Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.69 KB, 39 trang )

LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ SỰ VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc hình thành những quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên
chủ nghĩa xã hội là cơng việc rất khó khăn. Mơ hình xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa chưa có trong thực tiễn lịch sử, càng chưa có khi chúng ta xây dựng một
nước có nền kinh tế chưa phát triển như nước ta. Đây là một vấn đề rất mới mẻ.
Bác Hồ của chúng ta đã chỉ rõ: "Chủ nghĩa xã hội là gì? Là mọi người được ăn
no, mặc ấm, sung sướng và tự do. Nhưng nếu tách riêng một mình mà ngồi ăn
no, mặc ấm, người khác thì mặc kệ, thế là không tốt… Chủ nghĩa xã hội là làm
cho dân giàu, nước mạnh… Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai
khơng làm khơng ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con.
Thế ta đã đến đấy chưa? Chưa đến, chủ nghĩa xã hội không thể làm mau được
mà phải làm dần dần" chủ nghĩa xã hội là "một xã hội khơng có chế độ người
bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền
lao động, ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, khơng làm khơng
hưởng…"
Từ những tư tưởng lớn của Bác Hồ, trải qua nhiều năm nghiên cứu, tìm tịi
với trí tuệ của tồn Đảng, tồn dân, Cương lĩnh của Đảng ta chỉ rõ xã hội xã hội
chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

1


- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng
lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện


phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Sáu đặc trưng nêu trên thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta sẽ xây dựng, một xã hội tiến bộ nhất so với các chế độ xã hội đã
xuất hiện trước đây. Trong xã hội đó, nhân dân lao động là người chủ chân
chính và thực sự của xã hội. Nó chi phối và thể hiện trong toàn bộ thể chế của
xã hội, đều hướng vào việc đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đó là sự khác nhau về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế độ xã hội trước đó.
Những đặc trưng trên gắn bó mật thiết với nhau trong một chỉnh thể thống
nhất, vừa làm tiền đề, điều kiện, vừa tác động lẫn nhau trong quá trình phát triển.
Cùng với quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, vấn đề có ý nghĩa quan
trọng là phải xác định được con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Qua phần nghiên cứu này, tơi sẽ làm rõ q trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam với sự vận dụng lí luận của Mác-Lenin
2. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia dân tộc đều có quyền lựa chọn con
đường, sự phát triển cho chính mình sao cho phù hợp với xu thế chung của thời
đại, với quy luật khách quan của lịch sử và nhu cầu khát vọng của dân tộc. Do
vậy, Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan hồn tồn phù
hợp với xu thế chung đó
Trước thời cơ và vận hội, nguy cơ và thách thức đan xen nhau thì việc
tìm hiểu nhằm nâng cao nhận thức về con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt
nam là việc làm mang tính cấp thiết, có tầm quan trọng đặc biệt đối với nhận
thức và hành động của mỗi chúng ta trong giai đoạn hiện nay.
Chính vì thế tôi đã quyết định chọn đề tài này để tham gia nghiên cứu.
2


3. Nội dung nghiên cứu

-Nội dung nghiên cứu của đề tài là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp sử dụng các phương pháp lịch sửlogic, phân tích - tổng hợp , diễn dịch và quy nạp, thống kê, so sánh, đối chiếu.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
-Mục đích nghiên cứu :
Nghiên cứu một cách có hệ thống về Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa thực tiễn về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu :
Để đạt được mục đích đã nêu trên, đề tài làm rõ:
- Tìm hiểu khái quát về sự Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội
- Phân tích một cách có hệ thống Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hộivà ảnh hưởng của nó đến con đường đi lên xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Đánh giá những thuận lợi và khó khăn, ưu và nhược điểm trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học
+ Khẳng định những giá trị to lớn của lý luận Mác-Lenin về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội

3


+ Khẳng định quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một q
trình hịa cùng sự phát triển của nhân loại.
- Ý nghĩa thực tiễn

+ Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu dạy và học cho
giảng viên, sinh viên trong việc nghiên cứu và tìm hiểu về lý luận của
Mác- Leenin vể con đường đi lên Xã hội chủ nghĩa nói chung và của Việt
Nam nói riêng

7. Kết cấu của báo cáo
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề
tài gồm 2 chương và 4 tiết.

4


Chương I: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội
1.1. Tư tưởng của Mác và Ăngghen về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội
Các Mác (Karl Marx) sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở thành phố Trier trên bờ
sông Mozel, một nhánh của sông Rhein. Trier là một thành phố cổ của Đức,
thời Trung cổ,
Ph. Ăngghen (1820 - 1895) là người bạn, người đồng chí thân thiết của C.
Mác, người đã cùng C. Mác sáng lập học thuyết Mác - học thuyết khoa học và
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Ph.
Ăngghen đã có những cống hiến to lớn về tư tưởng, lý luận và trở thành lãnh
tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Là một nhà lý luận cách mạng thiên tài, ngoài những tác phẩm viết chung với
C. Mác, Ph. Ăngghen đã để lại cho nhân loại rất nhiều tác phẩm lớn như: Tình
cảnh giai cấp công nhân Anh; Chống Ðuyrinh; Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ tư hữu và của nhà nước; Biện chứng tự nhiên; Vấn đề nông dân ở Pháp
và Ðức... Trong những tác phẩm đó, Ph. Ăngghen khơng những trình bày
một cách sâu sắc những vấn đề lý luận cơ bản về triết học, kinh tế chính trị

