Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

BTL TƯ TƯỞNG HỔ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.02 KB, 32 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA


BÀI TẬP LỚN
MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT TỒN DÂN TỘC.
LIÊN HỆ ĐẾN VIỆC PHÁT HUY TINH THẦN ĐOÀN KẾT ĐẠI DÂN
TỘC CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG LỚP HỌC, XÂY DỰNG
TỔ CHỨC ĐOÀN, HỘI, XÂY DỰNG CHI BỘ SINH VIÊN; XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN CÁC PHONG TRÀO ĐOÀN, HỘI...
LỚP L12 --- NHÓM 17 --- HK 231
Giảng viên hướng dẫn: Th.S. PHAN THỊ THANH HƯƠNG

Sinh viên thực hiện
Trần Minh Châu
Đặng Quốc Đại
Đinh Duy Tín
Lê Minh Trí
Trương Hồng Vũ

Mã số sinh viên
2012716
2012901
2014738
2014847
2015098

Thành phố Hồ Chí Minh – 2023


Điểm số


ST
T

BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN
Nhóm 17 – Lớp L12
Họ và tên
MSSV
Nhiệm vụ
Kết quả

1.

Trần Minh Châu

2012716

Tổng hợp, định dạng

100%

2.

Đặng Quốc Đại

2012901


Mục 2.2

100%

3.

Đinh Duy Tín

2014738

Mục 2.1

100%

4.

Lê Minh Trí

2014847

Mục 1.4, 1.5

100%

5.

Trương Hồng Vũ

2015098


Mục 1.1, 1.2 và 1.3

100%

Chữ ký

NHÓM TRƯỞNG (ghi rõ họ tên, ký tên)

Đinh Duy Tín

1


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................5
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc..............................................5
1.1.

Vai trị của đại đồn kết dân tộc..................................................................5

1.2.

Vai trị của đại đồn kết dân tộc..................................................................7

1.3.

Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc...............................8

1.4.


Hình thức, nguyên tắc tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - Mặt

trận dân tộc thống nhất........................................................................................11
1.5.

Hình thức, ngun tắc tổ chức của khối đại đồn kết toàn dân tộc - Mặt

trận dân tộc thống nhất........................................................................................16
2. Liên hệ đến việc phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh
trong xây dựng lớp học, xây dựng tổ chức Đoàn, Hội, xây dựng Chi bộ Sinh
viên; xây dựng và phát triển các phong trào Đoàn, Hội......................................22
2.1

Thực trạng việc phát huy tinh thần đoàn kết đại dân tộc của Hồ Chí

Minh trong xây dựng lớp học, xây dựng tổ chức Đoàn, Hội, xây dựng Chi bộ
Sinh viên; xây dựng và phát triển các phong trào Đồn, Hội............................22
2.2. Giải pháp cần thực hiện để góp phần phát huy tinh thần đoàn kết đại dân
tộc của Hồ Chí Minh trong xây dựng lớp học, xây dựng tổ chức Đoàn, Hội, xây
dựng Chi bộ Sinh viên; xây dựng và phát triển các phong trào Đoàn, Hội.......25
PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................30

2


PHẦN MỞ ĐẦU
Trong suốt cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln xác định đại đồn kết
dân tộc là phương thức, là sức mạnh và là mục tiêu quan trọng nhất của cách mạng

Việt Nam. Trong các tác phẩm của mình, Người có tới trên 400 bài nói, bài viết, câu
chuyện về đoàn kết. Tư tưởng đại đoàn kết của Người là một tư tưởng cơ bản, nhất
quán, xuyên suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực
lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của tồn dân tộc trong
cuộc đấu tranh với kẻ thù của dân tộc, của giai cấp. Với tư tưởng ấy, dân tộc Việt Nam
đã giành được độc lập và xây dựng đất nước từng bước đạt mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”. Tư tưởng đại đồn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã trở thành giá trị văn hóa, giá trị chính trị q báu của Việt Nam trong thời
đại mới.
Và để kế thừa và phát huy tư tưởng ấy của Người, Đảng ta luôn xác định: “đoàn
kết” là giá trị cốt lõi, “đại đoàn kết toàn dân tộc” là đường lối chiến lược, là cội nguồn
sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa. Từ đó, qua nhiều các thời kì, Đảng đã đề ra nhiều chủ trương, chính
sách để xây dựng khối “đại đồn kết tồn dân tộc” ngày càng hoàn thiện và phát triển.
Việc phát huy tinh thần đoàn kết đại dân tộc của Hồ Chí Minh trong xây dựng
lớp học, xây dựng tổ chức Đoàn, Hội, xây dựng Chi bộ Sinh viên; xây dựng và phát
triển các phong trào Đồn, Hội,… chính là cơ sở để xây dựng nền móng vũng chắc để
hồn thiện và phát triển tinh thần ấy.
Và cốt lõi không thể thiếu trong việc phát huy tinh thần đoàn kết đại dân tộc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là nhân dân Việt Nam.
Việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc giúp ta thấy
được, để có Việt Nam phát triển như ngày hơm nay thì cốt lõi chính là phát triển “đại
đồn kết tồn dân tộc”. Và để phát triển khối “đại đoàn kết toàn dân tộc” thì cần phải
xây dựng các khối “đại đồn kết toàn dân tộc” ngay trong lớp học, cùng với đó là xây

