Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

tư tưởng Hồ Chí Minh và tham nhũng.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.69 KB, 29 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VÀ VẤN ĐỀ THAM NHŨNG
Ở NƯỚC TA
MỤC LỤC
I.MỞ ĐẦU...............................................................................6
II. NỘI DUNG.........................................................................9
1. Quan điểm lý luận.......................................................9
1.1 Ý nghĩa của vấn đề chống tham nhũng..............9
1.2 Quan điểm mới của thế giới
và Việt Nam hiện nay.......................................11
1.3 Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Về phòng chống tham nhũng............................13
2. Vấn đề tham nhũng ở Việt Nam................................20
2.1 Thực trạng...........................................................20
2.2 Đặc điểm.............................................................27
2.3 Nguyên nhân.......................................................30
3. Kết luận – kiến nghị...................................................32
3.1 Kết luận...............................................................32
3.2 Kiến nghị.............................................................33
III. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................37
1. Quan điểm lí luận
1.1 . Ý nghĩa của vấn đề chống tham nhũng
a) Chống tham ô, lãng phí, quan liêu là cách mạng
- Tham ô, lãng phí, quan liêu là nọc độc xấu xa của chế độ
cũ. Muốn xây dựng một xã hội mới phải tẩy cho sạch hết những
thói xấu của xã hội cũ.
- Chống tham ô, lãng phí, quan liêu để xây dựng đội ngũ,
giúp đỡ cán bộ, chiến sĩ ta tiến bộ
- Theo Bác, chúng ta làm cách mạng là để tiêu diệt chế độ
thực dân, phong kiến, xây dựng dân chủ mới. Đó là một xã hội
tự do, bình đẳng, một xã hội cần, kiệm, liêm, chính. Cho nên


phải tẩy cho sạch hết những thói xấu của xã hội cũ, phải chống
tham ô, lãng phí, quan liêu.

b) Chống tham ô, lãng phí, quan liêu là dân chủ
- Tất cả mọi người, từ bộ đội đến đồng bào ủng hộ Chính
phủ, đoàn thể để kháng chiến kiến quốc là một hình thức dân
chủ tập trung. Không ai có thể lợi dụng quyền lực, vị trí công
tác để tham ô, lãng phí của công, quan liêu, hách dịch với người
khác.
- Cán bộ được giao quyền điều khiển bộ đội, chăm nom chiến
sĩ... Đồng thời chiến sĩ và đồng bào có quyền đòi hỏi cán bộ
phải làm tròn nhiệm vụ, có quyền chỉ trích những cán bộ nào
không làm tròn nhiệm vụ đó. Vì vậy, chống tham ô, lãng phí,
quan liêu là để xây dựng tổ chức, đoàn thể vững mạnh.
- Dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường
lối quần chúng. “Cho nên phong trào chống tham ô, lãng phí,
quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành
công”.
- Phải thực hành dân chủ để động viên được quần chúng
tham gia và nhiệm vụ của quần chúng là phải hăng hái tham gia
phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu. “Tham ô, lãng
phí, quan liêu là một thứ “giặc ở trong lòng”. Nếu chiến sĩ và
nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm mà quên chống giặc nội
xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình”. Quần
chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng.
c) Chống tham ô, lãng phí, quan liêu sẽ giúp chúng ta hoàn
thành đầy đủ kế hoạch.
- Thắng lợi trong cuộc chiến chống tham ô, lãng phí, quan
liêu sẽ giúp chúng ta đoàn kết hơn nữa, nâng cao năng suất hơn
nữa.