học và chủ nghĩa cộng sản khoa học mà còn bút chiến đanh thép chống lại
những quan điểm, luận điệu sai trái của giới học giả tư sản, cũng như của các
phần tử cơ hội. Sau khi C. Mác qua đời, Ph. Ăngghen đã đảm nhiệm trọng
trách lãnh đạo giai cấp công nhân quốc tế và dồn tồn bộ cơng sức, trí tuệ vào
việc bảo vệ và phát triển học thuyết Mác. Các tác phẩm của Ph. Ăngghen đã
làm phong phú thêm lý luận thiên tài của C. Mác, trở thành bộ phận hợp thành
hữu cơ của chủ nghĩa Mác. Với sự uyên bác và mẫn cảm khoa học cộng với


khả năng phân tích và tổng kết thực tiễn lịch sử để khám phá lý luận, Ph.
Ăngghen đã tạo nên một phong cách tư duy độc đáo. Trung thành với sự
nghiệp của Mác, song Ph. Ăngghen luôn đấu tranh chống lại sự giáo điều.
Bằng bản lĩnh khoa học vững vàng và sự dũng cảm biết vượt lên mọi hoàn
cảnh, Ph. Ăngghen khơng ngừng phát triển lý luận mác - xít, hoàn thiện học
thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học.
Một trong những điểm nhấn sáng tạo của Ph. Ăngghen là tư duy biện chứng
về con đường lên chủ nghĩa xã hội. Theo Ph. Ăngghen, quan niệm và thực
tiễn quá trình kiến tạo xã hội xã hội chủ nghĩa luôn phải được bổ sung, hoàn
thiện khi thực tiễn cuộc sống đặt ra những vấn đề mới. Phát triển lý luận mácxít về thời kỳ quá độ, Ph. Ăngghen nêu luận điểm “phát triển rút ngắn”, sau
này Lênin nêu thành khả năng “không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa” để tiến lên chủ nghĩa xã hội đối với các nước, các dân tộc chậm phát
triển.
Ðề cập đến sự “quá độ lên xã hội cộng sản” trong hoàn cảnh của những năm
cuối thập niên 80-đầu thập niên 90 thế kỷ XIX, Ph. Ăngghen luôn nhấn mạnh
rằng, cần phải suy nghĩ kỹ, không được nơn nóng, khơng được phép kết luận
vội vàng, bởi đây là vấn đề khó nhất trong tất cả những vấn đề tồn tại ở một
thời kỳ mà các điều kiện không ngừng thay đổi. Nét độc đáo trong tư duy biện
chứng của Ph. Ăngghen thể hiện ở sự nhận thức về tính thống nhất phổ biến
giữa cái tất yếu và cái có thể trong vận động của tồn bộ thế giới khách quan.
Phép biện chứng duy vật mácxít từng vạch rõ, tiến trình lịch sử nhân loại tất

yếu phát triển từ thấp đến cao, và do đó xã hội cộng sản chủ nghĩa với tính
cách một xã hội cao hơn, tốt đẹp hơn xã hội tư bản, tất yếu sẽ thay thế xã hội
tư bản. Ðây là quy luật của lịch sử, là quá trình lịch sử - tự nhiên trong sự vận
động của xã hội loài người. Nhưng do những điều kiện kinh tế - xã hội, chính
trị, truyền thống văn hóa khác nhau mà dân tộc này hay dân tộc khác có thể
bỏ qua một hoặc một số bước phát triển nào đó trong những bước đi chung
6


mà nhân loại phải trải qua. Quan điểm của Ph. Ăngghen về sự thống nhất giữa
cái tất yếu và cái có thể là cơ sở phương pháp luận khoa học tiếp cận tính đa
dạng, phong phú và nhiều vẻ của hình thức phát triển xã hội lồi người.
Phát triển quan niệm về thời kỳ quá độ, Ph. Ăngghen khẳng định, đối với các
nước đang ở giai đoạn tiền tư bản hoặc chưa từng trải qua con đường phát
triển Tư bản chủ nghĩa đều “khơng những có thể mà cịn chắc chắn... rút ngắn
một cách đáng kể quá trình phát triển của mình lên xã hội xã hộichủ nghĩa và
có thể tránh được phần lớn những đau khổ và những cuộc đấu tranh mà ở Tây
Âu... phải trải qua”1. Tư duy biện chứng mang tầm vóc vạch dịng thời đại
này vẫn nóng hổi ý nghĩa lý luận và tính thời sự cấp bách đối với các đảng
cộng sản, công nhân quốc tế, trong đó có Ðảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Tư duy biện chứng của Ph. Ăngghen về phương thức phát triển “rút ngắn”
cho thấy rõ, nước ta có điều kiện bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Về khách quan, trước hết đó chính là yếu tố thời đại. Con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta diễn ra trong thời đại mà nội dung
chủ yếu của nó vẫn là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, gắn
với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - cơng nghệ và q trình
tồn cầu hóa. Thực tế khách quan này vừa đặt ra thách thức không nhỏ, đồng
thời tạo thời cơ thuận lợi cho sự phát triển đất nước.
Thấm nhuần tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung của Ph. Ăngghen về
con đường đi đi lên chủ nghĩa xã hội Đảng ta đã vận dụng sáng tạo vào điều

kiện cụ thể của Việt Nam. Đảng đã lựa chọn “con đường đi lên của nước ta là
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. “Đây là sự
nghiệp rất khó khăn, phức tạp và do vậy, tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá
độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội có
C. Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tập, t.37, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1997, tr.632, 641
1