3


dựng và phát triển thêm các phong trào, các tổ chức Đồn, Hội, Chi bộ Sinh Viên

trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay và hội nhập quốc tế.
Với những lý do trên, nhóm chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết toàn
dân tộc. Liên hệ đến việc phát huy tinh thần đồn kết đại dân tộc của Hồ Chí Minh
trong xây dựng lớp học, xây dựng tổ chức Đoàn, Hội, xây dựng Chi bộ Sinh viên;
xây dựng và phát triển các phong trào Đoàn, Hội...” làm bài tập lớn để kết thúc mơn
học Tư tưởng Hồ Chí Minh.

4


PHẦN NỘI DUNG
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
1.1. Vai trị của đại đồn kết dân tộc
1.1.1. Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
thành cơng của cách mạng
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đồn kết toàn dân tộc là chiến lược lâu dài, nhất
quán của cách mạng Việt Nam. Người chỉ rõ: “Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào
dân ta đồn kết mn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta
khơng đồn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” 1. Thật vậy, trong suốt giai đoạn lịch sử của
dân tộc ta đã có những cuộc xâm lược từ các thế lực bên ngoài nhưng nguyên nhân
trực tiếp từ bên trong, chính sự sung đột quyền lực đã dẫn tới các cuộc đấu tranh. Điển
hình như cuộc nội chiến Đàng trong và Đàng ngoài, sau khi chúa Nguyễn bị lật đổ,
Nguyễn Ánh đã sang cầu viện quân Xiêm, vua Xiêm đã sai tướng đem 5 vạn quân
thủy bộ tiến sang nước ta. Cuộc kháng chiến Xiêm – Việt (1785) chính thức bắt đầu tại
đây. Sau khi đánh thắng quân Xiêm, 1786 Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc tiêu diệt họ
Trịnh. Tại đây vua Lê Chiêu Thống đã phản bội quân Tây Sơn, sau khi bị quân tây Sơn
đánh vua Lê Chiêu Thống đã cầu viện quân Thanh. Vua Thanh đã cho 29 vạn quân
sang nước ta. Cuộc kháng chiến chống quân Thanh cũng bắt đầu tại đây. Qua những
cuộc xâm lược này ta thấy khi trong nước khơng đồn kết sẽ dẫn đến mâu thuẫn nội bộ
từ đó giặc bên ngồi lợi dụng và xâm lược nước ta. Ngược lại, khi toàn dân trên dưới

đoàn kết sẽ tạo ra một đất nước thịnh vượng và phát triển, điển hình như các thời nhà
Lý, nhà Trần,… đất nước ta có những sự phát triển tột bật cả về văn hóa, xã hội, kinh
tế… Đại đồn kết dân tộc là vấn đề mang tính sống cịn của dân tộc Việt Nam nên
chiến lược này được duy trì cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và
nhiệm vụ khác nhau, chính sách và phương pháp tập hợp đại đồn kết có thể và cần
thiết phải điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau song khơng bao giờ

Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh Tồn tập, Tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, tr. 256.
1

5


được thay đổi chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc, vì đó là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng.
Từ những thực tiễn xây dựng khối đại đồn kết tồn dân tộc, Hồ Chí Minh đã khái
qt thành nhiều luận điểm mang tính chân lý về vai trị và sức mạnh của khối đại
đồn kết tồn dân tộc từ đó Người đã đi đến kết luận:
“Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”1.
Qua câu nói trên của Người, Đảng và nhân dân ta đã tiếp thu và coi đó như là một
khẩu hiệu hành động của tồn dân tộc, nó thể hiện một khát vọng có được những thành
cơng lớn trong cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
1.1.2. Đại đoàn kết toàn dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng Việt Nam
Đối với Hồ Chí Minh, đại đồn kết khơng chỉ là khẩu hiệu chiến lược mà còn là
mục tiêu lâu dài của cách mạng. Đảng là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam nên
tất yếu đại đoàn kết toàn dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng

và nhiệm vụ này phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ
trương, chính sách, tới hoạt động thực tiễn của Đảng. Trong lịch sử hàng nghìn năm
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành
di sản vô giá, là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Trong lời kết thúc buổi ra
mắt Đảng Lao động Việt Nam ngày 3/3/1951, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Mục đích của
Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN,
PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”2. Câu khẩu hiệu này bao gồm 4 vế được liên kết chặt chẽ với
nhau. Thứ nhất, “đoàn kết” ở đây chỉ sự đồn kết và đồng lịng trong toàn xã hội. Thứ
hai, “toàn dân” Người đặt mục tiêu tất cả người dân trên đất nước, từ già, trẻ, lớn, bé,
phụ nữ, đàn ông,… đến tất cả các tầng lớp trong toàn xã hội, đã là người dân Việt Nam
thì chúng ta đều có thể đồn kết lại. Thứ ba, “phục vụ” ở đây là hành động thể hiện sự

Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh Tồn tập, Tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội. tr. 119.
2
Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh Tồn tập, Tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội. tr. 49.
1

6


chấp hành sứ mệnh phục vụ và quản lý cho lợi ích cộng đồng, cho người dân. Thứ tư,
“tổ quốc” ở đây là danh từ cũng như động từ để thể hiện những việc nên làm để bảo vệ
và phát triển quốc gia, đất nước.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng và vì quần chúng. Đại
đồn kết là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng và là đòi hỏi khách quan của
quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng bởi nếu khơng đồn kết thì
chính họ sẽ thất bại trong cuộc đấu tranh vì lợi ích của chính mình. Nhận thức rõ điều
đó, Đảng Cộng sản phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng, chuyển

những nhu cầu, những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những địi
hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh
tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc
cho con người.
1.2. Lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
1.2.1. Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, theo Hồ Chí Minh bao gồm tồn thể
nhân dân, tất cả những người Việt Nam yêu nước ở các giai cấp, các tầng lớp trong xã
hội, các ngành, các giới, các lứa tuổi, các dân tộc, đồng bào các tôn giáo, các đảng
phái,… “Nhân dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu với nghĩa vừa là con người
Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, cả hai đều là chủ
thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân tộc tức là phải tập hợp,
đoàn kết được tất cả mọi người dân vào một khối thống nhất, không phân biệt dân tộc,
giai cấp, tầng lớp, đảng phái, tôn giáo, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, ở trong nước
hay ở ngoài nước cùng hướng vào mục tiêu chung, “ai có tài, có đức, có sức, có lịng
phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ”1. Câu nói trên khuyến
khích tạo ra một xã hội mà trong đó người có năng lực và phẩm hạnh tốt, cùng với
lòng yêu nước nồng nàn, sẵn sàng phục vụ cộng đồng, phục vụ nhân dân thì ta sẵn
sàng và rất đáng để đoàn kết họ lại cùng hợp tác và thúc đẩy sự phát triển của đất
nước. Từ “ta” ở đây là chủ thể, vừa chỉ Đảng Cộn sản Việt Nam nói riêng, vừa chỉ mọi
người dân Việt Nam nói chung.

Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh Tồn tập, Tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội. tr. 244.
1

7


Hồ Chí Minh cịn chỉ rõ, trong q trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc,

phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ
giữa giai cấp, dân tộc để tập hợp lực lượng, khơng bỏ sót một lực lượng nào miễn là họ
có lịng trung thành và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không phản bội lại quyền lợi của
nhân dân. Tư tưởng của Người đã định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải xác định rõ đâu là nền tảng
của khối đoàn kết toàn dân tộc và những lực lượng nào tạo nên nền tảng đó. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Đại đồn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại
đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó
là nền gốc của đại đồn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có
nền vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác”1. Câu nói này của
Bác đã đặt ra tầm quan trọng của sự đoàn kết nhân dân và đánh giá nó như là một yếu
tố quan trọng trong việc xây dựng và duy trì Đại đồn kết mạnh mẽ của một quốc gia
hay một xã hội cụ thể. Nó cũng nhấn mạnh sự liên kết chặt chẽ giữa sự đoàn kết và sự
ổn định, bền vững của Đại đoàn kết. Như vậy, lực lượng làm nền tảng cho khối đại
đoàn kết toàn dân tộc theo quan điểm của Hồ Chí Minh là cơng nhân, nơng dân và trí
thức. Nền tảng này càng được củng cố vững chắc thì khối đại đồn kết tồn dân tộc
càng có thể mở rộng, khi ấy khơng có thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đồn kết
tồn dân tộc.
Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải đặc biệt chú trọng yếu tố “hạt nhân” là
sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng vì đó là điều kiện cho sự đoàn kết ngoài xã hội.
Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đồn kết tồn dân tộc càng được tăng
cường. Đảng đoàn kết, dân tộc đồn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân
đã tạo nên sức mạnh bên trong của cách mạng Việt Nam để vượt qua mọi khó khăn,
thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
1.3.