- Giúp cho mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh
thần làm chủ, ý thức bảo vệ của công, hăng hái thi đua tăng gia
sản xuất, thực hành tiết kiệm để xây dựng nước nhà, để nâng
cao đời sống của nhân dân.
- Giúp cán bộ cải tạo tư tưởng, nâng cao giác ngộ, thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật thà phụng sự bộ đội và nhân
dân.
- Giúp chính quyền ta thành một chính quyền trong sạch,
vững mạnh xứng đáng với lòng tin tưởng và sự hy sinh của
chiến sĩ và đồng bào.
1.2 Quan điểm mới của thế giới và Việt Nam hiện nay
Như chúng ta đã biết, tham nhũng là một vấn nạn thế giới,
một hiện tượng mang tính nhân loại, một tệ nạn mang tính toàn
cầu. Có vô vàn biến tướng qua mọi thời đại và mọi thể chế
chính trị. Năm 2008, trong danh sách 10 quốc gia tham nhũng
nhất thế giới có đến 9 quốc gia theo chế độ đa Đảng về bản
chất.
Tham nhũng xuất hiện ở tất cả các quốc gia với những hình
thức biểu hiện đặc trưng, nhưng tác động nguy hại của các
nước đều dẫn đến sự bất ổn về chính trị, sự suy giảm lòng tin
của dân chúng vào bộ máy công quyền, gây ra lãng phí các
nguồn lực, thất thoát về kinh tế, làm cho bất bình đẳng xã hội
gia tăng, kỉ cương xã hội bị rối loạn… Chính vì vậy, việc
chống tham nhũng là công việc thường nhật của các quốc gia.
Từ Trung ương đến chính phủ đều phải tỏ thái độ cứng rắn và
kiên quyết trong đấu tranh chống tham nhũng bằng nhiều biện
pháp:
+ Biểu dương những tấm gương tố giác tham nhũng
+ Tập trung lực lượng kiểm tra xử lý
+ Phối hợp quốc tế phòng chống tham nhũng

+ Chống tham nhũng chủ yếu bằng định chế
“Tham nhũng – đó là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục
lợi riêng” với những dấu hiệu:
- Người có chức vụ, quyền hạn trộm cắp, tham ô tài sản Nhà
nước
- Lợi dụng địa vị công tác để trục lợi riêng quá đáng thông
qua việc sử dụng không chính thức địa vị chính thức của mình.
- Tạo ra sự xung đột về thứ tự quan tâm giữa trách nhiệm đối
với xã hội và lợi ích cá nhân để mưu cầu trục lợi.
Đặc trưng của tham nhũng ở Việt Nam: Ở Việt Nam, các
nhà khoa học pháp lý nhìn nhận tham nhũng trên các bình
diện: chính trị, kinh tế, pháp lý, đạo đức, truyền thông…và đặc
biệt là bằng công cụ của tội phạm học để ghi nhận tính chất,
đặc điểm và mức độ của tham nhũng trên quan điểm tổng thể
đó đã nêu ra những đặc trưng cơ bản của tham nhũng như sau:
- Chủ thể của tham nhũng phải là những người có chức vụ
quyền hạn làm việc trong bộ máy nhà nước ở các cơ quan lập
pháp, hành pháp, tư pháp từ Trung ương đến địa phương, cán
bộ trong Đảng và các đoàn thể.
- Người có chức vụ, quyền hạn đã thực hiện hành vi lợi
dụng chức vụ quyền hạn, lợi dụng địa vị công tác được giao để
không làm hoặc làm trái với công vụ mà mình phải thực hiện
và thực hiện đúng quy định của pháp luật, gây thiệt hại chung
cho lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân.
- Người có chức vụ, quyền hạn đã thực hiện hành vi với
động cơ vụ lợi cho bản thân mình, cho người khác hoặc một
nhóm người mà mình quan tâm.
Bản chất của tham nhũng: Tham nhũng là một hiện tượng
xã hội phản ánh các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, truyền
thống, tập quán của một dân tộc, một quốc gia. Tham nhũng

