tiềm năng bốc thoát hơi (PE) từ TP. Hồ Chí Minh. Ghi
nhận rằng lúa cũng lấy nước từ nước thỷ cấp lúc triều cường.
Tháng Vũ lượng
(R)
PE Tưới
(R – PE)*

(mm) L/ha (mm) (mm) L/ha
Giêng 15 150,000 160 145 1,450,000
Hai 0 0 175 175 1,750,000
Ba 15 150,000 215 200 2,000,000
Tư 70 700,000 200 130 1,300,000
Năm 190 1,900,000 150 - -
Sáu 170 1,700,000 100 - -
Bảy 210 2,100,000 110 - -
Tám 205 2,050,000 130 - -
Chín 255 2,550,000 100 - -
Mười 270 2,700,000 100 - -
Mười một 155 1,550,000 110 - -
Mười hai 55 550,000 130 85 850,000
Annual 1610 16,100,000 1690 835 8,350,000
* tính toán không cho thấm lậu mất
Nếu nước thải được áp dụng theo chu kỳ này làm cho dưỡng chất dư thừa tải lên ruộng lúa
(xem bên dưới), tăng thêm đất lúa cần để áp dụng phương cách này như một chiến lược bền
vững để xử lý nước thải ao cá. Có lẻ cần khoảng 60-80 ha hoặc nhiều đất hơn cần cho mỗi ha
ao cá. Do có khoảng 6000 ha đất được làm ao cá, > 360,000 ha có thể cần để xử lý n

ước thải.
Giả định thu hoạch cá là 300 tấn/ha/năm từ ao nuôi, và hệ số biến chuyển thành 1 tấn sinh
khối cá cho mỗi 1,86 tấn thức ăn, 1 ha ao cá sản sinh ra khoảng 260 tấn chất thải hữu cơ. Giả
định áp dụng liều lượng là 3 tấn/ha, điều này cần khoảng 90 ha ruộng lúa cho mỗi ha ao cá.
Đây tượng trưng cho tỉ lệ tối thiểu vì nên có hơn 90 ha để giảm thiểu rủi ro tích lủ
y dinh
dưỡng như đã thảo luận ở trên và cho phép một số ruộng chưa sẳn sàng tại thời điểm bơm
chất thải rắn.
1. Tải chất thải rắn
Áp dụng chất thải rắn có thể làm cho “bít kín” các tế khổng ở mặt đất, do các hạt hữu cơ và
vô cơ được áp dụng. Đóng váng bề mặt cản trở sự di chuyển khí và chất lỏ
ng đi vào trong
đất. Trong chất thải lỏng ao cá, mức vật chất lơ lững là 200 mg/L (Hình. 5). Nông dân ở Châu
Phú cho biết tưới bằng nước thải làm cho độ thấm rút chậm. Trên lúa, tran bằng mặt đất cũng
cần thiết để tránh nước thải tích tụ chổ các vũng, nơi N dư thừa tích lại làm cho lúa có xu
hướng bị đỗ ngã. Đối với ra màu, thấm rút chậm được quan sát thấy khi tưới bằng nước thải.
Ch
ất thải rắn có chứa vật chất rắn ở mức cao. Tuy nhiên hệ thống ruộng lúa không phải là hệ
thống dựa trên thấm rút để xử lý chất thải, như vậy đóng váng bề mặt các tế khổng có lẻ
không được quan tâm lắm trừ phi trước khi gieo mạ trên nương mạ. Nhu cầu để tran bằng
phẳng đồng ruộng nên được áp dụng với việc sử dụng chất th
ải rắn ao cá.
2. Phản ứng hóa học của chất thải
Vật chất hữu cơ bón vào đất sẽ tạo ra nhu cầu oxy sinh học (BOD) và nhu cầu oxy hóa học
(COD). Lượng chất thải bón vào đất nên được tính toán để COD hoặc BOD không vượt quá
khả năng trao đổi khí của đất, nếu không thì sự phân hủy chất thải sẽ bị chậm thiếu oxy và
làm cho tình trạng thiếu oxy. Thiếu oxy ở vùng rễ thì ít được quan tâm trên cây lúa h
ơn là các
cây trồng khác. Khoảng biến động lớn trị số BOD trên các loại chất thải đã được phát hiện
(McGowan et al. 2007; Bảng 17). Trị số BOD tối đa khuyến cáo để áp dụng trực tiếp là