Điều kiện để xây dựng khối đại đồn kết tồn dân tộc


Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh Tồn tập, Tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội. tr. 244.
1

8


1.3.1. Phải lấy lợi ích chung làm điểm quy tụ, đồng thời tơn trọng các lợi ích
khác biệt chính đáng
Phải chú trọng xử lý các mối quan hệ lợi ích rất đa dạng, phong phú trong xã hội
Việt Nam. Chỉ có xử lý tốt quan hệ lợi ích, trong đó tìm ra điểm tương đồng, lợi ích
chung thì mới đồn kết được lực lượng. Mục đích chung của Mặt trận được Hồ Chí
Minh xác định cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức
cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết. Theo Người, đại đoàn kết phải xuất
phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu nước, thương dân, chống áp bức, bóc
lột, nghèo nàn, lạc hậu. Người cho rằng, nếu nước được độc lập mà dân không được
hưởng hạnh phúc, tự do thì đọc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Vì vậy, đồn kết phải lấy
lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích căn bản của nhân dân lao động làm mục tiêu phấn
đấu; đây là nguyên tắc bất di bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số chung để quy
tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc và tôn giáo vào trong Mặt trận. Ơng cha ta
có câu tục ngữ: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Qua
câu tục ngữ này, ta cũng có thể hiểu yếu tố đồn kết ở đây rất quan trọng, nếu làm một
mình chúng ta có thể sẽ bị hạn chế về nhiều phương diện, nhưng khi đoàn kết lại làm
cùng nhau, cùng hỗ trợ lẫn nhau sẽ đạt được những điều phi thường và to lớn hơn.
Hiểu sâu xa hơn, câu tục ngữ này cũng có thể sẽ phải sử dụng những lợi ích chung làm
nền tảng cho việc đoàn kết mỗi cá nhân lại với nhau và đồng thời mỗi cá nhân đó cũng
sẽ tơn trọng những lợi ích riêng của nhau để cùng thừa hưởng những thành tựu khi làm
việc và hỗ trợ qua lại lẫn nhau.
1.3.2. Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc

Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng
nước và giữ nước hàng năm của dân tộc và đã trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào
tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam, được lưu truyền qua nhiều
thế hệ. Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vơ địch để cả dân tộc chiến đấu và
chiến thắng thiên tai, thù địch, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc
được giữ vững. Nhân dân ta có câu tục ngữ:
“Tay bắt tay, chung long chung sức
Quyết diệt thù cứu quốc bạn ơi
Lịng em khơn tỏ hết lời

9


Kìa gương phấn dũng rạng ngời nước non”1.
Qua câu tục ngữ này, ta hiểu tinh thần đoàn kết của dân tộc ta đã ghi sâu vào mỗi
dòng máu con người Việt Nam. Mỗi khi nước nhà gặp hoạn nạn, có giặc đến cướp
bóc, dân tộc ta lại đồn kết cùng nhau tham gia kháng chiến để giành độc lập dân tộc
cho đất nước. Với một lòng yêu nước kiên cường, bất khuất, mong muốn có một cuộc
sống tự do, ấm no, hạnh phúc thì những con người nhân nghĩa ấy, cho dù là người già
hay phụ nữ cũng đã đứng lên để bảo vệ nền hịa bình cho nước nhà.
1.3.3. Phải có lịng khoan dung, độ lượng với con người
Theo Hồ Chí Minh, trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu
điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu,… Cho nên, vì lợi ích của cách mạng, cần phải có
lịng khoan dung độ lượng, trân trọng phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi người, có vậy mới
tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Người từng căn dặn đồng bào: “Năm ngón tay
cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy
triệu người cũng có người thế này hay thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng
dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con
Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lịng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc
lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ai mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đồn

kết, có đại đồn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẽ vang”2. Câu nói trên của Bác đã thể
hiện rõ lịng khoan dung cho những người lầm đường lạc lối, muốn quay lại để góp
một phần cơng sức cho việc dành độc lập của nước nhà. Ơng cha ta cịn có câu tục ngữ
như: “đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại”. Câu này chỉ ra rõ, luôn đề cao
tinh thần hịa hợp dân tộc, nhưng khơng nhu nhược, chỉ hoan hồng với những người
thực sự biết lỗi sai của mình và muốn có cơng giúp ích cho tổ quốc.
1.3.4. Phải có niềm tin vào nhân dân
Với Hồ Chí Minh, u dân, dựa vào dân, sống, phấn đấu vì hạnh phúc của nhân
dân là nguyên tắc tối cao trong cuộc sống. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền
thống dân tộc “Nước lấy dân làm gốc” thể hiện một quốc gia hay một xã hội tồn tại và

Thanh Hạ (14/4/2022), Top 20 câu ca dao, tục ngữ về ngày 30/4 hay và ý
nghĩa, Truy cập từ />2
Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh Tồn tập, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội. tr. 280-281.
1

10


phát triển dựa trên người dân, và người dân là yếu tố cốt lõi xây dựng nền tảng cho
quốc gia xã hội đó. Dân là chỗ dựa vững chắc đồng thời cũng là nguồn sức mạnh vô
địch của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết định thắng lợi của cách mạng. Ngồi ra
cịn có câu “Chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”, trong câu nói này đề cập đến việc
thể hiện sự đa dạng trong một xã hội hoặc cộng đồng, nơi mà người dân có các vai trị
và hành động khác nhau, nhưng tất cả đều có một điểm chung, đó là đều mang dịng
dõi người Việt. Nguyên tắc này đồng thời cũng là sự quán triệt sâu sắc nguyên lý mácxít “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải là sự nghiệp của cá
nhân anh hùng”1, bởi yếu tố quan trong và dẫn đến thành cơng của một cuộc cách
mạng thì yếu tố quần chúng là những người chủ động và quan trọng nhất. Vì vậy,
muốn thực hiện đại đồn kết tồn dân tộc, phải có niềm tin vào nhân dân.