bao gồm những hành vi nguy hiểm ở mưc độ cao cho xã hội,
nhà nước và nhân dân.
1.3 Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về phòng
chống tham nhũng
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Chế độ ta là
chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng
lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ Trung ương đến khu,
đến Tỉnh, đến Huyện, đến xã bất kì ở cấp nào và ngành nào-
đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Để Đảng ta
thật sự là một Đảng lãnh đạo và là đầy tớ trung thành của nhân
dân thì trước hết cán bộ, Đảng viên phải thực hành đoàn kết và
thanh khiết. Chính vì lẽ đó, trong những phẩm chất cần có của
cán bộ, Hồ Chí Minh đề cao chữ LIÊM.
LIÊM tức là luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân,
không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước và của
nhân dân. “Phải trong sạch, không tham lam, không tham địa
vị, không tham sung sướng, không tham tiền tài, không ham
người tang bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không
bao giờ hủ hóa, chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham
tiến bộ”. Người đã dẫn câu nói của Khổng Tử để răn dạy
những kẻ bất liêm rằng: Người mà không liêm không bằng súc
vật. Và trong thực thi quyền lực, ai cũng tham lợi thì nước sẽ
nguy (Mạnh Tử).
Lời dạy của Bác từ nửa thế kỷ trước về tệ quan liêu, tham
nhũng: “Tham ô, lãng phí và tệ quan liêu là kẻ thù của nhân
dân, nó là kẻ thù khá nguy hiểm vì nó không mang gươm, mang
súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công
việc của ta…”
Để thực hiện chữ Liêm, theo Hồ Chí Minh, cần có tuyên
truyền và kiểm soát, giáo dục và pháp luật, từ trên xuống dưới,

từ dưới lên trên. Bởi lẽ, theo Người, cán bộ các cơ quan, đoàn
thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay
nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp
ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”. Vì vậy, cán bộ phải thực
hành chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân Người nói:
“Mỗi người phải nhận ra rằng tham lam là một điều rất xấu hổ,
kẻ tham lam là có tội với nước, với dân”. Vì lẽ đó, hơn ai hết,
cán bộ phải thi đua thực hành liêm khiết để làm tấn gương cho
quần chúng noi theo. Theo Người, một dân tộc biết Cần, Kiệm,
Liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một
dân tộc văn minh, tiến bộ.
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, con thuyền cách
mạng Việt Nam đã vượt qua bao thử thách to lớn để từng bước
cập bến bờ thắng lợi. Ngày nay, sau hơn 20 năm đổi mới chúng
ta đã gặt hái được nhiều thắng lợi to lớn trên tất cả mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội: từ kinh tế đến văn hóa… Đặc biệt, con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng được nhận
thức rõ hơn. Song để đi tới mục tiêu CNXH, chúng ta con phải
vượt qua rất nhiều khó khăn thử thách. Trong đó, một trong
những thử thách lớn nhất đối với chúng ta là tình trạng thoái
hóa, biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ có chức, có
quyền, mà biểu hiện của nó là bất Liêm. Vì bất Liêm mà tham
ô, tham nhũng đã trở thành quốc nạn, quốc sỉ đang làm lệch
chuẩn những mục tiêu tốt đẹp của CNXH, làm băng hoại đạo
đức – phong hóa, làm cho dân không yên, đe dọa đến sự an
nguy của chế độ… Vì vậy, hơn lúc nào hết hiện nay toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân phải ra sức thực hành chữ Liêm.
Vào năm 1952, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
đang ở giai đoạn quyết liệt, vậy mà Bác vẫn phải vạch mặt một
loại kẻ thù khá nguy hiểm “nằm trong các tổ chức của ta”, đây

là một mặt trận không thể một phút buông lơi vũ khí. Khi cách
mạng đã giành thắng lợi, vấn đề càng trở nên cấp thiết, đúng
như Bác Hồ đã nói: “Có những người trong lúc đấu tranh thì
hăng hái, trung thành không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ,
không sợ quân địch, nghĩa là có công với cách mạng; song, đến
khi có ít nhiều quyền hạn ở trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ,
phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu không tự giác, cho nên
biến thành người có tội với cách mạng… Có những người miệng
thì nói: phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân, nhưng về vật
chất, dễ dàng phạm vào tham ô, lãng phí, hại đến tổ quốc, nhân
dân…”
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra bản chất của tệ quan
liêu, tham nhũng, nguồn gốc nguyên nhân phát sinh, phát triển
của tham nhũng cũng như tính phức tạp của cuộc đấu tranh
phòng chống các tệ nạn này. Ngay trong quá trình đi tìm đường
cứu nước, giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công
khai vạch trần, lên án nạn tham nhũng trong bộ máy chính
quyền thực dân ở Việt Nam. Trong tác phẩm "Bản án chế độ
thực dân pháp " Người đã dành hẳn một chương để viết về nạn
tham nhũng trong bộ máy cai trị, trong đó vạch trần những hành
vi tham nhũng của những kẻ luôn tự xưng là "Quan phụ mẫu"
của dân. Người đã chỉ ra thói phung phí tiền của dân cho việc
tham quan, triển lãm, ăn uống, tiếp khách, giải trí mua sắm biệt
thự, xe cộ và những thủ đoạn nhằm rút tiền từ việc nhận thầu
các công trình xây dựng, làm đường, khai man để chi tiêu, sử
dụng của nhân viên nhà nước vào làm việc riêng. Chính thói
tham lam, xa hoa, vô độ của bọn cai trị đã làm cho những gánh
nặng thuế khóa trên đôi vai của người dân thuộc địa càng trĩu
xuống và buộc họ phải đấu tranh lật đổ chế độ cai trị của chủ
nghĩa đế quốc thực dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng tệ

