Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.53 KB, 24 trang )

Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Bài tập lớn
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Thạc sỹ: Lê Thị Hoa
SV thực hiện: Nguyễn Thị Kiều Oanh
Lớp: Tư tưởng Hồ Chí Minh 16
MSV: CQ513799
1
Đề bài: Hãy tìm hiểu về tư tưởng thân dân của chủ tịch Hồ Chí Minh so với
các bậc tiền bối. Vấn đề này được Đảng và nhà nước ta hiện nay giải quyết
như thế nào?
Bài làm
Tư tưởng HCM là một hệ thống các quan điểm lý luận mang tính khoa
học và cách mạng về văn hóa và xây dựng nền văn hóa Việt Nam, được kết
tinh và chắt lọc những giá trị cả văn hóa phương Đông, phương Tây, của
truyền thống và hiện đại, của dân tộc và quốc tế.
Tiếp nhận dòng chảy văn hóa truyền thống của dân tộc và thời đại, Hồ
Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân. Không chỉ
dừng lại ở đó, Người còn luôn luôn tôn trọng, tin tưởng và đặt lợi ích của
nhân dân lên trên hết, trước hết. Chính vì vậy, cả cuộc đời của Người chỉ có
một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành. Đây chính là tư tưởng thân dân.
Vậy tư tưởng thân dân là gì?Và tại sao phải “thân dân”?
“ Thân dân” là phải hiểu dân, nghe được dân nói, nói được cho dân
nghe, làm được cho dân tin, là nhận biết được những nhu cầu của họ, biết
được họ đang suy nghĩ gì, trăn trở cái gì? Họ mong muốn những gì? Và họ
đang mong đợi gì ở người khác, nhất là ở người lãnh đạo, quản lý; phải biết
phát hiện và đáp ứng kịp thời những nhu cầu và lợi ích thiết thực của dân; là
nhìn thấy cả cái thực tại và vạch ra con đường đúng đắn cho dân phát triển; là
biết chia sẻ, đồng cảm và gần gũi với cuộc sống của dân, mọi suy nghĩ và


hành động đều xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của dân, phản ánh đúng tâm tư,
tình cảm, nguyện vọng của dân.
Thân dân, luôn coi dân là gốc là đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng
viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự đặt mình vào địa vị của người dân mà
mình đại diện để hiểu, suy xét, chia sẻ tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị, đề
xuất , mong muốn của họ. Có lắng nghe, thấu hiểu nguyện vọng chính đáng
của dân thì đại biểu dân cử mới thực hiện tốt việc “Việc gì có lợi cho dân ta
phải hết sức làm, việc gì hại đến cho dân ta phải hết sức tránh”. Bởi, ta có yêu
dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta.
2
Thân dân biểu hiện ở việc cán bộ, đảng viên thực hiện nghĩa vụ và
quyền lợi do pháp luật quy định. Tức là, phải trung thành với mục tiêu lý
tưởng, với chính sách, pháp luật của Nhà nước, phải hướng đến một nền hành
chính, một tổ chức, một bộ máy phục vụ nhân dân; luôn gương mẫu hoàn
thành kế hoạch được giao và nếu có chức vụ phải biết sử dụng quyền lực để
giao việc, kiểm tra, theo dõi, đánh giá, phê bình, khen thưởng một cách công
minh chính trực; phải lắng nghe và dựa vào quần chúng nơi cơ quan để xây
dựng quy chế làm việc, quy chế dân chủ cơ sở, quy chế chi tiêu tài chính, các
biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, làm cho cơ
quan đoàn kết nhất trí; không xu nịnh, không ưa nịnh, không chia bè chia
cánh, cục bộ, bản vị; phải luôn đề cao trách nhiệm vì dân để giải quyết nhanh
chóng, kịp thời những chế độ, chính sách liên quan đến người dân; phải thận
trọng trong việc xem xét, quyết định các vấn đề hệ trọng có ảnh hưởng đến
quyền bình đẳng, quyền lợi của các tầng lớp nhân dân. Khi nhân dân có ý
kiến, khiếu nại, tố cáo, kể cả tố cáo cá nhân mình, thì phải biết bình tĩnh lắng
nghe, phân tích và có thái độ kiên quyết sửa chữa khuyết điểm, nếu quyết
định của mình chưa đúng. Không né tránh, đùn đẩy, gây phiền hà và khó
khăn, tốn kém cho dân…
Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân. Đây là nguyên
tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta được Người kế thừa

