Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

trình bày mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phân tích thực trạng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.05 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
KHOA TRIẾT HỌC

BÀI TIỂU LUẬN

Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất. Phân tích thực trạng của lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay? Phương hướng phát triển lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất ở nước ta?

Tên GVHD: Hán Thị Hồng Liên
Họ tên: Hoàng Đinh Phong
Mã sinh viên: 2621230399
Lớp: DD26.01


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

MỞ ĐẦU………………………………………………….........…………..3
1. Lý do chọn đề tài
2. Tính cấp thiết của đề tài
LỜI CẢM ƠN……………………………………………………………....5
LỜI CAM ĐOAN……………………………………………………….…..6
NỘI DUNG...................................................................................................7
I.
Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất.


1. Lực lượng sản xuất
2. Quan hệ sản xuất
3. Mối liên hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
II.
Phân tích thực trạng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
1. Nước ta trước thời kì đổi mới
2. Nước ta hiện nay
3. Kết luận
III. Phương hướng phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta.
1. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được
thể hiện thành một quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển xã hội loài
người
2. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong 35 năm qua nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng,
phát trển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
3. Đề xuất một số vấn đề đặt ra về nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để
tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất.
KẾT LUẬN......................................................................................................20


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lồi người đã trải qua năm phương thức sản xuất đó là: Nguyên thuỷ, chiếm
hữu nô lệ, xã hội phong kiến, , tư bản chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa. Tư duy phát
triển, nhận thức của con người không dừng lại ở một chỗ. Từ khi sản xuất chủ
yếu bằng hái lượm săn bắt, trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu thì ngày nay trình

độ khoa học đạt tới mức tột đỉnh. Khơng ít các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu
đổ sức bỏ công cho các vấn đề này cụ thể là nhận thức con người, trong đó có
triết học. Với ba trường phái trong lịch sử phát triển của mình chủ nghĩa duy vật,
chủ nghĩa duy tâm và trường phái nhị nguyên luận. Nhưng họ đều thống nhất
rằng thực chất của triết học đó là sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất
với lực lượng sản xuất như thống nhất giữa hai mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của
nền sản xuất xã hội. Tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất được Mác và Ănghen khái quát thành qui luật về sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Từ những lý luận trên đưa Mác Ănghen vươn lên đỉnh cao trí tuệ của nhân loại. Khơng chỉ trên phương diện triết
học mà cả chính trị kinh tế học và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Dưới những hình
thức và mức độ khác nhau, dù con người có ý thức và mức độ khác nhau, dù con
người có ý thức được hay khơng thì nhận thức của hai ông về qui luật vẫn xuyên
suốt lịch sử phát triển. Biện chứng quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất tạo
điều kiện cho sinh viên nói chung và em nói riêng có được một nhận thức về sản
xuất xã hội. Đồng thời mở mang được nhiều lĩnh vực về kinh tế. Thấy được vị trí,
ý nghĩa của nó. Em mạnh dạn đưa ra nhận định của mình về đề tài "Quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
2. Tính cấp thiết của đề tài
Qua phần lí luận trên ta có thể thấy việc nghiên cứu mối quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hết sức cần thiết. Đặc
biệt trong thời kỳ hiện nay chủ nghĩa xã hội lại có nhiều thay đổi và biến động
một trong những nguyên nhân tan rã của hệ thống Xã hội chủ nghĩa là do các
nước Chủ nghĩa xã hội đã xây dựng mơ hình Chủ nghĩa xã hội khơng có sự
phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Ở nước ta cũng vậy, sau
1945 miền Bắc tiến lên Chủ nghĩa xã hội và cả nước là sau năm 1975. Trong
quá trình đổi mới đất nước, do nóng vội nên Đảng ta đã mắc phải những sai

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay



triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

lầm là duy trì q lâu quan hệ sản xuất cố hữu đó là chính sách bao cấp tập
trung dân chủ. Chính vì lẽ đó mà trong suốt những năm đó nền kinh tế nước ta
chậm phát triển và rơi vào tình trạng khủng hoảng trong những năm đầu thập
kỉ 80. Điều quan trọng hơn là Đảng ta đã nhận thức được điều đó và nhanh
chóng thơng qua Đại hội Đảng VI và các kỳ đại hội tiếp sau đó. Trong thời kỳ
quá độ có nhiều vấn đề phức tạp cần phải giải quyết bởi vì nó là bước chuyển
tiếp của một hình thái kinh tế- xã hội này sang mội hình thái kinh tế- xã hội
khác. Cho nên em muốn chọn đề tài “Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất” để nghiên cứu.

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin gửi lời tri ân sâu sắc đến cô Hán Thị Hồng Liên Trong
quá trình tìm hiểu và học tập bộ mơn Triết học Mác - Lênin, em đã nhận được sự
giảng dạy và hướng dẫn rất tận tình, tâm huyết của cơ.Cơ đã giúp em tích lũy
thêm nhiều kiến thức hay và bổ ích. Từ những kiến thức mà cô truyền đạt, em
xin trình bày lại những gì mình đã tìm hiểu về vấn đề về mối quan hệ biện chứng
giữa lực lượng và quan hệ sản xuất gửi đến cô.
Tuy nhiên, kiến thức về bộ môn Triết học Mác - Lênin của em vẫn cịn những
hạn chế nhất định. Do đó, khơng tránh khỏi những thiếu sót trong q trình hồn
thành bài tiểu luận này. Mong cơ xem và góp ý để bài tiểu luận của em được
hồn thiện hơn.
Kính chúc cơ hạnh phúc và thành công hơn nữa trong sự nghiệp “trồng người”.
Kính chúc cơ ln dồi dào sức khỏe để tiếp tục dìu dắt nhiều thế hệ học trị đến

những bến bờ tri thức. 
Em xin chân thành cảm ơn!