tham ô, lãng phí vốn là căn bệnh “tứ chứng nan y” của mọi nhà
nước và bất kỳ một nhà nước nào nếu như mà các hoạt động
của bộ máy nhà không được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của
nhân dân thì khó tránh khỏi tình trạng tham ô, lãng phí, Người
đã sớm vạch ra một số hành vi tham nhũng mà công chức nhà
nước thường dễ mắc phải, đó là tham ô của công, đục khoét
của dân, lợi dung của chung ăn hối lộ, Người đã nêu lên những
lỗi lầm rất nặng nề mà các nhân viên nhà nước đã phạm phải
như: Trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo.
Người kịch liệt lên án thói cậy thế: "Cậy mình ở trong ban này
nọ ngang tàng phóng túng muốn sao làm vậy, coi khinh dư luận
không nghĩ đến dân, quên rằng dân đã bầu mình ra để làm việc
cho dân, chứ không cậy thế với dân", "Đứng về phía cán bộ mà
nói tham ô là ăn cắp của công làm của tư, đục khoét của nhân
dân, ăn bớt của bộ đội, tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của
chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình,
đơn vị mình cũng là tham ô", "Tham ô là hành động xấu xa
nhất, tội lỗi nhất trong xã hội. Tham ô là trộm cắp của công,
chiếm của công làm của tư. Nó làm hại đến sự nghiệp xây dựng
nước nhà, hại đến công việc cải thiện đời sống của nhân dân,
hại đến đạo đức cách mạng của cán bộ và công nhân".
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ rất sớm chỉ ra hình dáng,
bản chất của tệ nạn tham nhũng, quan liêu, lãng phí, tính phức
tạp của cuộc đấu tranh chống lại các tệ nạn này mà Người còn
thể hiện tinh thần đấu tranh kiên quyết với các tệ nạn đó trong
việc tổ chức chỉ đạo phòng chống tham nhũng. Người phát
động quần chúng nhân dân tiết kiệm chống lãng phí, mặt khác
Người yêu cầu mọi cán bộ nhà nước phải rèn luyện tư tưởng
đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, phải cần kiệm
liêm chính, chí công, vô tư. Người cho rằng: "những người