và nâng lên một bước và là phạm trù cơ bãn của chủ nghĩa duy vật lịch sử:
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch
sử.
Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng
vững chắc vào sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh
giá đúng vai trò của lực lượng nhân dân. Người viết: “Có lực lượng dân
chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có thì việc gì
làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản
đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ
mãi không ra”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định
trên tất cả các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những
chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn
như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước. Người dân có
quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự
do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập... trong khuôn khổ
luật pháp cho phép. Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương,
làm chủ cơ quan nơi mình sống và làm việc. Người dân có quyền làm chủ các
3
đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội thông qua bầu cử và bãi miễn. Đúng như
Hồ Chí Minh nói: "Mọi quyền hạn đều của dân". Cán bộ từ Trung ương đến
cán bộ ở các cấp các ngành đều là "đầy tớ" của dân, do dân cử ra và do dân
bãi miễn.
Hồ Chí Minh giải thích rằng: dân là gốc của nước. Dân là người đã hi
sinh máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì
không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo
vệ, do vậy dân là chủ của nước. Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người
con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân.
Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ
cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và

phát triển được nếu như không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ
trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu không có dân, sự
tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì.
Từ xưa đến nay, nhân dân bao giờ cũng là lực lượng chính trong tất cả
các xã hội, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng trước Cách
mạng Tháng Mười Nga, trước học thuyết Mác- Lênin, chưa có cuộc cách
mạng nào giải phóng triệt để cho nhân dân, chưa có học thuyết nào đánh giá
đúng đắn về nhân dân.
Theo Người, người dân chỉ thực sự trở thành người làm chủ khi họ được
giáo dục, khi họ nhận thức được rõ ràng đâu là quyền lợi họ được hưởng, đâu
là nghĩa vụ họ phải thực hiện. Để thực hiện được điều này, một mặt, bản thân
người dân phải có ý chí vươn lên, mặt khác, các tổ chức đoàn thể phải giúp đỡ
họ, động viên khuyến khích họ. "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" và nếu
nhân dân không được giáo dục để thoát khỏi nạn dốt thì mãi mãi họ không thể
thực hiện được vai trò làm chủ.
Người dân chỉ có thể thực hiện được quyền làm chủ khi có một cơ chế
bảo đảm quyền làm chủ của họ. Đảng phải lãnh đạo xây dựng được một Nhà
nước của dân, do dân, vì dân; với hệ thống luật pháp, lấy việc bảo vệ quyền
lợi của dân làm mục tiêu hàng đầu, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân
Tháng 10-1945, trong thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và
làng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “...Nếu nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì... Chúng ta
phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều
là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để
đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi
4
cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng
ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Người yêu cầu cán bộ
từ Chủ tịch nước trở xuống đều phải là đầy tớ trung thành của nhân dân. Theo

Người: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Ủy viên này khác
là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan
cách mạng”
Từ thực tế, Bác đã thẳng thắn phê phán nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp
cao, khi xuống cấp dýới triển khai công việc thì khệnh khạng như “ông quan”
và nội dung truyền đạt thì rất đại khái, hình thức, vì vậy mà quần chúng
không hiểu và rất sợ đi họp. Đó là bệnh xa quần chúng, bệnh hình thức, không
phải vì lợi ích của quần chúng.
Việc đặt ra chương trình làm việc, kế hoạch hành động, tuyên truyền,
nhiều cán bộ cũng không hỏi xem quần chúng cần cái gì, muốn nghe, muốn
biết cái gì, “chỉ mấy ông cán bộ đóng cửa lại mà làm, ngồi ỳ trong phòng giấy
mà viết, cứ tưởng những cái mình làm ra là đúng, mình viết là hay. Nào có
biết, cách làm chủ quan đó, kết quả là “đem râu ông nọ chắp cằm bà kia”,
không ăn thua, không thấm thía, không lợi ích gì cả”.
Là người phục vụ nhân dân, cán bộ Đảng, Nhà nước, đoàn thể đồng
thời là người lãnh đạo, người hướng dẫn của nhân dân. Theo Người: Nếu
không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng, nếu không có Chính
phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường. Cán bộ, đảng viên phải làm thế nào để
xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của
nhân dân. Điều này cho thấy, Hồ Chí Minh không bao giờ đối lập vai trò
người lãnh đạo với người đày tớ của nhân dân trong bản thân người cán bộ
của Đảng và Nhà nước, mà trái lại Người yêu cầu phải làm thế nào để xứng
đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân
dân. Là lãnh đạo không có nghĩa là đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Bởi vì: “Chế độ
ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo,
nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã,
bất kỳ cấp nào và ngành nào đều phải là người đày tớ trung thành của nhân
dân”
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nước lấy dân làm gốc; Gốc có
vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Người rất tâm đắc