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam kết tồn bộ nội dung của đề tài là kết quả nghiên cứu của riêng em.
Các kết quả, số liệu trong đề tài là trung thực và hoàn toàn khách quan. Em hoàn
toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

NỘI DUNG
I. Trình bày mới quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất.
1. Lực lượng sản xuất
– Lực lượng sản xuất:là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành sức
mạnh cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người.
Lực lượng sản xuất bao gồm hai bộ phận cơ bản: tư liệu sản xuất và người lao
động.
Tư liệu sản xuất là những tư liệu để tiến hành sản xuất, bao gồm tư liệu lao động
và đối tượng lao động. Trong đó tư liệu lao động bao gồm cơng cụ lao động
( máy móc,…) và đối tượng lao động khác ( phương tiện vận chuyển và bảo
quản sản phẩm……). Đối tượng lao động là những yếu tố nguyên nhiên vật liệu

có sẵn trong tự nhiên (gỗ, than đá,…) hoặc nhân tạo (pôlime,….).
Người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, là người  tạo ra và
sử dụng tư liệu lao động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm.
Ngày nay, với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã khiến cho tri
thức khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. 

2.

Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người và con người trong quá trình
sản xuất vật chất. Theo một nghĩa chung nhất thì quan hệ sản xuất là một yếu tố
của phương thức sản xuất, là mặt xã hội của phương thức sản xuất. Quan hệ sản
xuất là quan hệ kinh tế của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Mối quan
hệ giữa con người và con người trong quan hệ sản xuất bao giờ cũng thể hiện
tính chất, bản chất của quan hệ lao động và dưới góc độ chung nhất nó thể hiện
bản chất kinh tế của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Quan hệ sản xuất
mang tính khách quan độc lập với ý thức của con người. Kết cấu của quan hệ
sản xuất bao gồm ba mặt quan hệ cơ bản sau:
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Xét về mặt lịch sử quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất đã được thể hiện dưới hai hình thức cơ bản, đó là sở hữu tư nhân
và sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất.

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

Quan hệ tổ chức quản lý sản xuất. Quan hệ này hoàn toàn phụ thuộc vào quan
hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Bởi vì, những chủ thể xã hội nào nắm tư liệu
sản xuất chủ yếu của xã hội, thì họ sẽ là người nắm vai trị tổ chức và quản lý

sản xuất vật chất của xã hội.
Quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Quan hệ này phụ thuộc vào quan hệ sở
hữu đối với tư liệu sản xuất. Bới vì, chủ thể xã hội nào nắm tư liệu sản xuất thì
đồng thời họ là người có mức hưởng thụ nhiều hơn, và là người có quyền quyết
định phân phối sản phẩm vật chất của xã hội.
Trong ba mặt quan hệ của quan hệ sản xuất đều có sự tác động qua lại lẫn nhau.
Nhưng quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan hệ giữ vai trò quyết định trong
quan hệ sản xuất. Đồng thời quan hệ sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội là sự
khác nhau về bản chất và có tính chất đối lập.

3. Mối liên hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
– Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ
thống nhất biện chứng, ràng buộc và tác động lẫn nhau tạo thành quá trình sản
xuất hiện thực.
+ Lực lượng sản xuất cà quan hệ sản xuất là hai mặt tất yếu của quá trình sản
xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của q trình sản xuất,
cịn quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của q trình đó.
+ Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau,
thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá
trình sản xuất hiện thực của xã hội. Tương ứng với thực trạng phát triển nhất
định của lực lượng sản xuất cũng tất yếu địi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù
hợp với thực trạng đó trên cả ba phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức –
quản lý và phân phối. Chỉ có như vậy, lực lượng sản xuất mới có thể được duy
trì, khai thác – sử dụng và không ngừng phát triển. Ngược lại, lực lượng sản
xuất của một xã hội chỉ có thể được duy trì, khai thác – sử dụng và phát triển
trong một hình thái kinh tế – xã hội nhất định.
– Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ biện
chứng trong đó vai trị quyết định thuộc về lực lượng sản xuất, còn quan hệ sản
xuất sẽ giữ vai trò tác động trở lại lực lượng sản xuất.
– Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ có

bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập làm phát sinh mâu thuẫn
cần được giải quyết để thúc đẩy sự tiếp tục phát triển của lực lượng sản xuất.

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

II. Phân tích thực trạng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1. Nước ta trước thời kì đổi mới.
– Thời kỳ trước đổi mới: Giai đoạn này kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu nay càng
gặp nhiều khó khăn sau cuộc chiến tranh nhiều gian khổ. Lực lượng sản xuất nước
ta thời kỳ này cịn thấp và chưa có nhiều điều kiện để phát triển. Cụ thể:
+ Trình độ của người lao động thấp, hầu hết khơng có chun môn, tay nghề, phần
lớn lao động chưa qua đào tạo. Lao động chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp và dựa trên kinh nghiệm ông cha để lại. Tư liệu sản xuất nhất là công cụ lao
động ở nước ta thời kỳ này cịn thơ sơ, lạc hậu.
+ Trong hoàn cảnh này, Đảng và Nhà nước đã chủ trương xây dựng quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm hai
thành phần kinh tế: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành
phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
+ Trong thời kỳ đầu, sau giải phóng miền Bắc, bước vào xây dựng chủ nghĩa xã
hội, chúng ta đã nhấn mạnh thái q vai trị “tích cực” của quan hệ sản xuất, dẫn
đến chủ trương quan hệ sản xuất phải đi trước, mở đường để tạo động lực cho sự
phát triển lực lượng sản xuất.