7


tính chất q độ”2. Bởi lẽ, con đường đó khơng chỉ phù hợp với tính tất yếu
của lịch sử, với quy luật và xu thế phát triển của thời đại, mà hơn hết và trên
hết, còn phù hợp với bối cảnh lịch sử - cụ thể ở nước ta hiện nay.
Nước ta đã đồng thời diễn ra bước quá độ từ xã hội phong kiến lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, xét về mặt tính chất của chế độ chính
trị - xã hội và quá độ từ nông nghiệp cổ truyền lạc hậu lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, xét về mặt trình độ phát triển kinh tế. Điều này
được xem là đặc điểm căn bản nói lên loại hình phát triển chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là thuộc loại hình “phát triển rút ngắn”và phương thức “quá độ gián
tiếp”.
Tuy nhiên, phải hiểu rằng, sự “phát triển rút ngắn”, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở nước ta vẫn là quá trình lịch sử - tự nhiên. Chỉ khi người ta “rút ngắn”
một cách duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan thì lúc đó, sự phát triển rút
ngắn mới trở thành đối lập với tiến trình lịch sử - tự nhiên của các hình thái
kinh tế- xã hội. “Thực chất của sự “phát triển rút ngắn” chính là tạo ra sự phát
triển mạnh mẽ, thậm chí nhảy vọt của lực lượng sản xuất”3
Nội dung của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa ở Việt Nam được Đảng ta xác định: “Bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa

nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đạt được dưới chế độ tư
bản nghĩa để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện
đại”4. Theo đó, “phát triển rút ngắn” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.67.
3 Xem Dương Phú Hiệp: Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.193.
4
ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.84.
2

8


ở Việt Nam, về phương diện chính trị, là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Về mặt kinh
tế, là rút ngắn q trình cơng CNH, HĐH; tiếp thu, kế thừa những thành tựu
mà nhân loại đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là khoa học và công
nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Cần xác định rõ ràng rằng, chúng ta bỏ qua chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và
tình trạng áp bức, bóc lột chứ khơng bỏ qua những thành tựu văn minh vật
chất và tinh thần mà loài người đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là
vấn đề có tính ngun tắc cần thiết được nhận thức và vận dụng trong thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Vậy là, “bỏ qua” mà
“khơng bỏ qua”. Điều này địi hỏi “phải biết thâu thái và làm chủ những tài
sản văn hóa của lồi người đã sáng tạo ra mà chủ nghĩa tư bản từng phát triển
tới những đỉnh cao”5, để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội cho thấy nhận thức về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ngày càng sáng

rõ hơn, Đảng ta đã đã từng bước bổ sung, phát triển đường lối đổi mới toàn
diện đất nước. Trong điều kiện khó khăn của sự tìm tòi, phát triển lý luận về
chủ nghĩa xã hội, Đảng đã thể hiện ngày càng rõ quan niệm về chủ nghĩa xã
hội và cần được tiếp tục bổ sung phát triển cùng với sự phát triển của thực
tiễn đất nước và của thời đại. Kinh nghiệm và những bài học được tích lũy để
Đảng ta từng bước hồn thiện lý luận đổi mới để pháttriển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó, nội lực của đất nước và dân tộc đã được huy
động vào các mục tiêu của phát triển, cùng với các nguồn ngoại lực ngày càng
được tận dụng, khai thác có hiệu quả nội lực, bảo đảm cho sự nghiệp đổi mới
và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam đi tới thắng lợi. Vì vậy,
Xem Hồng Chí Bảo: “Từ những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 11-2002, tr.10.
5

9


tại Đại hội XII, Đảng ta khẳng định: “Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử qua 30 năm đổi mới khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,
sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực
tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Thành tựu và những kinh
nghiệm, bài học đúc kết từ thực tiễn tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để đất
nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới”6.
Có thể nói, phương pháp luận, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin
nói chung, tư duy biện chứng của Ph.Ăng ghen nói riêng về thời kỳ quá độ là
một hệ thống tri thức quý báu, đòi hỏi cần được nghiên cứu nghiêm túc để có
thêm cơ sở khoa học cho bổ sung, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học. Để
tiếp tục đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng
tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hộiở

nước ta, góp phần tích cực vào cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
1.2. Tư tưởng của Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
V.I.Lênin sinh ngày 22-4-1870, trong một gia đình trí thức ở Thành
phố Simbiếcxcơ sau đổi tên là Ulianốpxcơ, thuộc nước Nga. Bằng hoạt động
lý luận và thực tiễn xuất sắc, V.I.Lênin đã bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác
trong giai đoạn lịch sử mới, giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô
sản; lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, lập nên
nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới, đưa chủ nghĩa xã hội từ lý luận
khoa học thành hiện thực sinh động, mở ra thời đại mới trong lịch sử nhân
loại - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc đời và sự
nghiệp cách mạng của V.I.Lênin là vơ cùng vĩ đại, những đóng góp của
Người cho giai cấp công nhân và những người lao động bị áp bức trên toàn
thế giới là đặc biệt to lớn, mang ý nghĩa thời đại sâu sắc.