100.000 mg/L trong khi COD tối đa là 250.000 mg/L (Yadav et al. 2002). Nước thải ao cá
của Việt Nam có BOD và COD là 35 và 100 mg/L, còn dưới mức giới hạn để áp dụng trực
tiếp vào đất.
Nước thải ở nhiều điểm tại An Giang và Cần Thơ có chứa 0.5-5 mg NH
4
/L, 0.4-12 mg
NO
3
/L, 5.4-17 mg N/L và 1.2-8.5 mg P/L (Bảng 18). Nước ao cá Trê có chứa N cao đáng kể
nhưng P lại thấp. Mẫu nước chảy ra được chọn dể thu thập tại 9 ao ở ĐBSCL, Bosma et al.
(2009) báo cáo rằng nồng độ N và P nằm trong khoảng giới hạn nêu trên. Nồng độ biến thiên
lớn về N (3- đến 4-lần) và P (7-lần) có liên quan đến việc xác định giá trị thay thế lượng phân
bón của nước thải. Tuy nhiên, sự biến động của các thành phần giải thích cho s
ự biến động
chung của biến động về chất lượng nước là loại thức ăn, tần suất thay nước ao, mật độ cá
trong mỗi ao đều được biết và như vậy nguồn nước thải có thể xếp loại là thấp, trung bình
hoặc cao về chất dinh dưỡng. Giá trị thay thế phân bón của nước thải theo từng ao có thể
đoán biết được theo nồng độ dinh dưỡng trong nước th
ải. Ví dụ, nước tại các ao gần Viện lúa
DDBSCL biến động đáng kể qua 4 tháng sử dụng cho tưới, và lần cuối có nồng độ N và P
thấp được lý giải do việc ngưng cho ăn của nông dân khi giá cá trên thị trường sụt giảm
(Bảng 19).
Bảng 17. Mức BOD điển hình trong nước thải. Nguồn tài liệu: McGowan et al. (2007)
Vật liệu /Cơ chất BOD (mg /L)
Nước thải trại bò sữa 500 - 2 000
Nước thải ủ cỏ/rơm chua 30 000 - 80 000
Bùn thải trại heo (Pig slurry) 20 000 - 30 000
Bùn thải trại Bò (Cattle slurry) 10 000 - 20 000
Nước thải từ nơi chứa bùn 1 000 - 2 000
Nước cống rảnh 10 000 - 20 000


Chất thải rắn từ các ao cá ở An Giang năm 2007 có thành phần biến động C, N, P, K và Ca
(Bảng 20). Hàm lượng P tương đối cao, cũng như K. Hàm lượng Zn cao nhưng không quá
cao để thải trên đất. Tuy nhiên hiện có nhiều ao được bơm đáy ao để vét cho sâu thêm. Thành
phần chất thải ở một số điểm trong Bảng 20 có lẻ không phản ánh được chất lượng chất thải
thu từ các ao về lâu dài khi ao đã được vét đến đ
úng độ sâu thiết kế. Thành phần chất thải rắn
nơi hầm chứa chất thải trại chăn nuôi heo do Duffera et al. (1999) cho thấy chất thải rắn ao cá
tương đối thấp P và mức độ thấp hơn về N.
Bảng18: Thành phần dinh dưỡng trong nước thải tại các điểm thí nghiệm theo báo cáo của
Cao et al. (2010) và Bosma et al. (2009). Ngọai trừ ở tại điểm Phong Điền, tất cả nước đều t

ao nuôi cá. Số liệu của Bosma et al. (2009) từ 3 điểm không xác định vị trí ở ĐBSCL.
Địa điểm pH EC
(µS/cm)
NH
4
-N
(mg/L)
NO
3
-N
(mg/L)
Total N
(mg/L)
Total P
(mg/L)
Total K
(mg/L)
CLRRI 7.18 373 0.46 2.72 5.39 2.53 4.18

Châu Phú 7.13 234 3.4 0.42 5.40 8.46 4.47
Phú Tân 7.32 243 4.84 0.79 7.66 6.44 5.12
Phong Điền 6.65 217 2.18 12.3 16.7 1.21 6.02
ĐBSCL - - - - 14.8 3.2 -