với câu nói dân gian: “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân
liệu cũng xong”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu hiện trước hết của dân là gốc là phải
tin ở dân, gần gũi dân, và biết dựa vào dân; Phải có ý thức rõ “dân chúng rất
5
khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng”. Muốn hoàn thành nhiệm vụ, muốn
biến đường lối chủ trương của Đảng thành phong trào quần chúng, thành sức
mạnh cách mạng thì Đảng phải có đường lối đúng đắn; cán bộ đảng viên
“phải liên lạc mật thiết với dân chúng, xa rời dân chúng là cô độc. Cô độc thì
nhất định thất bại”. Cán bộ đảng viên còn phải học hỏi dân, “nếu không học
hỏi dân thì không lãnh đạo được dân”, mà “muốn hiểu biết, học hỏi dân thì ắt
phải có nhiệt thành, có quyết tâm”. Theo Hồ Chí Minh phải thực hiện dân chủ
với dân để phát huy tinh thần làm chủ của dân là cốt lõi của vấn đề dân là gốc.
Người thường nói: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân làm chủ”.
Vậy quyền hạn, nghĩa vụ của người làm chủ phải thế nào? Câu trả lời của
Người là: “Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải
là chửi”. Và người yêu cầu: người làm chủ trước hết phải làm tròn bổn phận
công dân, tức là phải tuân theo pháp luật Nhà nước; tuân theo kỷ luật lao
động; giữ gìn trật tự chung; nộp thuế đúng kỳ, bảo vệ tài sản công cộng; bảo
vệ Tổ Quốc. “Phải chăm lo việc nước như việc nhà”, “phải biết tự mình lo
toan gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ”; “làm chủ sao cho ra làm chủ,
không phải làm chủ là muốn ăn bao nhiêu thì ăn, làm bao nhiêu thì làm”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ CNXH đã ghi: “Sự
nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính người
dân là người làm nên thắng lợị lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất
phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng
là sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ
dẫn đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất
nước”.Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay phần mở đầu đã nhấn mạnh:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền. Đảng gắn bó mật thiết với

nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân
dân; dựa vào dân để xây dựng Đảng”. Trang Di chúc bất hủ của Chủ tịch Hồ
Chí Minh để lại cho Đảng ta và nhân dân ta, Người đặc biệt nhấn mạnh, tăng
cường quan hệ giữa Đảng với nhân dân: "Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh
đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người
đầy tớ thật trungthành của nhân dân”.Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những
quan niệm sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử và mối quan hệ giữa
Đảng với quần chúng nhân dân. Người không chỉ khẳng định dân là gốc của
nước, mà còn tôn vinh nhân dân: ''Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân
dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đòan kết của nhân dân''.
Người còn nói, nhân dân là người xây dựng, là người đổi mới, làm nên sự
nghiệp lớn, mọi quyềnhành và lực lượng đều ở nhân dân.
6
Lịch sử đã từng chứng minh, một chế độ chính trị - xã hội chỉ tồn tại
được khi nào có khả năng tập hợp, đoàn kết được quảng đại quần chúng nhân
dân. Trong những giai đoạn cách mạng trước, sở dĩ Đảng ta luôn luôn giữ
vững được vai trò lãnh đạo của mình, bởi nhờ có sự ủng hộ, che chở, bảo vệ
của nhân dân. Ngày nay, đứng trước cuộc đấu tranh bài trừ các tệ nạn xã hội,
trước hết là làm trong sạch các tổ chức đảng, bộ máy Nhà nước, khắc phục tệ
quan liêu, tham nhũng và sự tha hóa đạo đức, phẩm chất của một bộ phận cán
bộ, đảng viên chỉ có thể thực hiện đạt hiệu quả khi nào các tổ chức đảng, các
cấp ủy đảng thực sự tin ở dân, dựa vào sự tham gia kiểm tra, giám sát của
nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tham gia giám sát cán bộ, đảng viên
và tổ chức dảng còn là quyền và nghĩa vụ của nhân dân đối với Đảng. Đối với
một Đảng cầm quyền, Đảng có sứ mệnh lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị
và toàn xã hội tiến hành công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN.
Do đó, toàn bộ cuộc sống từ vật chất đến tinh thần, văn hóa của mỗi người
dân trong xã hội đều gắn với sự lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng có trong
sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên có tiên phong gương mẫu thì mới bảo