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr.70
6

10


1.2.1. V.I.Lênin phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác về khả năng thắng
lợi của cách mạng vô sản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, lãnh đạo thành
công cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội
Phân tích q trình phát triển mang tính lịch sử - tự nhiên của nhân loại trong
thời đại tư bản chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo, cách mạng cộng sản
chủ nghĩa “sẽ đồng thời xảy ra ở trong tất cả các nước văn minh, tức là ít nhất,
ở Anh, Mỹ, Pháp và Đức”7. Theo quy luật chung, khi lực lượng sản xuất phát
triển đến độ không thể tương dung với quan hệ sản xuất hiện tồn thì tất yếu sẽ

nổ ra cuộc cách mạng xã hội nhằm thủ tiêu quan hệ sản xuất cũ, xác lập quan
hệ sản xuất mới phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên, khi phân tích bản chất của chủ nghĩa tư bản giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa, V.I.Lênin thấy rằng, chủ nghĩa tư bản đã có những đặc điểm mới.
Trong tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản,
V.I.Lênin đã phát hiện quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản và
đưa ra dự báo: “chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi trước hết là trong một số ít
nước tư bản chủ nghĩa hoặc thậm chí chỉ trong một nước tư bản”8
Trên cơ sở phân tích hồn cảnh cụ thể của nước Nga cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX, V.I.Lênin nhận định, nước Nga đã trở thành nơi hội tụ cao độ những
mâu thuẫn của thời đại và là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ
nghĩa đế quốc thế giới9. Từ đó, V.I.Lênin và những người mácxít Nga chân
chính đã tích cực chuẩn bị các điều kiện cho cuộc cách mạng vô sản Nga.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvich, đứng đầu là V.I.Lênin, giai cấp công
nhân và nhân dân lao động Nga đã vùng dậy tiến hành cuộc Cách mạng
C.Mác và ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr. 472.
8 V.I.Lênin: Tồn tập, t.26, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 447
9 Nguyễn Anh Thái (Chủ biên): Lịch sử thế giới hiện đại (Tái bản lần thứ
năm), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2005, tr 10-11
7

11


Tháng Mười Nga vĩ đại, lật đổ chính quyền tư sản phản động, lập nên nhà
nước công nông đầu tiên trên thế giới; đưa chủ nghĩa xã hội khoa học từ lý
luận trở thành hiện thực, mở đầu cho sự chuyển biến từ hiện thực của một
nước trở thành hiện thực của một hệ thống thế giới, mở ra thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là thắng lợi tất yếu khách quan
bởi chủ nghĩa đế quốc ở nước Nga đã bộc lộ những mâu thuẫn gay gắt chưa
từng thấy mà bản thân nó khơng thể khắc phục được: chế độ Nga hoàng đã trở
nên quá thối nát, giai cấp tư sản Nga đã trở thành lực lượng cực kỳ phản động;
giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga bị đẩy đến đường cùng, sẵn
sàng vùng lên lật đổ áp bức, bóc lột. Đó cịn là kết quả tất yếu của một quá
trình xây dựng, chuẩn bị công phu, tự giác, lâu dài của V.I.Lênin và Đảng
Bơnsêvich Nga, một đảng cách mạng chân chính được vũ trang bởi học thuyết
khoa học, cách mạng và phát triển của chủ nghĩa Mác do chính V.I.Lênin bổ
sung, phát triển và vận dụng sáng tạo vào điều kiện đặc thù của nước Nga.
1.2.2. V.I.Lênin bổ sung, phát triển sáng tạo lý luận của C.Mác về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Sau Cách mạng Tháng Mười, một vấn đề vừa có tính cơ bản, vừa có tính cấp
bách đặt ra cho V.I.Lênin và Đảng Bơnsêvích Nga là quản lý và phát triển đất
nước, đưa nước Nga - một quốc gia lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Trọng
trách lịch sử tiếp tục đặt lên vai lãnh tụ V.I.Lênin về sự vận dụng sáng tạo lý
luận của chủ nghĩa Mác trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực
đầu tiên của nhân loại.
Những năm đầu sau Cách mạng Tháng Mười, chính sách “cộng sản thời
chiến” (1918-1921) đã được áp dụng như một biện pháp tình thế để đáp ứng
yêu cầu cấp bách của cuộc nội chiến chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ
chính quyền Xơ-viết non trẻ. Tuy nhiên, khi nước Nga Xơ-viết bước vào thời
kỳ hịa bình xây dựng đất nước, chính sách đó đã khơng cịn phù hợp, trở
12


thành lực cản phát triển; gây đình đốn sản xuất; đẩy đất nước lâm vào khủng
hoảng kinh tế - xã hội và có nguy cơ khủng hoảng chính trị.
Nhận thức được điều đó, bằng trí tuệ và bản lĩnh của những người cộng sản,
tháng 3-1921, tại Đại hội Xơ-viết tồn Nga lần thứ X, V.I.Lênin và Đảng