2. Nước ta hiện nay
 Rút kinh nghiệm từ những sai lầm ở giai đoạn trước, Đại hội Đảng lần thứ VI năm
1986 đã thừa nhận thẳng thắn những khuyết điểm, chủ trương đổi mới phương

thức quản lý kinh tế. Đây là dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy lý
luận của Đảng về con đường và phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta,
thể hiện sự nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; đồng thời, đã đặt cơ sở, nền tảng
quan trọng để các nhân tố mới ra đời, tạo tiền đề để từng bước phát triển nền kinh
tế của đất nước. Chính vì vậy đến nay, nước ta đã đạt được nhiều thành tự to lớn.
– Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật chất” cho quan
hệ sản xuất mới.
– Đảng và Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều chính sách và pháp luật để hoàn
thiện các mặt của quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa về sở
hữu, tổ chức – quản lý và phân phối.
– Trong những năm đổi mới, nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện
pháp để tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các quan hệ song phương
và tổ chức đa phương, như ASEAN, APEC, ASEM, WTO…, thu hút vmạnh mẽ

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

vốn đầu tư nước ngồi (FDI, ODA…), xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở
rộng thị trường xuất nhập khẩu, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các
nguồn lực về vốn, khoa học  và công nghệ.
3. Kết luận
   Từ những tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen, Lênin có thể tóm lược những nội
dung cốt lõi của mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất như sau:
      - Một là, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai thành tố cơ bản cấu
thành nên phương thức sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, ràng
buộc lẫn nhau trong quá trình sản xuất xã hội. Mỗi phương thức sản xuất hay q

trình sản xuất xã hội khơng thể tiến hành được nếu thiếu một trong hai thành tố
trên. Trong đó, lực lượng sản xuất chính là nội dung vật chất, kỹ thuật, cơng nghệ
của q trình này cịn quan hệ sản xuất đóng vai trị là hình thức kinh tế của q
trình đó. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất phải được
điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp, thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Chỉ có sự thích ứng, phù hợp đó của quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất
mới có thể tiếp tục phát triển.
 - Hai là, trong mỗi phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai trị quyết
định. Tính quyết định của lực lượng sản xuất  đối với quan hệ sản xuất được thể
hiện trên hai mặt thống nhất với nhau: lực lượng sản xuất nào thì quan hệ sản xuất
đó và cũng do đó mà khi lực lượng sản xuất thay đổi thì cũng tất yếu địi hỏi phải
có những thay đổi nhất định đối với quan hệ sản xuất. 
 - Ba là, quan hệ sản xuất ln có khả năng tác động ngược trở lại, đối với việc
bảo tồn, khai thác, sử dụng và phát triển lực lượng sản xuất.  Quá trình tác động trở
lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất có thể diễn ra với hai khả năng:
tác động tích cực hoặc tiêu cực. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với nhu cầu khách
quan bảo tồn, khai thác, sử dụng và phát triển của lực lượng sản xuất thì có tác
động tích cực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại, nếu trái với nhu
cầu khách quan đó thì nhất định sẽ diễn ra quá trình tác động tiêu cực.  Lực lượng
sản xuất phát triển khơng ngừng, trong khi đó quan hệ sản xuất lại có tính ổn định
tương đối, vì nó gắn với các thiết chế xã hội, lợi ích của giai cấp cầm quyền. Quan
hệ sản xuất mang tính ổn định tương đối trong bản chất xã hội của nó. Chính vì thế
mà Các Mác đã khẳng định: “Tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành
cái mà người ta gọi là những quan hệ sản xuất, là xã hội, và hơn nữa hợp thành
một xã hội ở vào một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính
chất độc đáo riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư bản đều là tổng
thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại đại biểu cho một giai
đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại”.  Sự tác động biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thúc đẩy xã hội lồi người phát triển khơng
ngừng như một q trình lịch sử  - tự nhiên.


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

         - Bốn là, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là quan hệ
mâu thuẫn biện chứng, tức là mối quan hệ thống nhất của hai mặt đối lập.  Sự vận
động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là đi
từ sự thống nhất đến mâu thuẫn và một khi mâu thuẫn được giải quyết thì tái thiết
lập sự thống nhất mới; quá trình này lặp đi lặp lại trong lịch sử tạo ra quá trình vận
động phát triển của phương thức sản xuất.

III.

Phương hướng phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
ở nước ta.

1. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được
thể hiện thành một quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển xã hội loài
người
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được thể hiện
thành một quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển xã hội loài người - quy luật
về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
trong phương thức sản xuất. Quy luật này do C. Mác phát hiện ra và đó là quy luật
khách quan, cơ bản, phổ biến tác động trong tồn bộ tiến trình lịch sử nhân loại và
cùng với các quy luật khác làm cho lịch sử loài người vận động từ thấp đến cao, từ
hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn, quy định
sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Như chúng ta đã biết: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cấu thành

của phương thức sản xuất, có tác động biện chứng với nhau một cách khách quan.
Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự
phù hợp ở đây có nghĩa quan hệ sản xuất phải là “hình thức phát triển” tất yếu của
lực lượng sản xuất, tạo địa bàn, động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Về
mặt khoa học cần nhận thức sự phù hợp một cách biện chứng, lịch sử - cụ thể, là
một quá trình, trong trạng thái động. Lực lượng sản xuất là yếu tố động, biến đổi
nhanh hơn, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, biến đổi chậm hơn,
thậm chí lạc hậu hơn. Do đó, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối
lập biện chứng trong phương thức sản xuất. C. Mác đã chứng minh vai trò quyết
định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất, đồng thời cũng chỉ ra tính
độc lập tương đối của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản
xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất, tác
động đến lợi ích của người sản xuất, từ đó hình thành một hệ thống những yếu tố
hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất trong phương
thức sản xuất.  Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật cơ bản nhất, quy luật gốc của sự phát triển xã hội. Sự biến đổi,
phát triển xã hội loài người, xét đến cùng là bắt nguồn từ quy luật này. Khác với