trong các công sở từ làng cho đến Chính phủ trung ương đều có
nhiều hoặc ít quyền hành, đều dể tìm dịp phát tài hoặc xoay tiền
của chính phủ, hoặc đục khoét nhân dân. Nếu không giữ đúng
cần kiệm, liêm chính, chí công thì trở nên hủ hóa, biến thành
sâu mọt của dân”. Bên cạnh đó Người còn chỉ ra rằng: "Chống
tham ô lãng phí và bệnh quan liêu cũng quan trọng và cần kíp
như việc đánh giặc trên mặt trận. Đây là mặt trận tư tưởng và
chính trị muốn chống tham ô lãng phí, quan liêu thì phải dân
chủ, phê bình và tự phê bình, làm cho mọi người biết tự phê
bình mình và giám phê bình người. Phải để cho người phụ
trách thấy, để quân chúng thấy, tham ô, lãng phí, không thể nẩy
nở được”. Vì vậy, chống tham ô, lãng phí, quan liêu tốt thì
những người cán bộ trước hết phải hiểu rằng: "Nếu chính mình
tham ô bảo người ta liêm khiết có được không? Không được.
Mình trước hết phải siêng năng, trong sạch thì mới bảo người ta
trong sạch được. Phải thấy kẻ địch trong mình ta nó mạnh lắm.
Nó vô hình, vô ảnh, không dàn ra thành trận, luôn luôn lấn lút
trong mình ta. Nó khó thấy, khó biết, nên khó tránh. Nhưng đã
biết thì kiên quyết làm”. Chống tham ô, lãng phí, quan liêu là
cách mạng nên đi đôi với giải pháp chỉ đạo cuộc đấu tranh
chống tham nhũng toàn dân, toàn diện, Người đã kiên quyết xây
dựng và kiện toàn tổ chức bộ máy chống tham nhũng. Ngay sau
khi dành được chính quyền hơn 80 ngày, ngày 23/11/1946 Hồ
Chủ tịch đã ký sắc lệnh số 64 về việc thành lập Ban thanh tra
đặc biệt, sắc lệnh này quy định Ban thanh tra đặc biệt có quyền
"đình chỉ, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong UBND hay của
Chính phủ đã phạm lỗi trước khi mang ra Hội đồng chính phủ
hay tòa án đặc biệt xét xử. Tịch biên hoặc niêm phong tang vật
và dùng mọi cách điều tra để lập một hồ sơ mang một phạm
nhân ra tòa án đặc biệt". Đến ngày 18/ 01/1949, sắc lệnh số:

138/SL về tổ chức thanh tra Chính phủ đã quy định thêm chức
năng "thanh tra cả ủy ban kháng chiến hành chính và viên chức
về phương diện liêm khiết ". Ngoài việc ký sắc lệnh về tổ chức
thanh tra đặc biệt là tổ chức có tính chất chuyên trách chống
tham nhũng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường phát động các cuộc
vận động có tính chất chống tham nhũng thông qua triển khai
thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các quyết định của
Chính phủ, của Quốc hội như phát động phong trào" ba xây, ba
chống"... Trong các cuộc hội nghị ,các cuộc gặp mặt các cán bộ,
công chức tầng lớp nhân dân... Người luôn luôn nói đến đạo
đức cách mạng, giáo dục tinh thần cần, kiệm, liêm, chính chống
lãng phí, tham ô, chống bệnh quan liêu mệnh lệnh, kéo bè, kéo
cánh...
Bên cạnh các giải pháp phòng ngừa tham nhũng, Người
cũng còn rất chú trọng đến việc xử lý các hành vi tham nhũng,
kiên quyết trừng trị bọn tham nhũng cho dù những kẻ đó ở vị trí
nào trong xã hội. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký bản án tử
hình đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu đã tham ô
tài sản của quân đội, ăn chơi sa đọa. Qua sự việc này, thái độ
kiên quyết đấu tranh với tệ nạn tham nhũng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đem lại hiệu quả cao trong việc giáo dục đức liêm
khiết của cán bộ cách mạng. Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí
là “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng” thứ giặc nguy hiểm hơn
giặc ngoại xâm. Người phê bình những người “lấy của công
dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức”. Quan điểm của
chủ tịch Hồ Chí Minh là: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan lieu,
dù cố ý hay không, cũng là bạn động minh của thự dân và phong
kiến… Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”.
Ngày 27/11/1946, Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh ấn định hình phạt
tội đưa và nhận hối lộ với mức từ 5 đến 20 năm tù khổ sai và

phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Ngày 26/1/1946, Hồ
Chí Minh kí lệnh nói rõ tội tham ô, trộm cắp của công dân là tội
tử hình.
Nhìn lại lịch sử gần 60 năm xây dựng và phát triển đất
nước, việc phòng, chống tham nhũng luôn luôn được Chủ tịch
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm nhằm giáo dục, rèn luyện phẩm
chất đạo đức cho cán bộ, công chức, xây dựng chính quyền
liêm khiết. Hiện nay sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng
và lãnh đạo đã, đang làm thay đổi bộ mặt của đất nước và đời
sống của nhân dân, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên

×