Bơnsêvích đã đưa ra một quyết định mang tính lịch sử, đó là thay thế chính
sách “cộng sản thời chiến” bằng Chính sách kinh tế mới (NEP), chuyển trọng
tâm của cách mạng vào chăm lo phát triển kinh tế và văn hóa, thực hiện một
cuộc cải cách có tính tổng thể về mơ hình và con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội với tinh thần: Phải lùi lại, phải đi đường vòng, bắc những “nhịp cầu
nho nhỏ” để quá độ lên chủ nghĩa xã hội10
Gồm những biện pháp cải cách sâu sắc và mạnh mẽ, Chính sách kinh tế
mới chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; thay chế độ
trưng thu lương thực thừa bằng trưng mua và chính sách thuế lương thực; mở
rộng trao đổi hàng hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông
nghiệp; cho thương nhân được tự do hoạt động; áp dụng chế độ hạch tốn
kinh tế; quan tâm lợi ích thiết thân của người lao động, khuyến khích lợi ích
cá nhân. Với tư duy khoa học và biện chứng của chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin đã
thấy rõ, muốn phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước Nga thành công phải học tập,
kế thừa thành tựu của chủ nghĩa tư bản; phải “dùng cả hai tay mà hứng lấy
những cái tốt của nước ngoài”11. V.I.Lênin nêu rõ, người cộng sản cũng phải
học cách buôn bán, học cách tổ chức lãnh đạo, quản lý, phải biết làm giàu trí
tuệ của mình “bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã
tạo ra”12 . Tổng thể những biện pháp đó là nhằm khai thác, phát huy mọi
nguồn lực, mọi thành phần kinh tế để phát triển sản xuất, “đưa chủ nghĩa xã

10

V.I.Lênin: Tồn tập, t.44, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.189.

11

V.I.Lênin: Tồn tập, t.36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 684.

12


V.I.Lênin: Tồn tập, t.41, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 362.
13


hội vào cuộc sống hằng ngày”13; xây dựng mơ hình chủ nghĩa xã hội hiện
thực, bằng thực tiễn sinh động: từ sản xuất, trong sản xuất và bằng phát triển
sản xuất.
Trong điều kiện nước Nga lúc bấy giờ, việc thực hiện Chính sách kinh tế
mới khơng phải là một tiến trình sn sẻ. Ngay trong hàng ngũ các đảng viên
cộng sản, khơng ít người nghi ngờ rằng đó là sự “thỏa hiệp” với chủ nghĩa tư
bản, là nguy cơ khôi phục chủ nghĩa tư bản ở Nga, phản bội sự nghiệp cách
mạng theo di huấn của C.Mác. Phân tích thực tiễn, V.I.Lênin nhận thấy, trong
một quốc gia lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết cấu kinh tế nhiều thành
phần là tất yếu khách quan14. Điều đó khơng mâu thuẫn với lý luận của C.Mác.
Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gô-ta, C.Mác chỉ ra rằng, do vừa thoát
thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa nên xã hội trong thời kỳ quá độ về mọi phương
diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà
nó đã lọt lịng ra15. Đó là đặc điểm khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, nhất là đối với những nước tiểu nông, lạc hậu. Thực tế đã chứng
minh, nhờ chính sách kinh tế mới, nước Nga Xơ-viết đã nhanh chóng khơi
phục kinh tế, ổn định xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, từ đó chứng tỏ sức
sống và những ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Đáng tiếc là, sau khi V.I.Lênin
mất, Chính sách kinh tế mới đã không được thực hiện đầy đủ.
Hơn 100 năm qua, chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới đã trải qua nhiều
biến cố, thăng trầm. Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, Liên Xơ
và các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại song từ
những năm 1970 đã lâm vào trì trệ, rơi vào khủng hoảng trầm trọng và cuối
cùng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Đây là tổn thất to lớn


13

14

V.I.Lênin: Toàn tập, t.45, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 358.
V.I.Lênin: Tồn tập, t.43, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 248.

C.Mác và ph.Ăngghen: Tồn tập, t.19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995, tr. 33.
15

14


đối với phong trào cách mạng thế giới, song điều đó rõ ràng khơng phải là sự
sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung, lại càng khơng phải là sự sụp đổ của
chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó chỉ là sự sụp đổ của một mơ hình chủ nghĩa xã hội
hiện thực mang nhiều khiếm khuyết, như: kế hoạch hóa tập trung, quan liêu,
duy ý chí, giáo điều, xa dân, xa rời những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin, nhất là nguyên tắc lịch sử - cụ thể, buông lỏng vai trị lãnh đạo
của Đảng tiên phong, khơng thích ứng với những thay đổi diễn ra thường
xuyên của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Đó cịn là hệ lụy từ những sai
lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và công tác cán bộ của
đảng cầm quyền trong q trình cải tổ. Thất bại đó khiến chúng ta càng thấy
được ý nghĩa to lớn của việc chuyển từ Chính sách cộng sản thời chiến
sang Chính sách kinh tế mới, với những chỉ dẫn kinh điển quý báu của
V.I.Lênin cho công cuộc cải cách, đổi mới của chủ nghĩa xã hội hiện thực để
vượt qua trì trệ, khủng hoảng và tiếp tục hồi sinh, phát triển sau này.