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

quy luật của tự nhiên, quy luật xã hội là quy luật hoạt động của con người, tồn tại
và tác động thông qua hoạt động của con người, gắn với điều kiện thực tiễn, hoàn
cảnh lịch sử - cụ thể. Vì vậy, việc nhận thức và vận dụng quy luật xã hội nói
chung, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất nói riêng phải phù hợp với điều kiện thực tiễn cụ thể của từng quốc
gia dân tộc, từng giai đoạn phát triển của đất nước và sự biến đổi của tình hình thế
giới.

         Ngược dịng thời gian, chúng ta thấy: Sau Cách mạng tháng Mười năm 1917,
nước Nga tuy đã trải qua giai đoạn phát triển trung bình của chủ nghĩa tư bản,
trong thời kỳ nội chiến, chống thù trong giặc ngồi, V.I. Lê-nin và những người
Bơn-sê-vích cũng đã tưởng rằng có thể áp dụng “chính sách cộng sản thời chiến”
để tiến nhanh lên chủ nghĩa cộng sản. Song, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội
mùa xuân năm 1921 đã cho thấy đây là một sai lầm rất nghiêm trọng có hại cho sự
phát triển của nước Nga. Nhận thức được vấn đề, V.I. Lê-nin đã chỉ rõ: “Chúng ta
chưa tính tốn đầy đủ mà đã tưởng là - có thể trực tiếp dùng pháp lệnh của nhà
nước vô sản để tổ chức theo kiểu cộng sản chủ nghĩa trong một nước tiểu nông,
việc nhà nước sản xuất và phân phối sản phẩm. Đời sống thực tế đã vạch rõ sai lầm
của chúng ta”(2). V.I. Lê-nin đã kịp thời phê phán bệnh ảo tưởng lúc bấy giờ vì
khơng sát thực tiễn trong việc vận dụng quy luật. Người đã quyết định chuyển sang
chính sách kinh tế mới (NEP) thay thế chế độ trưng thu lương thực bằng chế độ
thuế lương thực, khuyến khích phát triển quan hệ hàng hóa - tiền tệ, quan hệ thị
trường, cho phép phát triển kinh tế tư nhân, cá thể, tư bản tư nhân, chính sách tơ
nhượng, cho phép sử dụng chuyên gia tư sản trong phát triển kinh tế và phương
pháp quản lý kinh tế phù hợp với thực tiễn của nước Nga.
Ở nước ta sau cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất Tổ quốc
30/4/1975 đến trước thời kỳ đổi mới 1986, thực hiện cơ chế quản lý kinh tế kế
hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Mặc dù đã huy động được sức người, sức
của cho kháng chiến và kiến quốc, nhưng kinh tế tăng trưởng chủ yếu theo chiều
rộng, hiệu quả thấp. Do chưa nhận thức được hiện thực khách quan, nên không
thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, coi cơ chế thị trường chỉ là
thứ yếu bổ sung cho kế hoạch hoá; thủ tiêu cạnh tranh, triệt tiêu động lực kinh tế
đối với người lao động, kìm hãm tiến bộ khoa học, công nghệ… quá nhấn mạnh
một chiều cải tạo quan hệ sản xuất mà không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực
lượng sản xuất, coi nhẹ quan hệ quản lý, quan hệ phân phối. Khi xác lập quan hệ
sản xuất, chúng ta tuyệt đối hố vai trị của cơng hữu, làm cho quan hệ sản xuất chỉ
cịn tồn tại giản đơn dưới hai hình thức tồn dân và tập thể; kỳ thị, nóng vội xố bỏ
các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận các hình thức sở hữu

hỗn hợp, sở hữu quá độ; xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân một cách ồ ạt, trong khi nó
đang tạo điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Dẫn đến lực lượng sản
xuất khơng phát triển, tình trạng trì trệ kéo dài, sản x́t đình đớn, đời sớng người

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

dân gặp nhiều khó khăn. Những hạn chế đó, có nhiều nguyên nhân, song nguyên
nhân chủ yếu là chúng ta đã chủ quan, nóng vội, duy ý chí dẫn đến việc nhận thức
và vận dụng chưa đúng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Chúng ta đã thoát ly khỏi điều kiện thực tiễn của
một đất nước kinh tế kém phát triển, còn nghèo nàn lạc hậu nhưng lại muốn tạo ra
một quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước để mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển. Nhưng hậu quả thì ngược lại. Đúng như văn kiện Đại hội VI của Đảng đã
khẳng định: “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ:lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ
trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển
không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất”(3). Lúc đó chúng ta đã chủ quan muốn tạo ra một quan hệ sản xuất vượt
trước trình độ lực lượng sản xuất, làm cho mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất trở nên gay gắt, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã
hội. Chúng ta đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần
kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc
doanh; mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, kìm hãm sự
phát triển của đất nước. Phải giám nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật là
chúng ta vừa chủ quan nóng vội, vừa bảo thủ trì trệ, hai mặt đó cùng tồn tại và làm
cản trở bước tiến phát triển của đất nước. Sự nhận thức sai quy luật chứng tỏ sự lạc
hậu về nhận thức tư duy lý luận và vận dụng quy luật đang hoạt động trong thời kỳ
quá độ; thành kiến không đúng những quy luật của sản xuất hàng hóa, quy luật giá