1.4.

Hình thức, ngun tắc tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - Mặt

trận dân tộc thống nhất
1.4.1. Mặt trận dân tộc thống nhất
Ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về thành lập “Hội
Phản đế Đồng minh” - hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam;
đánh dấu sự trưởng thành về nhận thức và chỉ đạo thực tiễn cách mạng của Đảng ta; là
cống hiến vĩ đại về lý luận và thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ khi thành lập đến nay, tuy có những hình thức và tên gọi khác nhau cho phù
hợp với nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng nhưng Mặt trận Dân tộc Thống nhất
Việt Nam luôn là nơi tập hợp các giai tầng xã hội vì mục tiêu lớn của dân tộc: Hội
Phản đế Đồng minh (11/1930 - 3/1935), Hội Phản đế Liên minh (3/1935 - 10/1936),
Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế Đông Dương (10/1936 - 3/1938), Mặt trận
Dân chủ Đông Dương (3/1938 - 11/1940), Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế
(11/1940 - 5/1941), Mặt trận Việt Minh (5/1941 - 3/1951), Hội Liên hiệp quốc dân
Việt Nam (5/1946 - 3/1951), Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Mặt trận Liên
Việt) (3/1951 - 9/1955), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (9/1955 - 2/1977), Mặt trận Dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (12/1960 - 2/1977), Liên minh các lực lượng Dân
tộc, Dân chủ và Hịa bình Việt Nam (4/1968 - 2/1977).

1

Hồ Chí Minh (15/10/1949), Dân Vận, Báo Sự Thật số 120.
11


Từ ngày 31/1 đến 4/2/1977 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đại hội Mặt trận Dân tộc
Thống nhất Việt Nam quyết định hợp nhất 3 tổ chức: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt

trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân
chủ và Hịa bình Việt Nam, lấy tên chung là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc (1930 - 1945), Mặt trận đã phát huy
vai trị tập hợp tồn thể nhân dân Việt Nam yêu nước thành khối đại đoàn kết, với tinh
thần “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc
lập”, làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954),
Mặt trận hoàn thành xuất sắc vai trị đồn kết các tầng lớp nhân dân, hưởng ứng Lời
kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, bảo vệ vững chắc chính quyền cách
mạng non trẻ, chiến thắng giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, thực hiện thành công
đồng thời hai nhiệm vụ “kháng chiến, kiến quốc”, làm nên chiến thắng Ðiện Biên Phủ
“lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ xâm
lược, ở miền Bắc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tập hợp, động viên nhân dân hăng
hái thi đua học tập, lao động sản xuất, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chi viện cho tiền
tuyến lớn miền Nam đấu tranh thống nhất nước nhà. Ở miền Nam, Mặt trận Dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hịa
bình Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ, công khai giương cao ngọn cờ đoàn kết rộng rãi
các lực lượng và cá nhân yêu nước, đấu tranh chống lại đế quốc Mỹ xâm lược, sự đàn
áp khốc liệt của chính quyền tay sai, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, nhân dân
và các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hịa bình trên thế giới, góp phần đưa cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn, để dân tộc Việt Nam tự hào bước
vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trải qua gần một thế kỷ, với nhiều hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau, Mặt
trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam (nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) luôn trung
thành với lợi ích của Nhân dân, tiêu biểu cho truyền thống đoàn kết dân tộc, là biểu
tượng về lòng tự hào, tự tơn dân tộc, là trí tuệ, sức mạnh khơng gì lay chuyển nổi của

12



các thế hệ người Việt Nam yêu nước trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.1
1.4.2 Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
Một là, Mặt trận phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh cơng – nơng –
trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh “Lực lượng chủ yếu trong khối đại đoàn kết dân tộc
là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống
nhất”. Người chỉ rõ, sở dĩ phải lấy liên minh công – nông làm nền tảng, “vì họ là người
trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú, làm cho xã hội sống. Vì họ đơng hơn hết mà cũng
bị áp bức bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn
của mọi tầng lớp khác”. Người căn dặn, trong khi nhấn mạnh vai trò nịng cốt của liên
minh cơng nơng, cần chống lại khuynh hướng chỉ coi trọng củng cố khối liên minh
công nông mà khơng thấy vai trị và sự cần thiết phải mở rộng đoàn kết với các tầng
lớp khác, nhất là với tầng lớp tri thức. Làm cách mạng phải có tri thức và tầng lớp trí
thức rất quan trọng đối với cách mạng. Người nói “Trong sự nghiệp cách mạng, trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lao động trí óc có một vai trị quan trọng và vẻ
vang, và cơng, nơng, trí cần đồn kết chặt chẽ thành một khối. 2
Theo Hồ Chí Minh, đại đồn kết là cơng việc của tồn dân tộc, song nó chỉ có thể
được củng cố và phát triển vững chắc khi được Đảng lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng
đối với Mặt trận, vừa là vấn đề mang tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu đảm bảo cho
Mặt trận tồn tại, phát triển và có hiệu lực trong thực tiễn. Bởi vì, chỉ có chính Đảng
của giai cấp cơng nhân được vũ trang bởi chủ nghĩa Mác – Lênin mới đánh giá đúng
được vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, mới vạch ra được đường lối chiến
lược và sách lược đúng đắn, để lôi kéo, tập hợp quần chúng vào khối đại đoàn kết
trong Mặt trận, biến tiến trình cách mạng trở thành ngày hội thật sự của quần chúng.
Chính vì vậy, Hồ Chí Minh ln xác định mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận là mối