đảm cho sự lãnh đạo của Đảng thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất
nước, và cũng nhờ đó mà cuộc sống của nhân dân được đảm bảo, cải thiện và
nâng cao. Trái lại, cán bộ, đảng viên tiêu cực, tha hóa, tổ chức đảng không
trong sạch, vững mạnh thì không chỉ làm cho tổ chức đảng bị rệu rã, dẫn đến
mắc sai lầm, thất bại mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống, cuộc
sống của nhân dân. Do vậy mà việc giám sát cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng
vừa là một quyền cơ bản không thể thiếu của công dân, vừa là nghĩa vụ, trách
nhiệm vẻ vang của nhân dân đối với Đảng. Nhân dân giám sát cán bộ, đảng
viên và tổ chức đảng là một nội dung về quyền làm chủ của nhân dân nhằm
xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh và từ đó cũng
nhằm bảo vệ lợi ích thiết thân, chính đáng, hợp pháp của nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Dân chủ là bản chất của chế độ và của Đảng ta. Bác Hồ đã
khẳng định: ''Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị
của toàn dân... Làm cho mọi công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý
Nhà nước". 76 năm qua, chính nhờ bắt rễ sâu rộng trong quần chúng, đường
lối chính trị được lòng dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, cho nên Đảng và
nhân dân ta đã kết thành một khốivững chắc, quan hệ máu thịt với nhân dân là
cội nguồn sức mạnh to lớn của Đảng ta. Ở đâu và lúc nào, tổ chức đảng, cán
bộ, đảng viên thường xuyên chăm lo lợi ích của nhândân, sống đồng cam
cộng khổ với dân, mọi việc làm đều vì lợi ích của dân, thì ở đó Đảng và dân
có mối quan hệ tốt đẹp; cán bộ, đảng viên được dân tin, dân phục, dân theo.
Trái lại, ở đâu và lúc nào tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên xa dân, quay lưng
lại với dân, quan liêu, thậm chí trù dập, ức hiếp dân thì ở đó sẽ bị dân oán
ghét, chê trách, bất hợp tác. Qua 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, với việc
phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống, mở mang dân trí, dân chủ trong
7
xã hội, Đảng ta ngày càng củng cố được niềm tin của nhân dân, khơi dậy
được những tiềm năng, tạo ra được những nguồn sinh lực của cách mạng. Ý
Đảng, lòng dân là sức mạnh vô tận.
Bài học "Lấy dân làm gốc" để xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được