trị; coi nhẹ việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Chính cuộc sống đã dạy cho chúng
ta một bài học thấm thía là khơng thể nóng vội làm trái quy luật, hiện thực khách
quan được.
Từ sự nghiên cứu một cách nghiêm túc khách quan, khoa học, nhìn thẳng vào sự
thật, có thể rút ra một số sai lầm phổ biến trong nhận thức và vận dụng quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở các vấn
đề sau đây:
- Chưa nhận thức, chưa hiểu đúng quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất, tách rời quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, cường điệu
quan hệ sản xuất mà coi nhẹ lực lượng sản xuất, coi nhẹ việc phát triển, giải phóng
lực lượng sản xuất, muốn tạo ra quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước mở đường cho
lực lượng sản xuất, muốn nhanh chóng thực hiện nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội trong điều kiện nền kinh tế của đất nước còn rất lạc hậu, mới thống nhất được
đất nước, tàn dư của chiến tranh còn rất nặng nề.
- Nhận thức quan hệ sản xuất không trong một chỉnh thể, cường điệu chế độ sở
hữu, nhất là muốn nhanh chóng thiết lập chế độ cơng hữu với bất kỳ giá nào, coi sở
hữu tư nhân nằm ngoài bản chất của chủ nghĩa xã hội và cần phải nhanh chóng xóa
bỏ; coi nhẹ quan hệ tổ chức - quản lý và phân phối; coi nhẹ động lực lợi ích cá

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

nhân của người lao động, trong khi đời sống của nhân dân đang gặp mn vàn khó
khăn, thiếu thốn
- Duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, coi nhẹ quy luật giá trị, quan
hệ hàng hóa - tiền tệ, cơ chế thị trường, từ đó tạo thành cơ chế kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Muốn tạo ra một quan hệ sản xuất nhất loạt như nhau
trong những ngành sản xuất kinh tế khác nhau, những vùng miền, địa bàn khác

nhau (vùng đồng bằng, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo) với những
trình độ lực lượng sản xuất rất khác nhau, tức là cào bằng trong quan hệ sản xuất
gây ra nhiều cản trở, khó khăn, nhất là trong quản lý kinh tế, xã hội.
Những sai lầm trên đây chính là do nhận thức không đúng bản chất quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp trình độ lực lượng sản xuất, những điều kiện tác động của nó,
khơng tính đến điều kiện thực tiễn khi vận dụng, kết cục không tránh khỏi rơi vào
thất bại. Nhận thức được vấn đề, tại Đại hội VI, Đảng ta đã phê phán bệnh chủ
quan duy ý chí do vi phạm quy luật khách quan mà trước hết và chủ yếu là quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó Đại
hội đã rút ra bài học rất quan trọng là “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”, phải “làm cho quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, ln ln có tác dụng
thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”. Công cuộc đổi mới xét về thực chất
chính là quay trở về với quy luật, nhận thức đúng hiện thực khách quan với những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với thực tiễn đất nước và
thời đại mới.
2. .Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong 35 năm qua nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng,
phát trển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Càng ngày chúng ta càng nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn quan hệ biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sự phù hợp và mâu thuẫn giữa chúng trong
từng giai đoạn phát triển. Về đặc trưng kinh tế trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng, đã chuyển từ “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”
(Cương lĩnh năm 1991) sang “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (Cương lĩnh bổ sung, phát triển
năm 2011). Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển lực lượng sản
xuất, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Khơng ngừng hồn thiện chủ trương phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân

phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành
quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp
tác, cạnh tranh lành mạnh cùng thắng.

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, khởi đầu cơng cuộc đổi mới, Đảng ta đã nêu ra quan
điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ
nghĩa xã hội, với nhiều chế độ sở hữu. Đây là dấu mốc quan trọng trong quá trình
đổi mới tư duy lý luận của Đảng về con đường và phương pháp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; đồng thời, đã
đặt cơ sở, nền tảng quan trọng để các nhân tố mới ra đời, tạo tiền đề để từng bước
phát triển nền kinh tế của đất nước. Quá trình vận dụng quy luật và xuất phát từ
thực tiễn đất nước, tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3-1989), Đảng ta đã khẳng
định: “Thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, coi đây là
chính sách có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ
nghĩa xã hội; trong đó mọi người được tự do làm ăn theo pháp luật; các đơn vị sản
xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác với nhau, bổ sung cho
nhau, vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật”. (4)
       Nhìn tổng thể trong 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng, phát triển đất
nước. Trong đó, có thành tựu về nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta. Hơn nữa,
trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập quốc tế, việc nhanh chóng phát triển lực
lượng sản xuất đi đơi với từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất để phát triển kinh
tế - xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế đang là một yêu cầu cấp thiết.