Trang tin điện tử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, Mặt trận Dân tộc thống

nhất: Biểu tượng của khối đại đồn kết tồn dân, truy cập từ:
/>2
Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh Tồn tập, Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội. tr. 18
1

13


quan hệ máu thịt. Khơng có Mặt trận, Đảng khơng có lực lượng, khơng thể thực hiện
được những nhiệm vụ cách mạng; khơng có sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận khơng thể
hình thành và phát triển và khơng có phương hướng hoạt động đúng đắn, phù hợp với
nguyện vọng của đại đa số nhân dân. Do vậy, Đảng cộng sản Việt Nam vừa là một
thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận.
Hồ Chí Minh cịn cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là một tất
yếu, vừa phải có điều kiện. “Đảng khơng thể địi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh
đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân
thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa
nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được
địa vị lãnh đạo”.1
Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải có chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với
từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng, phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của đại
đa số nhân dân. Người viết “Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng,
cơng tác Mặt trận là một cơng tác rất quan trọng trong tồn bộ công tác cách mạng"2.
Người căn dặn “Phải thành thật lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng. Cán bộ và
đảng viên khơng được tự cao, tự đại, cho mình là tài giỏi hơn mọi người, trái lại phải
học hỏi điều hay, điều tốt ở mọi người ... phải tích cực và phải chủ động ... làm
việc phải kiên nhẫn, phải thiết tha với công tác Mặt trận. Cán bộ và đảng viên có quyết
tâm làm như thế thì cơng tác Mặt trận nhất định sẽ tiến bộ nhiều. Đảng lãnh đạo Mặt
trận phải dùng phương pháp giáo dục, vận động, nêu gương, lấy lòng chân thành để

đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự nguyện tự giác trong quần chúng, phải đi đúng
đường lối quần chúng, không được lấy quyền uy để quan liêu, mệnh lệnh, để buộc các
thành viên trong Mặt trận phải tuân theo.
Hai là, Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối
cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất là để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, song
khối đại đoàn kết chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài khi có sự thống nhất cao độ

Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh Tồn tập, Tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội. tr. 139.
2
Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh Tồn tập, Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội. tr. 605.
1

14


về mục tiêu và lợi ích. Ngay từ năm 1925, khi nói về chiến lược đại đồn kết, Hồ Chí
Minh đã chỉ ra rằng, chỉ có thể thực hiện được đồn kết khi có chung một mục đích,
một số phận.
Mục đích chung của mặt trận được Hồ Chí Minh xác định cụ thể, phù hợp với từng
giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại
đoàn kết toàn dân. Như vậy, độc lập, tự do là nguyên tắc bất di bất dịch, là ngọn cờ
đoàn kết và là mẫu số chung để quy tụ các tầng lớp giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn
giáo, vào trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Vấn đề còn lại là ở chỗ, phải làm thế nào
để tất cả mọi người thuộc bất cứ giai cấp nào, lực lượng nào trong Mặt trận cũng phải
đặt lợi ích tối cao đó lên trên hết, trước hết. Bởi lẽ, lợi ích tối cao của dân tộc được
đảm bảo thì lợi ích cơ bản của mỗi bộ phận, mỗi người được thực hiện.
Ba là, Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương

dân chủ, đảm bảo đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
Nguyên tắc hiện thương dân chủ đòi hỏi tất cả mọi vấn đề của Mặt trận đều phải
được đem ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc cơng khai, để đi đến nhất trí,
loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Đảng là lực lượng lãnh đạo Mặt trận,
nhưng cũng là thành viên của Mặt trận. Do vậy, tất cả mọi chủ trương, chính
sách của mình, Đảng phải có trách nhiệm trình bày trước Mặt trận, cùng với các
thành viên khác của Mặt trận, bàn bạc, hiệp thương dân chủ để tìm kiếm các giải pháp
tích cực và thống nhất hành động, hướng phong trào quần chúng thực hiện thắng lợi
các mục tiêu mà Đảng đã vạch ra.
Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải đứng vững trên lập trường giai
cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp,
lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt ... Phải làm cho tất cả
các thành viên trong Mặt trận thấm nhuần lợi ích chung, lợi ích tối cao của dân tộc,
phải đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết. Những lợi ích riêng chính đáng. phù hợp
với lợi ích chung của đất nước và dân tộc phải được tơn trọng. Ngược lại, những lợi
ích bộ phận không phù hợp, sẽ dần dần được giải quyết cùng với tiến trình chung của
cách mạng, thơng qua lợi ích chung, với sự nhận thức ngày càng đúng đắn hơn của
mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng. Trong quá
trình hoạt động, Mặt trận cần xem xét, giải quyết thỏa đáng, thấu tình đạt lý mối quan