Bảng 19: Thành phần nước thải dùng để tưới cho 4 lần tại CLRRI.
Số TT pH
EC
(mS/cm)
COD
(mg/l)
PO
4
3-
(mg/L)
NH
4
+
(mg/L)
NO
3
-
(mg/L)
1 7.2 0.38 67.4 3.54 0.12 4.39
2 7.2 0.39 16.8 3.45 0.11 4.33
3 7.1 0.35 75.8 1.50 0.81 1.13
4 7.1 0.37 75.8 1.45 0.79 1.12

Bảng 20. Thành phần chất thải rắn từ ao cá ở Phú Tân và Châu Phú tỉnh An Giang, Vietnam.
Thành phần của chất thải rắn trại chăn nuôi heo do (Duffera et al. 1999) cũng được trình bày

để so sánh.
Số liệu trung bình
chất thải rắn của 12
trại cá tại An Giang
2007
Chất thải rắn của
tỉnh An Giang 2007
Chất thải rắn của
trại chăn nuôi heo
C 5±0.3 % 2.5-2.7 % 13.7±0.4 %
N 0.32±0.03 % 0.83 % 1.72±0.04 %
C:N 15.6 3 8.0
P 0.28±0.08 0.61 % 2.49±0.11 %
K 1.1±0.03 3.5 % 0.67±0.03 %
Ca 0.013±0.006 % 7.8-8.8 %
Cu 35±1 32 mg/kg
Zn 111±4 109 mg/kg
Fe 3.9 ±0.3 % 3 %
Mn 0.05±0.01 % 331 mg/kg
pH 6.4-6.5
EC 1.9-2.1 mS/cm


1. Khả năng đồng hóa dưỡng chất của lúa
Khả năng đồng hóa dưỡng chất của ruộng lúa được xác định bởi sức sản xuất sinh học, mức
độ lấy sinh khối đi khỏi ruộng và sự thất thóat từ đồng ruộng (trực di, chảy tràn hoặc bay hơi
dưới dạng N
2
O). Năng suất trong mùa mưa điển hình từ 3-5 tấn/ha, trong khi năng sấu mùa
khô thường là 6-7 tấn/ha. Việc thu họach lúa lấy đi mmọt lượng đáng kể chất dinh dưỡng.

Tuy nhiên, việc lấy đi thêm rơm rạ nữa có thể gia tăng lượng N và P lấy đi khỏang 50-60 %,
và K lấy đi gấp 4-5 lần (Bảng 21). Như vậy, việc lấy đi rơm rạ là giải pháp lựa chọn củ
a nông
dân cần xem xét nếu họ cần tránh việc tích lủy dưỡng chất dư thừa trong đất. Tuy nhiên, hiện
tại, phần lớn rơm rạ được nông dân đốt bỏ thay vì sử dụng chúng. Như vậy, đây là một trở
ngại và các điều này càn phẩi được hiểu rõ và vượt qua trong chiến lược quản lý dinh dưỡng.
Thật vậy, đốt rơm rạ làm mất đi một lượng N đáng k
ể (và S) dứoi dạng hợp chất bay hơi,
trong khi chỉ có một lượng nhỏ K bị mất. Lân bị mất rất biến động, hầu hết dưới dạng hạt có
thể làm bổ sung thêm lân cho nơi nào đó.
Quan trọng hơn cả việc lấy đi rơm rạ trên đồng ruộng bằng cách giảm lượng phân bón như là
chiến lược có tính cách quyết định để tránh dưỡng chất bị dư
thừa cho lúa khi nước thải hoặc
chất thải rắn được dùng. Sử dụng chất thải ao cá cộng thêm với lượng phân khuyến cáo sử
dụng làm cho sinh trưởng quá mức và đỗ ngã làm giảm năng suất.
Phân vô cơ thường được áp dụng vào các thời điểm 7, 21 và 45 ngày sau khi gieo sạ. Thêm
dinh duỡng trong chất thải ao cá qua bơm nước tưới cho lúa 5 lần (vụ Hè-Thu sớm) hoặc 10
lần (mùa khô) theo lượng nước bằng nhau trong khi canh tác lúa, lần đầ
u khi làm đất. Như
vậy với nước thải ao nuôi cá, việc cung cấp dinh dưỡng bị dời sang vào giai đọan cuối sau 40
ngày.
Ngân quỹ dinh dưỡng có thể được dùng để xác định mức độ quan trọng tương đối cho các
chiến lược để đạt được cân bằng dưỡng chất trên ruộng lúa do việc áp dụng nước thải và chất
thải rắn ao nuôi cá. Cách tính ngân quỹ dinh dưỡng do Dobermann and Fairhurst (2000) thảo
ra được áp dụng dưới đây
để khảo sát nguyên tắc quan trọng của việc quản lý phân bón khi
dùng chất thải ao nuôi cá (Bảng 21).
Sử dụng cách tính đơn giản ngân quỹ dinh dưỡng, một số các kịch bản được khảo sát để xác
định trở ngại do tải chất dinh dưỡng qua việc sử dụng nước thải.
1. Thêm nước thải vào cộng với phân bón được sử dụng