       Đảng và Nhà nước ta đã, đang và sẽ phải tiếp tục thống nhất nhận thức về kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ
theo các quy luật của kinh tế thị trường. Đồng thời, bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; xây dựng nền kinh tế thị
trường hiện đại và chủ động hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Xác lập nền kinh
tế  Việt nam “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền
kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh
theo pháp luật”(5); thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ hiệu
quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các
nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp
với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện
thể chế kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử
dụng các cơng cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và
điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

trị làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng và phát triển
bền vững đất nước.
 Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật chất” cho quan
hệ sản xuất mới. Tiếp tục thực hiện đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế; đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố gắn với phát triển kinh tế tri thức,

kinh tế số nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hố dịch
vụ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ
ngoại lực, tiếp thu những thành tựu về khoa học và công nghệ hiện đại trong điều
của cuộc cách mạng 4.0. Xây dựng, hồn thiện luật pháp và chính sách kinh tế để
kiến tạo sự phát triển bền vững. Đào tạo nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, nhất
là trong bộ máy quản lý, quản trị nhà nước. Đổi mới thể chế nhằm tăng cường hiệu
lực thực thi pháp luật và chính sách; phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, kỷ
cương trong tồn xã hội.
Có thể khẳng định cơng cuộc đổi mới là quá trình chúng ta ngày càng nhận thức và
vận dụng đúng đắn hơn quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Trong
những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách và luật
pháp nhằm đa dạng hóa các hình thức của quan hệ sản xuất để khuyến khích, thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển, giải phóng mọi tiềm năng của sản xuất, tạo thêm
động lực cho người lao động. Đó là những chính sách, pháp luật liên quan đến đổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của kinh tế nhà nước, nhất là doanh nghiệp nhà
nước, đến việc củng cố và phát triển kinh tế tập thể, đến phát huy vai trò động lực
của kinh tế tư nhân, thu hút mạnh mẽ và phát huy hiệu quả của kinh tế có vốn đầu
tư nước ngồi, nâng cao chất lượng và hiệu quả cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước, phát triển kinh tế hỗn hợp...trong quá trình phát triển nền kinh tế.
Đảng và Nhà nước cũng đã ban hành nhiều chính sách và pháp luật để hoàn thiện
các mặt của quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa về sở hữu, tổ
chức - quản lý và phân phối. Đã ban hành Luật Đất đai (sửa đổi năm 2013), quy
định về sở hữu và đại diện chủ sở hữu, phân định quyền của người sở hữu, quyền
của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực
kinh tế; xác định vai trị quản lý kinh tế của Nhà nước thơng qua định hướng, điều
tiết, kế hoạch, quy hoạch, chiến lược, chính sách, chương trình phát triển và các
lực lượng vật chất. Thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân phối theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn, trí tuệ và các nguồn lực
khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, chăm lo đời

sống của người lao động.
Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, biện pháp về đầu tư để xây dựng kết cấu
hạ tầng đồng bộ với một số cơng trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông
và hạ tầng đô thị lớn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

đại hóa; phát triển một số ngành cơng nghiệp cơ khí, đóng tàu, vận tải, khai thác
vật liệu, xây dựng, chế biến; ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ hiện
đại, nhất là công nghệ thông tin; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao... Thực hiện đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế;
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, kinh tế
số, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hóa dịch vụ.
 Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại
lực, tiếp thu những thành tựu về khoa học - công nghệ, về kinh tế tri thức, văn
minh của thế giới; kinh nghiệm quốc tế... để phát triển, hiện đại hóa lực lượng sản
xuất và củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Trong những năm đổi mới,
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để tăng cường,
mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các quan hệ song phương và tổ chức đa phương,
như ASEAN, APEC, ASEM, WTO..., thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài
(FDI, ODA...), xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường xuất nhập
khẩu, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa
học - cơng nghệ, trình độ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Việt Nam đã thiết lập
quan hệ ngoại giao với 187 nước, quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư với hơn
220 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký trên 90 hiệp định thương mại, đầu tư….
Tuy nhiên, trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất trong thời gian qua bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta

cũng phải thấy rằng, cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, xuất hiện những
mâu thuẫn mới, sự không phù hợp mới giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, làm cản trở sự phát triển của cả lực lượng sản xuất và cả quan hệ sản xuất.
Mặc dù đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nước có thu nhập
trung bình thấp, song thực chất vẫn là nước nghèo, kinh tế còn lạc hậu, nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế so với thế giới và khu vực ngày càng lớn. Mục tiêu đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa thể
đạt được. Hiện nay các ngành cơng nghiệp cơ khí, chế tạo, chế tác, phụ trợ... còn
kém phát triển, chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong GDP. Năng suất lao động, hiệu quả, chất
lượng, sức cạnh tranh thấp, yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) thấp. Lực lượng sản
xuất yếu kém sẽ tác động tới quy định trình độ, chất lượng của quan hệ sản xuất.
Chúng ta chưa chú ý toàn diện, đồng bộ trong xây dựng, hoàn thiện các mặt của
quan hệ sản xuất. Vẫn còn xu hướng nặng về thay đổi chế độ sở hữu hơn là cải
tiến, đổi mới quan hệ quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm. Chúng ta phải thấy
rằng, nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đang thực hiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chưa có lực lượng sản xuất cơng nghiệp
hiện đại làm cơ sở cho quan hệ sản xuất mới. Cho nên, khơng thể nóng vội trong
xây dựng quan hệ sản xuất, song cũng không được coi nhẹ việc xây dựng, hoàn
thiện quan hệ sản xuất từng bước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

của đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và trong Hiến pháp năm 2013 đều xác định vai
trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Nhưng, trong thực tế hiện nay kinh tế nhà nước
chưa thực sự giữ vai trị chủ đạo, bởi vì nhìn chung năng suất, chất lượng, hiệu quả