tiến hành đồng bộ trên nhiều mặt cả về kinh tế, chính trị, tư tưởng... để cùng
tác động đến đời sống, tâm lý, tư tưởng các tầng lớp nhân dân, tạo nên sự
chuyển biến tích cực trong thái độ, tình cảm, tâm lý, ý thức của từng người
dân. Đời sống vật chất và đời sống tinh thần của các tầng lớp nhân dân không
ngừng được cải thiện và nâng cao, dân chủ XHCN được củng cố, mở rộng; tệ
quan liêu, tham nhũng, tiêu cực bị ngăn chặn và đẩy lùi; Đảng vững mạnh,
nâng cao được sức chiến đấu, bộ máy nhà nước trong sạch, thật sự của dân,
do dân, vì dân, nâng cao được hiệu lực quản lý, thì sẽ được lòng dân. Đảng vì
dân, dân tin ở Đảng, ra sức góp phần xây dựng Đảng và bảo vệ Đảng, bảo vệ
Nhà nước, bảo vệ chế độ XHCN của chúng ta.
Theo Người, thiết thực nhất của việc bồi dưỡng “cái gốc” là phải thường
xuyên chăm lo đời sống cho dân, chăm lo lợi ích chính đáng của dân. Người
thường nhắc tới những câu của người xưa “có thực với vực được đạo”, “dân
dĩ thực vi thiên”. Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Đối với nhân dân
không thể lý luận suông”. Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức
chăm lo đời sống của dân: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân
rét là Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có
lỗi.Nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm dân là gốc là quan điểm khoa
học, toàn diện. Đó là sự kế thừa những tinh hoa dân tộc, là sự vận dụng sáng
tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Từ thực tiễn cuộc sống, Hồ Chí Minh lưu ý: “Bất kỳ nơi nào có quần chúng,
thì nhất định có ba hạng người: hạng hăng hái, hạng vừa vừa và hạng kém…
Người lãnh đạo phải dùng hạng hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh đạo, do
hạng hăng hái đó mà nâng cao hạng vừa vừa và kéo hạng kém lên. Phải học
hỏi dân chúng, nhưng “không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt
theo”; phải “tìm ra mâu thuẫn trong những ý kiến khác nhau, xem cái nào
đúng, cái nào sai” để vận dụng.
Một sự kiện được nhiều người nhắc tới là tháng 10/1949 khi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn quyết liệt, Chủ tịch Hồ

Chí Minh viết bài báo Dân vận. Người diễn đạt rất khái quát: “Bao nhiêu lợi
ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền từ xã đến
Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Công việc đổi mới, xây dựng là trách
nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Đoàn
8
thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân. Quan điểm của Người thật rõ ràng: Nhà nước ta là Nhà
nước của dân, do dân, vì dân.
Điều mà cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh nung nấu trăn trở là vấn đề
thực hiện dân chủ với dân; làm thế nào để nhân dân “biết dùng quyền dân
chủ” và “hưởng quyền dân chủ”. Ngày 6/1/1946, chỉ bốn tháng sau khi khai
sinh nền Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ lâm thời do Người đứng đầu đã tổ
chức cuộc tổng tuyển cử phổ thông, trực tiếp, bình đẳng lần đầu tiên trong
lịch sử Việt Nam. Tháng 11/1946, Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 2 đã thôngqua
bản Hiến pháp do Người chỉ đạo soạn thảo. Nhà nước dân chủ, pháp quyền từ
ý tưởng của Người đã dần dần trở thành hiện thực trên đất nước Việt Nam.
Quan điểm của Người trong những sự kiện lịch sử này rất mẫu mực, rõ ràng:
“Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người
có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà”, “Hễ là những người muốn lo
việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu
cử”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước của dân còn bao hàm việc dân có
quyền bãi miễn Chính phủ và nhân viên chính quyền Nhà nước các cấp, nếu
họ có tư tưởng hoặc việc làm có hại đến nhà nước, hại đến dân. Nhà nước
Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập là Nhà nước kiểu mới: Nhà
nước của dân. Sức mạnh và sự trường tồn của nhà nước bắt nguồn từ lực
lượng toàn dân đoàn kết, với tinh thần làm chủ - tự chủ. Bởi thế nhà nước ta
còn là nhà nước do dân. Bác viết:“Trong thế giới không gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết của nhân dân”, “Không có lực lượng nhân dân thì việc nhỏ
mấy, dễ mấy làm cũng không xong”; “Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải

đoàn kết thành một khối”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân, do dân phải được thể
hiện ở các chủ trương, chính sách của nhà nước trong mọi mặt đời sống xã
hội là vì dân. Ngay sau khi nước nhà dành được độc lập, Người nói rõ: “…
nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhân dân đã và sẽ
mãi mãi là người làm nên lịch sử. Thực hiện tốt Di huấn của Bác về lấy dân
làm gốc, chắc chắn bộ máy Nhà nước ta sẽ “chạy” đều, hiệu quả quản lý điều
hành chắc chắn có hiệu lực cao. Đó là việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
to lớn
9

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×