15



TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Chủ nghĩa Mác - Lênin xuất phát từ con người hiện thực và cũng nhằm mục
đích giải phóng con người. Chủ nghĩa Mác - Lênin khơng có mục tiêu nào
khác là giải phóng con người khỏi mọi hình thức nơ dịch, áp bức, bóc lột.
Nhưng để giải phóng con người, trước hết phải giải phóng giai cấp cơng nhân
rồi tiến tới giải phóng nhân loại, giải phóng xã hội. Con đường giải phóng này
là con đường đấu tranh cách mạng đập tan nhà nước tư sản bóc lột, xây dựng
một nhà nước mới - nhà nước xã hội chủ nghĩa và sau này là cộng sản chủ
nghĩa - mà ở đó khơng cịn bất kỳ sự nơ dịch, áp bức, bóc lột con người nào.
Muốn vậy, giai cấp cơng nhân phải đồn kết, tập hợp giai cấp nông dân và
những người lao động khác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để thực hiện
cuộc đấu tranh cách mạng này.
Thực tiễn lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng tỏ ý nghĩa nhân văn to lớn
của mục tiêu giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Cả về phương diện lý luận, cả về phương diện thực
tiễn đều chứng tỏ, chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa nhân đạo nhất.

16


Chương II: Sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
2.1. Sự tiếp thu và vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam
2.1.1. Về mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trong q trình cách mạng, dù trong hồn cảnh nào, Ðảng ta luôn kiên
định con đường xã hội chủ nghĩa, vì đó là mục tiêu, lý tưởng của Ðảng và
nhân dân ta; đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu khách quan, hợp quy

luật của cách mạng Việt Nam.
Tuy nhiên, Ðảng ta cũng nhận thức rằng đây là một sự nghiệp lâu dài, vơ
cùng khó khăn, gian khổ bởi điểm xuất phát của nước ta rất thấp, lại bị chiến
tranh tàn phá nặng nề, luôn bị các thế lực thù địch phá hoại. Ðặc biệt sự
nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự nghiệp mới mẻ,
chưa có tiền lệ trong lịch sử, lại diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội trên
thế giới lâm vào khủng hoảng và thoái trào nên lại càng khó khăn.
Ðây là q trình vừa làm vừa học, vừa làm vừa tổng kết, vừa rút kinh nghiệm,
khái quát thành lý luận trên cơ sở lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của chân lý.
Chính trong q trình đó, Ðảng ta từng bước hình thành những nhận thức mới
về chủ nghĩa xã hội ngày càng phù hợp hơn, từng bước khắc phục những quan
niệm giáo điều, đơn giản, ấu trĩ về chủ nghĩa xã hội.
Chẳng hạn như trong nhận thức trước đây về chủ nghĩa xã hội, vì khơng hiểu
đúng mối quan hệ biện chứng giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội nên
đã đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản theo tinh thần phủ định hoàn
toàn chủ nghĩa tư bản, hoặc hiểu không đúng khái niệm "bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa" nên từ đó khơng thấy được u cầu phải kế thừa những giá trị,
17


những thành tựu mà nhân loại đạt được trong xã hội tư bản chủ nghĩa để xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong lĩnh vực kinh tế, do coi kinh tế tập trung bao cấp là đặc trưng của kinh
tế xã hội chủ nghĩa nên đã coi nhẹ hoặc phủ nhận sản xuất hàng hóa, quy luật
giá trị, có thành kiến với kinh tế thị trường do đồng nhất kinh tế thị trường với
chủ nghĩa tư bản.
Ðặc biệt trong nhận thức mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất đã có nhiều vi phạm quy luật khách quan như cường điệu vai trị của chế
độ cơng hữu ("nhất đại nhì cơng"), đối lập sở hữu tư nhân với chủ nghĩa xã
hội, muốn nhanh chóng xóa bỏ bóc lột, nhấn mạnh một chiều nhiệm vụ cải

tạo quan hệ sản xuất mà coi nhẹ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất - nhân
tố quyết định sự phát triển xã hội.
Trong lĩnh vực chính trị, do đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư
sản nên đã không thừa nhận tính chất pháp quyền của nhà nước xã hội chủ
nghĩa, không thấy đầy đủ yêu cầu, phát huy dân chủ trong xây dựng xã hội
mới...
Trong những năm đổi mới, thể hiện tập trung nhận thức của Ðảng ta về chủ
nghĩa xã hội là trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội được Ðại hội VII của Ðảng (năm 1991) thông qua. Cương
lĩnh đó đã khái quát những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những
đặc trưng đó vừa thể hiện tính phổ biến theo học thuyết Mác - Lê-nin về chủ
nghĩa xã hội, vừa thể hiện tính đặc thù dân tộc, có tính đến những đặc điểm
của thời đại.
Từ đó đến nay, Ðảng ta đã có sự bổ sung, phát triển một số điểm trong nhận
thức về mục tiêu, bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội nước ta và chắc