thấp, chưa làm gương để dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, nhiều doanh nghiệp
nhà nước rơi vào tình trạng sản xuất, kinh doanh thua lỗ, tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực, làm thất thoát tài sản nhà nước, gây nhiều bức xúc trong dư luận xã
hội(có 12 dự án kinh tế bị thất thoát lớn, gây hậu quả nghiêm trọng đang được các
cơ quan pháp luật điều tra, xử lý và khắc phục để từng bước đưa vào hoạt động sản
xuất, kinh doanh). Doanh nghiệp nhà nước hiện chiếm gần 70% vốn đầu tư toàn xã
hội, gần 50% vốn đầu tư nhà nước và 70% vốn ODA,... nhưng khu vực này chỉ
đóng góp 26% - 28% tăng trưởng GDP. Các doanh nghiệp nhà nước có hệ số
ICOR cao hơn nhiều so với khu vực tư nhân. Suất sinh lời trên vốn của doanh
nghiệp nhà nước thấp hơn doanh nghiệp tư nhân. Quản lý doanh nghiệp nhà nước
còn nhiều lỏng lẻo, phân định không rõ thẩm quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu
và đại diện chủ sở hữu, nhất là trong quản lý vốn, do đó thời gian trước năm 2016
có nhiều doanh nghiệp đầu tư tràn lan, ngoài ngành nhiều, bị “lợi ích nhóm” chi
phối, vi phạm pháp luật, nợ xấu tăng lên làm khó khăn cho phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, nhiệm kỳ 2016- 2021 đang tích cực xử lý giải quyết hậu quả.
Khu vực kinh tế tập thể còn nhỏ bé, nhiều hợp tác xã trong nơng nghiệp mang tính
hình thức, chỉ làm khâu dịch vụ đầu vào và đầu ra của sản xuất, quỹ khơng chia
trong hợp tác xã rất thấp, trình độ khoa học - cơng nghệ, quy mơ và trình độ quản
lý kinh tế yếu kém.
 Khu vực kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh
tế, đóng góp nhiều vào tăng trưởng GDP và giải quyết việc làm cho người lao
động. Song, các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên gặp
nhiều bất lợi về cạnh tranh, nguồn vốn và cả bị phân biệt đối xử trong thực tế do cơ
chế, chính sách. Tiềm năng của kinh tế tư nhân rất lớn nhưng chưa được tạo điều
kiện để phát triển mạnh và đóng góp nhiều hơn cho xã hội.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi là thành phần kinh tế quan trọng trong
đóng góp vào tăng trưởng GDP, thu hút nguồn lao động.  Theo báo cáo của Tổng
cục Thống kê, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến 20/12/2019 bao
gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần
của nhà đầu tư nước ngoài đạt 38 tỷ USD, tăng 7,2 % so với năm 2018. Tuy nhiên,

khu vực này cũng có những hạn chế như: đầu tư vào các lĩnh vực có cơng nghệ
cao, cơng nghệ nguồn cịn ít, phần lớn cịn là cơng nghệ trung bình, thậm chí lạc
hậu, gia cơng, lắp ráp, ít đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực có
lợi nhuận kém hấp dẫn. Các doanh nghiệp FDI khai thác nguồn tài nguyên, thị
trường, nhân lực rẻ tại Việt Nam để phục vụ cho mục tiêu lợi nhuận của họ, thậm

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

chí có cả hiện tượng “chuyển giá”, hạch tốn lỗ... nhằm trốn thuế, chuyển lợi
nhuận ra nước ngồi( về cơng ty mẹ) vẫn còn xẩy ra.
Những hạn chế, yếu kém trên đây của các thành phần kinh tế trong quan hệ sản
xuất đã làm cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tình hình trên đây có cả
ngun nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Về khách quan, việc chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với đa hình thức sở hữu, quản lý, phân phối,
đa thành phần kinh tế là mơ hình kinh tế chưa có tiền lệ trong lịch sử, chúng ta phải
vừa làm vừa rút kinh nghiệm.
Về chủ quan, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về kinh tế thị trường,
về quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong điều kiện một nước
lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới, hội nhập...
cịn nhiều hạn chế, bất cập…. Nhận thức trên một số vấn đề thuộc chủ trương,
quan điểm tuy đã được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng, song vẫn còn
nhiều ý kiến khác nhau trong thực tiễn, chẳng hạn(như: xác định thành phần kinh
tế hay khu vực kinh tế, vấn đề kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, vấn đề sở hữu
và sử dụng đất đai, vấn đề quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, giữa kinh
tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa...). Chính vì nhận thức còn khác nhau
ở tầm quan điểm nên trong việc thực hiện nghị quyết, chính sách cịn ngập ngừng,

thiếu nhất quán, không kiên quyết, thiếu đồng bộ, làm hạn chế đến hiệu quả kinh
tế. Hơn nữa, tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Đảng
còn chậm đổi mới; nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể cịn thiếu thống nhất, thiếu
tính hệ thống; khâu tổ chức thực hiện còn thiếu kiên quyết, quyết liệt, vẫn cịn tình
trạng dễ làm khó bỏ; quản lý, quản trị nhà nước còn nhiều yếu kém; chưa thể chế
hóa kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng thành các chính sách, biện pháp
có tính khả thi, hiệu quả. Đồng thời, có một số chủ trương chưa đủ rõ hoặc chưa
phù hợp, chưa có sự thống nhất và thơng suốt ở các cấp, các ngành, cịn “ trên
nóng, dưới lạnh”. Một số cán bộ, đảng viên, thậm chí là cán bộ cao cấp rơi vào suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích
nhóm”, năng lực, phẩm chất và uy tín không đáp ứng được yêu cầu của công cuộc
đổi mới phát triển bền vững đất nước.
3. Đề xuất một số vấn đề đặt ra về nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để
tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất.
Một là, đẩy mạnh, nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về
nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất ở nước ta trong điều kiện đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