Trong kịch bản này, nông dân trồng lúa thay nước tưới bằng nước thả
i, nhưng không điều
chỉnh đầu vào và đầu ra. Trong kịch bản này lượng lớn dư thừa N và P được ước lượng
(Bảng 22).
2. Giảm phân bón
Dựa trên kịch bản thứ nhất, cho thấy nước thải có nhiều N và P, phân bón được điều chỉnh để
trừ ra lượng N và P thêm vào và kali áp dụng chỉ bằng phân nửa. Điều này vẫn làm cho lượng
N và P bị dư thừa đáng kể (Bảng 23). Tuy nhiên, kết quả thí nghiệm đồng ruộng cho thấy
việc giảm hòan tòan N và P sẽ làm giảm năng suất (Cao et al. 2010b).

Bảng 21. Ngân quỹ dinh dưỡng cho lúa tưới có n
ăng suất 6 tấn/ha. Nguồn: Dobermann and
Fairhurst (2000).
Danh mục N P K Ghi chú
(kgha
-1
)
Đầu vào
Phân bón (M) 115 17,0 15 không bón phân hữu cơ
Mưa (A) 2 0,3 5 <500 mm, mùa khô
Bơm tưới (W) 5 0,5 20 Nguồn nước mặt có dinh dưỡng thấp
1000 mm/ vụ
Cố định đạm (N2) 40 0,0 0
Đầu ra
Hạt ( C ) 63 12,0 15
Rơm ( C ) 42 6,0 87 Chỉ số thu họach 0,5
Thấm lậu (PS) 10 1,0 10 Khỏang 2-3 mm/ngày
Bay hơi (G) 50 0,0 0 Bốc hơi NH3 và khử đạm

Cân bằng thuần

-3 -1.2 -72 Cắt sát mặt đất, lấy đi rơm
29 3.6 2 80 % rơm được giữ lại và trộn vào đất

3. Giảm lượng nước thải dùng
Bằng cách giảm đi phân nữa lượng nước thải, N dư thừa bị giảm đi bớt. Trong mùa mưa, khi
có ít nước thải được áp dụng do mưa, dù sao đi nữa điều này sẽ bị thay đổi.
4. Lấy rơm rạ đi
Lấy đi rơm rạ làm giả bớt dư thừa N nhưng làm cho thiếu K (Bảng 24). Tuy nhiên một lượng
P
đáng kể vẫn còn, đặc biệt là khi canh tác 2 vụ lúa/năm. Trừ khi đaast có khả năng hấp phụ
P cao, tích tụ P theo thời gian dường như làm cho P hòa tan trong dung dịch cao sẽ chảy vào
trong nguồn nước nơi nó làm cho phú dưỡng. Đất phèn chiếm diện tích đáng kể ở ĐBSCL
dường như có khả năng hấp phụ P cao. Qua 2 năm bón P và sử dụng chất thải rắn ao nuôi cá
lượng lân trích được chỉ gia tăng chút ít tương đươ
ng với chỉ 2-3 % của tổng lượng P thêm
vào (Cao et al. 2010a). Tuy vậy, đối với đất phù sa ở ĐBSCL có khả năng hấp phụ P thấp
hơn và dễ làm cho P hữu dụng gia tăng khi chất thải được sử dụng liên tiếp.
Một số csc số liệu dùng để tính tóan ở bên trên được ước lượng, một số qua thí nghiệm chứng
minh được. Sai số trong một vài số liệu có thể làm cho sai số tính tóan sau cùng rất
đáng kể
Sau đây là một số các lảnh vực còn chưa được chắc chắn cho lắm cần có nghiên cứu thêm:

×