18


chắn chúng ta sẽ phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để
bổ sung, phát triển hơn nữa nhận thức đó.
Ðiều đó cũng là đương nhiên, phản ánh quá trình phát triển của thực tiễn và
nhận thức. Tuy nhiên cho đến nay, kế thừa Cương lĩnh năm 1991, qua tổng
kết 20 năm đổi mới, có thể khẳng định rằng: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đang xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, cơng bằng, dân
chủ, văn minh. Ðó là xã hội do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển
cao, bền vững với một hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp; có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh
phúc, được phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đồn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, có Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Ðảng Cộng sản lãnh
đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới"16
2.1.2. Về nền tảng tư tưởng của Ðảng
Từ khi Ðảng ta ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã được Ðảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo trong điều
kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
"Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Ðảng đã đề ra đường lối cách mạng
đúng đắn"17
Qua nghiên cứu lý luận và trải nghiệm thực tiễn ở nhiều nước trên thế giới,
Người rút ra kết luận rằng ngày nay học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác
- Lê-nin. Từ chỗ coi chủ nghĩa Mác - Lê-nin là "cái cốt của Ðảng", "cái gốc
16

17

Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới
Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb CTQG, HN, 2002, t.10, tr.9.

19


của Ðảng", đến Ðại hội II (năm 1951), Ðảng ta xác định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của Ðảng.
Ðến Ðại hội III (năm 1960), Ðảng khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Ðảng. Ðặc biệt đến Ðại
hội VII (năm 1991) Ðảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Ðảng và kim chỉ nam cho hành động
cách mạng.
Việc chính thức đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào nền tảng tư tưởng của Ðảng
đánh dấu một bước tiến mới, một bước phát triển quan trọng trong tư duy lý

luận của Ðảng là nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn vai trò, vị trí của tư tưởng
Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm tồn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cụ thể của nước ta,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của
Ðảng và dân tộc ta.
Việc xác định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng đòi hỏi phải nắm vững
bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, dùng lập trường (lập trường cách mạng triệt để), quan điểm (hệ
quan điểm khoa học), và phương pháp (phương pháp biện chứng duy vật), của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết đúng đắn
những vấn đề của cách mạng nước ta và thời đại đặt ra.
Ngày nay trong bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, chúng
ta phải kiên định và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, kiên quyết đấu tranh
chống lại những luận điểm sai trái, phản động của các thế lực cơ hội chính trị

20


và thù địch muốn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin với "lý do" cho rằng chủ
nghĩa Mác - Lê-nin là "ngoại lai", "ngoại nhập" đã lỗi thời vì nó chỉ thích hợp
với nền văn minh cơ khí ở thế kỷ 19 chứ khơng thích hợp với nền văn minh
tin học, với kinh tế tri thức ở thế kỷ 21, v.v... Ðồng thời chúng còn xuyên tạc,
phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ðồng thời phải kiên quyết khắc phục bệnh giáo điều (cả giáo điều cũ và giáo
điều mới), đẩy mạnh việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, thường
xuyên đổi mới nội dung và phương pháp nghiên cứu, cách dạy và cách học
chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh một cách thiết thực, có hiệu

quả, gắn với thực tiễn, khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp.
Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi Ðảng ta phải kiên trì và vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giải đáp được những
vấn đề mới do thực tiễn đặt ra, tiếp tục làm sáng tỏ hơn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta trong bối cảnh mới của thời đại.
2.1.3. Về động lực của sự phát triển
Những thành tựu to lớn đạt được trong những năm đổi mới là nhờ Ðảng ta đã
biết tạo lập và phát huy một hệ thống động lực phát triển xã hội. Nhờ đó lực
lượng sản xuất và con người được giải phóng, các nguồn nội lực được huy
động nhiều hơn, kinh tế tăng trưởng tương đối nhanh, xã hội trở nên năng
động, linh hoạt hơn, đời sống xã hội trở nên sống động hơn. Trong hệ thống
các động lực của đổi mới, trước hết phải kể đến ba động lực quan trọng sau.
- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết tồn dân tộc trên nền tảng liên minh giai
cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thứ dưới sự lãnh đạo của
Ðảng.

21


Khi sinh thời, khái quát và tổng kết bài học trong lịch sử dân tộc và lịch sử
cách mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
"Ðồn kết, đồn kết, đại đồn kết,
Thành cơng, thành cơng, đại thành công"
Ý thức sâu sắc bài học trên đây, trong những năm đổi mới, Ðảng ta luôn quan
tâm xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên
minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Ðảng lãnh
đạo, xem đây là nguồn sức mạnh và động lực chủ yếu bảo đảm thắng lợi bền
vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời kỳ quá độ, còn nhiều thành phần kinh tế nên còn nhiều giai cấp và
tầng lớp xã hội khác nhau. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp

xã hội cũng như mối quan hệ giữa các dân tộc là quan hệ đoàn kết và hợp tác
lâu dài trong nội bộ nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cơ sở khách quan của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là sự thống nhất về lợi
ích. Lợi ích của giai cấp cơng nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong
mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong thời kỳ quá độ tất yếu còn đấu tranh giai cấp, song cuộc đấu tranh này
diễn ra trong điều kiện mới với nội dung và hình thức mới mà "nội dung chủ
yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc
phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội,
chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và
hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động