Hai là, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, về sở hữu và các khu vực kinh tế, giải quyết những vấn đề còn vướng mắc,
chưa rõ, ý kiến còn khác nhau, nhằm phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện
đại, như vấn đề chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu ở nước ta; vấn đề vai trò

chủ đạo của kinh tế nhà nước; vấn đề sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa các doanh
nghiệp nhà nước; vai trò kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác; vai trò động lực phát triển
của kinh tế tư nhân ở nước ta; vai trị kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; vấn đề kinh
tế hỗn hợp, kinh tế cổ phần và các mối quan hệ kinh tế giữa các khu vực kinh tế
của nền kinh tế nước ta trong quá trình phát triển bền vững đất nước.
Ba là, tiếp tục đổi mới tư duy và quan điểm phát triển hài hòa cả về lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất, chính trị, văn hóa, xã hội. Xây dựng tư duy mới về mơ hình
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về hội nhập, về phương thức phát
triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách toàn diện thể chế nhằm huy động và phân bổ có
hiệu quả các nguồn lực; thực hiện cơ chế thị trường và giải quyết hài hòa quan hệ
giữa Nhà nước và thị trường trong phân phối các tư liệu sản xuất; bảo đảm bình
đẳng thực sự giữa các khu vực kinh tế. Đẩy mạnh xã hội hóa các tổ chức trong
cung ứng các dịch vụ công (giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ…) và phúc lợi xã
hội, đảm bảo an sinh xã hội, cuộc sống của nhân dân.
Bốn là, thực hiện đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị. Tiếp tục xây
dựng, hồn thiện luật pháp và chính sách kinh tế- xã hội, để kiến tạo sự phát triển
bền vững của đất nước. Xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao, trọng dụng
nhân tài, nhất là trong bộ máy quản lý, quản trị của nhà nước. Đổi mới thể chế
nhằm tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật và chính sách; phát huy dân chủ, tăng
cường kỷ luật, kỷ cương trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Xây dựng và hoàn
thiện đồng bộ các loại thị trường, bảo đảm nguyên tắc thị trường trong sự vận hành
nền kinh tế; hoàn thiện cơ chế vận hành các loại thị trường phù hợp với thực tiễn
của đất nước và thông lệ quốc tế. Khẩn trương nghiên cứu và tổ chức thực hiện có
hiệu quả Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU(EVFTA) có hiệu lực từ ngày
1/8/2020, để mở cửa các thị trường dịch vụ, đầu tư, tài chính, thương mại điện tử,
logistisc, hàng hố nơng sản, thuỷ sản, dệt may, da giày vv…cũng như thu hút làn
sóng đầu tư chất lượng cao, tham gia sâu vào chuỗi giá trị tồn cầu, góp phần quan
trọng làm cho kinh tế của đất nước phát triển nhanh, bền vững với chất lượng, hiệu
quả cao hơn.
Năm là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế;

nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy
động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực; tạo động lực phát triển; từng bước hoàn
thiện chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
trong quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; gắn kết chặt chẽ 3 trụ cột phát
triển bền vững: kinh tế - xã hội - mơi trường; vai trị văn hố, xã hội, con người và
đổi mới sáng tạo, cơng bằng, bình đẳng. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới, hồn thiện

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

chế độ phân phối, phúc lợi xã hội, cải cách chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế…nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động và nhân
dân.

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay


triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

KẾT LUẬN
Đảng ta đã vận dụng sự phù hợp của mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay và tương lai.
Trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định là: “Xây
dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ
cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững
chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, văn minh”.
Chúng ta đều biết rằng từ trước tới nay cơng nghiệp hố hiện đại hố là khuynh

hướng tất yếu của tất cả các nước. Đối với nước ta, từ một nền kinh tế tiểu nơng,
muốn thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của một nước
phát triển thì tất yếu cũng phải đẩy mạnh cơng nghiệp hố hiện đại hố như là:
“Một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội ’’.
Trước những năm tiến hành công cuộc đổi mới chúng ta đã xác định cơng nghiệp
hố là nhiệm vụ trung tâm của các thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Song về mặt
nhận thức chúng ta đã đặt công nghiệp hố xã hội chủ nghĩa ở vị trí gần như đối
lập hồn tồn với cơng nghiệp hố tư bản chủ nghĩa. Trong lựa chọn bước đi đã có
lúc chúng ta thiên về phát triển cơng nghiệp nặng, coi đó là giải pháp xây dựng cơ
sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội, và không coi trọng đúng mức việc phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Công nghiệp hoá cũng được hiểu một cách
đơn giản là quá trìng xây dựng một nền sản xuất được khí hố trong tất cả các
ngành kinh tế quốc dân.
Cơng nghiệp hố phải đi đơi với hiện đại hố, kết hợp những bước tiến tuần tự về
công nghiệp với việc tranh thủ các cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi
nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học công nghệ thế giới. Mặt khác
chúng ta phải chú trọng xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành
theo thị trường, có sự điều tiết của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa .
Đây là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời , chúng luôn tác động thúc đẩy hỗ
trợ lẫn nhau cùng phát triển . Bởi lẽ “Nếu cơng nghiệp hố hiện đại hoá tạo lên lực
lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới , thì việc phát triển nền kinh tế hàng
hố nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp”.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Tài liệu Lênin toàn tập - tập 38 - NXB Matxcơva 1977
2. Văn kiện Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VII.

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay



triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay

triÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.naytriÌ€nh.bay.m•i.quan.h£.bi£n.ch•ng.giƒa.luc.luong.san.xuat.v€.quan.h£.san.xuat.phan.tiÌ•ch.thuc.trang.cua.luc.luong.san.xuat.va.quan.h£.san.xuat.o.nuoc.ta.trong.giai.doan.hi£n.nay



×