15


hệ lợi ích giữa các thành viên bằng việc thực hiện nghiêm túc nguyên tắc hiệp thương
dân chủ.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích trong Mặt trận dân tộc thống nhất sẽ góp
phần củng cố sự bền chặt, tạo sự đồng thuận nhất trí cao, thực hiện được mục tiêu
“Đồng tình, đồng sức, đồng lịng, đồng minh”.
Bốn là, Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết
thật sự, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

Mặt trận là một tập hợp nhiều giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, bên cạnh
những điểm tương đồng, giữa các thành viên của Mặt trận vẫn có những điểm khác
nhau, do vậy cần phải bàn bạc, hiệp thương dân chủ để thu hẹp những nhân tố khác
biệt, cục bộ; nhân lên những nhân tố tích cực, nhân tố chung, đi đến thống nhất đồn
kết. Để giải quyết vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm cầu
đồng tồn dị – lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt khác, Người nêu
rõ: Đoàn kết phải gắn với đấu tranh. Đấu tranh để tăng cường đoàn kết.
Người thường xuyên căn dặn, cần phải khắc phục tình trạng đồn kết xi chiều,
đồng thời phải có tấm lịng nhân ái, khoan dung độ lượng, khắc phục thiên kiến, hẹp
hòi, thiễn cận; phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình để biểu dương mặt tốt,
khắc phục mặt chưa tốt, nhằm củng cố và mở rộng khối đoàn kết trong Mặt trận dân
tộc thống nhất. Theo Người “Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập
trường cũng phải nhất trí. Đồn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết vừa đấu tranh, học
những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường
thân ái vì nước, vì dân. Tóm lại, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì tồn dân cần đoàn
kết lâu dài, đoàn kết thực sự và cùng nhau tiến bộ”.
1.5.

Hình thức, nguyên tắc tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - Mặt

trận dân tộc thống nhất
1.5.1. Làm tốt công tác vận động quần chúng
Thực tiễn chỉ ra rằng, sự nghiệp giữ vững an ninh, bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo
của Đảng chỉ thành cơng khi tạo được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do vậy, để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng
tác vận động quần chúng góp phần giữ vững an ninh, bảo vệ Tổ quốc, cần thực hiện
tốt một số nội dung, nhiệm vụ chủ yếu sau:

16



Một là, các cấp ủy đảng, lãnh đạo các ban, bộ, ngành, lực lượng, địa phương cần
tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận, Nghị quyết 25NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) và Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng về công tác dân vận; Nghị định 06/2014/NĐ-CP, ngày 21-01-2014 “Về biện
pháp vận động quần chúng bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an tồn xã hội”,
v.v. Qua đó, nhận thức rõ vị trí, vai trị quan trọng của công tác vận động quần chúng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong thực hiện phong trào “Toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”. Coi đây là công tác thường xuyên trong thực hiện nhiệm
vụ chính trị của đơn vị, lực lượng, địa phương; tích cực, chủ động trong lãnh đạo, chỉ
đạo, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện công tác vận động quần chúng; xây
dựng, triển khai các trương trình, kế hoạch, giải pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả,
đặc biệt coi trọng công tác đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng và thực hiện chế độ, chính
sách đối với đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng. Kịp thời phát hiện
những hạn chế, thiếu sót để chủ động có biện pháp khắc phục.
Thực hiện tốt Quy chế Công tác dân vận, Quy chế Dân chủ cơ sở; bám sát cơ sở,
kịp thời nắm bắt tâm tư, giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả tâm tư, nguyện vọng
chính đáng, những ý kiến đóng góp, phản ánh của nhân dân. Tăng cường đối thoại,
nâng cao chất lượng công tác tiếp xúc cử tri, thực hiện công tác tiếp dân đúng quy
định, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân; quan
tâm chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần và tôn trọng, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
Hai là, Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, Ban Dân vận, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên các cấp cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ trong tổ
chức, thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước về công tác dân vận. Đẩy
mạnh, lan tỏa hơn nữa phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”; trong đó, cần
có những hành động thiết thực, cụ thể để tạo điểm nhấn, có sức lan tỏa của phong trào;
tổ chức hiệu quả các hoạt động “Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, tạo sự
chuyển biến tích cực về nhận thức và thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân trong sự
nghiệp giữ vững an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, phát hiện,
đấu tranh làm thất bại âm mưu, phương thức hoạt động của các thế lực thù địch, tội

phạm, nhất là chiến lược “Diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi

17


chính trị hóa” lực lượng vũ trang, hịng kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, chia rẽ mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa nhân dân với Đảng, với Qn đội và
Cơng an, góp phần xây dựng thế trận an ninh nhân dân, nền quốc phòng tồn dân vững
chắc.
Ba là, tích cực đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp cơng tác vận động quần
chúng trong sự nghiệp giữ vững an ninh, bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm thiết thực, phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh của từng lĩnh vực, địa bàn. Tập trung xây dựng, củng cố
phong trào ở các địa bàn chiến lược, tuyến biên giới, biển, đảo, khu vực tập trung đồng
bào tôn giáo, dân tộc thiểu số, địa bàn trọng điểm, phức tạp về an ninh, trật tự. Phát
triển phong trào theo hướng xã hội hóa, theo quan điểm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra” và phương châm “tự phòng, tự quản, tự bảo vệ, tự hòa giải” về an ninh,
trật tự đến từng cơ quan, đơn vị, nhà trường, khu dân cư, gia đình; xây dựng khu dân
cư, xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường an toàn về an ninh, trật tự;
lựa chọn, xây dựng những mơ hình tiêu biểu, nhân rộng trên các địa bàn, loại hình tổ
chức có đặc điểm tương đồng. Tổ chức các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm, tệ
nạn xã hội, tạo khí thế, động lực, khích lệ nhân dân tự giác, tích cực, chủ động tham
gia giữ vững an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới lề lối
làm việc, kiên quyết chống các biểu hiện gây phiền hà, sách nhiễu, tạo điều kiện thuận
lợi trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và sinh hoạt của người dân.
Đồng thời, chú trọng tuyên truyền, vận động nhân dân nắm vững đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những phương thức, thủ
đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, phản động và tội phạm; tham gia thực hiện
các Chương trình quốc gia phịng, chống tội phạm, ma túy, tệ nạn mua, bán người;
phát hiện, tố giác tội phạm, đảm bảo trật tự, an tồn giao thơng; làm tốt việc cảm hóa,
giáo dục, giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tự tái hòa nhập cộng đồng. Cùng với

đó, cần tích cực phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng mơ hình, điển hình tiên tiến, gương
“người tốt, việc tốt”; chú trọng các mơ hình, điển hình tiên tiến cơng tác dân vận trong
lĩnh vực an ninh, trật tự ở cơ sở, nhằm đưa công tác dân vận ngày càng đi vào chiều
sâu, có hiệu quả thiết thực.
Bốn là, tập trung nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ
chế chính sách nhằm cụ thể hóa các quy định của Đảng, Nhà nước về công tác vận

18


động quần chúng, cơng tác xây dựng phong trào “Tồn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”.
Có chính sách phù hợp để động viên, khuyến khích kịp thời đối với quần chúng nhân
dân tích cực tham gia phong trào trên. Đồng thời, chú trọng việc củng cố tổ chức, nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của lực lượng Quân đội, Công an, Ban Dân vận,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên các cấp. Nâng cao hiệu quả hoạt động của
Ban Chỉ đạo “Thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” và Ban Chỉ đạo
“Phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc” các cấp. Thường xuyên củng cố, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ đối với cán
bộ làm công tác dân vận và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
trong lực lượng vũ trang nhân dân, Ban Dân vận và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp.
Bố trí đội ngũ cán bộ làm cơng tác vận động quần chúng có đủ phẩm chất, trình độ, uy
tín, góp phần trực tiếp nâng cao hiệu quả cơng tác vận động quần chúng.
Thực hiện tốt những nội dung trên là trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành, mọi lực
lượng, tạo cơ sở quan trọng để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, phát huy được
sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân tham gia giữ vững an ninh, bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới.1
1.5.2. Thành lập đoàn thể, tổ chức quần chúng phù hợp với từng đối tượng để
tập hợp quần chúng
Theo Hồ Chí Minh, để tập hợp quần chúng nhân dân một cách có hiệu quả, cần
phải tổ chức đoàn thể, tổ chức quần chúng. Đây là những tổ chức để tập hợp, giáo dục.

Rèn luyện quần chúng cho phù hợp với từng giai cấp, dân tộc, tơn giáo, lứa tuổi,
giới tính, vùng miền…như các tổ chức: Cơng đồn, Hội nơng dân, Đồn thanh niên,
Hội phụ nữ…Các đồn thể, tổ chức quần chúng có nhiệm vụ giáo dục, động viên và
phát huy tính tích cực của các quần chúng nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ của
cách mạng trong từng giai đoạn.
Các đoàn thể, tổ chức quần chúng ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng, có nhiệm vụ
tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân tham gia
cách mạng, đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Chính vì vậy mà trong suốt

Tạp chí quốc phịng tồn dân. Nâng cao hiệu quả cơng tác vận động quần
chúng trong giữ vững an ninh, bảo vệ Tổ quốc, truy cập từ:
/>1

19



×