22


chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta
thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc"18
Với nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp được Ðảng ta quan niệm như vậy
thì khơng những khơng mâu thuẫn mà trái lại, hoàn toàn thống nhất với yêu
cầu xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Yêu cầu này đòi hỏi
các nhân tố cấu thành cộng đồng dân tộc (các giai cấp, tầng lớp, tộc người,
các tập thể và cá nhân) ý thức rõ lợi ích chung của đất nước và hướng nỗ lực
của mình vào thực hiện lợi ích chung; lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống
nhất của Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các
tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngồi; xóa
bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp,
xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai; chấp

nhận những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung.
- Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Phát huy dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, của sự nghiệp đổi mới, bởi vì dân chủ thuộc bản chất
của chủ nghĩa xã hội, khơng có dân chủ thì khơng có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa xã hội phải là chế độ dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản như V.I.Lênin đã chỉ ra.
Thấm nhuần tư tưởng mác-xít về dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm
sâu sắc đến vấn đề dân chủ, vấn đề phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

18

Văn kiện Ðại hội IX, Nxb CTQG, HN, 2001, tr.86.
23


Theo Người, dân chủ tức là "dân là chủ", "dân làm chủ". Người chỉ rõ "nước
ta là nước dân chủ", nghĩa là "quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"19
Trong 20 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn trong đổi mới kinh tế
- xã hội, chúng ta cũng đạt được những thành tựu quan trọng về phát huy dân
chủ của nhân dân. Công cuộc dân chủ hóa xã hội đã phát huy tiềm năng sáng
tạo của con người, phát huy các nguồn lực cho phát triển đất nước, tính tích
cực, chủ động của nhân dân được tăng lên, sự tham gia của nhân dân vào các
quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... ngày càng được mở rộng và tự
giác; quyền dân chủ của nhân dân từng bước được thể chế hóa trong chính
sách và pháp luật của Nhà nước. Quy chế dân chủ ở cơ sở được triển khai
tương đối rộng khắp. Dân chủ trong Ðảng được phát huy.
Hoạt động của Nhà nước từng bước được đổi mới theo hướng ngày càng phản
ánh được tiếng nói, nguyện vọng của nhân dân. Báo chí ngày càng phát triển
đa dạng, phản ánh được công luận về các vấn đề xã hội bức xúc. Những thành
tựu về phát huy dân chủ cho thấy Ðảng ta có khả năng tổ chức, lãnh đạo được

việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân để tạo thành động lực mạnh mẽ
xây dựng xã hội mới.
Tuy nhiên trong điều kiện một đảng cầm quyền, nguy cơ quan liêu, xa dân,
mất dân chủ, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân là rất lớn. Vì vậy Ðảng và
Nhà nước cần có những chính sách, biện pháp cụ thể, mạnh mẽ để khắc phục
nguy cơ trên, đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội. Có như vậy mới huy động được
nguồn lực vật chất và tinh thần trong nhân dân, phát huy hết tiềm lực vào sự
nghiệp đổi mới. Cần phát huy vai trò động lực mạnh mẽ của dân chủ, coi
trọng cả dân chủ ở cấp trung ương và dân chủ ở cơ sở, cả dân chủ trực tiếp,

19

Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, t.5, tr.698.

24


dân chủ gián tiếp và các hình thức tự quản trong các cộng đồng dân cư ở cơ
sở, cả dân chủ trong Ðảng và dân chủ trong xã hội. Không ngừng nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, thường xuyên đổi mới và chỉnh
đốn Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh thể
hiện thực sự quyền làm chủ của nhân dân, phát huy vai trò tư vấn, giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, đồng
thời coi trọng vai trị của báo chí cách mạng phản ánh tiếng nói của nhân dân,
cải tiến sự lãnh đạo và quản lý đối với báo chí. Bằng quyết tâm lớn với những
giải pháp toàn diện, cụ thể chúng ta sẽ chứng minh đầy đủ cả trong lý luận và
trong thực tiễn rằng một đảng cầm quyền vẫn hồn tồn có thể bảo đảm được
dân chủ cho nhân dân, để bác bỏ quan điểm sai trái cho rằng "một Ðảng cầm
quyền là mất dân chủ", rằng "muốn dân chủ phải đa nguyên, đa đảng".
- Kết hợp hài hịa lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân, quan tâm lợi ích thiết

thân của con người.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã sớm nhận rõ vai trò động lực của lợi ích trong hoạt
động của con người. Theo các ông, hoạt động của con người chẳng qua là q
trình theo đuổi lợi ích của mình, hoặc lý tưởng sẽ tự làm nhục mình nếu tách
rời lợi ích. Một bài học của xây dựng chủ nghĩa xã hội mà đã được Lê-nin rút
ra từ thời kỳ chính sách kinh tế mới (NEP) ở nước Nga là phải quan tâm đến
lợi ích thiết thân của con người, làm cho mỗi người quan tâm đến lợi ích
chính đáng của mình, lấy đó làm động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất thúc đẩy
họ hành động, qua đó góp phần thúc đẩy q trình xây dựng xã hội mới.
Có thể nói thành công của đổi mới là do chúng ta đã quan tâm hơn đến vấn đề
lợi ích thiết thân, cụ thể của người lao động, đã tìm ra được những hình thức
tổ chức sản xuất và những hình thức phân phối tác động vào lợi ích - khâu
nhạy cảm trong hoạt động con người, qua đó kích thích tính sáng tạo năng

25


×