Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Lý thuyết nhu cầu của abraham maslow

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.82 KB, 25 trang )

LÝ THUYẾT NHU CẦU CỦA ABRAHAM MASLOW
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do lựa chọn đề tài
Thuyết nhu cầu của A. Maslow là thuyết đạt tới đỉnh cao trong việc nhận dạng các
nhu cầu tự nhiên của con người nói chung. Cho đến nay, chưa có thuyết nào thay thế tốt
hơn thuyết này mặc dù cũng có khá nhiều “ứng cử viên" có ý định thay thế. Theo thuyết
A. Maslow, nhu cầu tự nhiên của con người được chia thành các thang bậc khác nhau từ
"đáy” lên tới “đỉnh”, phản ánh mức độ "cơ bản” của nó đối với sự tồn tại và phát triển của
con người vừa là một sinh vật tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội.
Việc sắp xếp nhu cầu theo thang bậc từ thấp đến cao cho thấy độ “dã man" của
con người giảm dần và độ “văn minh” của con người tăng dần. Cấp độ thấp nhất và cơ
bản nhất là nhu cầu thể chất hay thể xác của con người gồm nhu cầu ăn, mặc, ở... Cấp độ
tiếp theo là nhu cầu an toàn hay nhu cầu được bảo vệ. Nhu cầu an tồn có an tồn về tính
mạng và an tồn về tài sản. Cao hơn nhu cầu an toàn là nhu cầu quan hệ như quan hệ giữa
người với người, quan hệ con người với tổ chức hay quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Con người ln có nhu cầu u thương gắn bó. Cấp độ nhu cầu này cho thấy con người
có nhu cầu giao tiếp để phát triển. Ở trên cấp độ này là nhu cầu được nhận biết và tôn
trọng. Đây là mong muốn của con người nhận được sự chú ý, quan tâm và tôn trọng từ
những người xung quanh và mong muốn bản thân là một “mắt xích” khơng thể thiếu
trong hệ thống phân cơng lao động xã hội. Việc họ được tôn trọng cho thấy bản thân từng
cá nhân đều mong muốn trở thành người hữu dụng theo một điều giản đơn là “xã hội
chuộng của chuộng cơng”. Vì thế, con người thường có mong muốn có địa vị cao để
được nhiều người tơn vọng và kính nể. Vượt lên trên tất cả các nhu cầu đó là nhu cầu sự
thể hiện. Đây là khát vọng và nỗ lực để đạt được mong muốn. Con người tự nhận thấy
bản thân cần thực hiện một công việc nào đó theo sở thích và chỉ khi cơng việc đó được
thực hiện thì họ mới cảm thấy hài lịng. Thuyết nhu cầu sắp xếp nhu cầu con người từ
thấp lên cao.


Các nhu cầu cao hơn nhu cầu cơ bản trên được gọi là nhu cầu bậc cao. Những nhu cầu
này bao gồm nhiều nhân tố tinh thần như sự đòi hỏi cơng bằng, an tâm, an tồn, vui vẻ,


địa vị xã hội, sự tôn trọng, vinh danh với một cá nhân v.v.
Các nhu cầu cơ bản thường được ưu tiên chú ý trước so với những nhu cầu bậc cao này.
Với một người bất kỳ, nếu thiếu ăn, thiếu uống... họ sẽ không quan tâm đến các nhu cầu
về vẻ đẹp, sự tôn trọng... Tuy nhiên, tuỳ theo nhận thức, kiến thức, hoàn cảnh, thứ bậc
các nhu cầu cơ bản có thể đảo lộn. Ví dụ như: người ta có thể hạn chế ăn, uống, ngủ nghỉ
để phục vụ cho các sự nghiệp cao cả hơn.
Quan điểm này có nhiều ý kiến phản đối về nhiều khía cạnh. Khi phân tích tháp nhu cầu
này, người ta thấy vì Maslow là người Mỹ cho nên có thể hiểu được là tại sao ông ta xếp
trên đỉnh cao nhất là sự tự khẳng định cá nhân. Trong các xã hội cộng đồng, yếu tố cá
nhân khơng quan trọng bằng yếu tố nhóm, yếu tố tập thể. Thay vì đặt nhu cầu cá nhân
trên đỉnh tháp như quan điểm của Maslow, người ta xếp nhu cầu nhóm ở đỉnh cao của
tháp. Sự thành cơng của cá nhân chính là sự thành cơng của nhóm. Trong các xã hội cộng
đồng nghèo khó, có thể thơng qua thoả mãn nhu cầu gắn bó, người ta có thể thỏa mãn
nhu cầu an tồn cũng như nhu cầu tồn tại.
Nhiều nhà nghiên cứu phản đối xếp nhu cầu theo hình tháp của Maslow, vì vậy người ta
đưa ra quan điểm xếp nhu cầu theo từng cái thùng, cái hộp. Sở dĩ sơ đồ theo hình tháp, có
thể là ý muốn ám chỉ nhu cầu càng ở cao càng khó khăn đạt được.
Nhu cầu hồn thiện bản thân: quan niệm về vấn đề này khác nhau trong các xã hội khác
nhau. Ở xã hội phương Tây, nhiều khi người ta coi trọng sự nghiệp, coi trọng cá nhân
hơn những nghĩa vụ đối với người xung quanh, đối với xã hội. Ngược lại trong xã hội
mang tính cộng đồng, người ta lại coi việc thực hiện các nghĩa vụ đối với xã hội, đối với
những người xung quanh là nhu cầu khẳng định cá nhân.
Theo Maslow, khi con người có nhu cầu, nhu cầu sẽ chuyển thành ham muốn, người ta sẽ
có hành vi đề đạt được ham muốn, ngừơi ta bỏ sức lực để thoả mãn nhu cầu của mình.
Người ta phê phán Maslow là ơng khơng chỉ ra phương thức chuyển hóa từ nhu cầu sang
động cơ.


MỤC LỤC:
1. Lời mở đầu………………………………………………………………………..1

2. Phần nội dung…………………………………………………………………….6
3. Đánh giá những đóng góp của lý thuyết……………………………………… 12
4. Kết luận…………………………………………………………………………..22
5. Tài liệu tham khảo


PHẦN NỘI DUNG
Lý thuyết của tác giả lựa chọn nghiên cứu
Nhà tâm lý học Abraham Maslow (1908-1970) được xem như một trong những
người tiên phong trong trường phái Tâm lý học nhân văn (humanistic psychology),
trường phái này được xem là thế lực thứ 3 (the Third Force) khi thế giới lúc ấy đang biết
đến 2 trường phái tâm lý chính: Phân tâm học (Psychoanalysis) và Chủ nghĩa hành vi
(Behaviorism).
Năm 1943, ông đã phát triển một trong các lý thuyết mà tầm ảnh hưởng của nó
được thừa nhận rộng rãi và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm cả
lĩnh vực giáo dục. Đó là lý thuyết về Thang bậc nhu cầu (Hierarchy of Needs) của con
người. Trong lý thuyết này, ông sắp xếp các nhu cầu của con người theo một hệ thống
trật tự cấp bậc, trong đó, các nhu cầu ở mức độ cao hơn muốn xuất hiện thì các nhu cầu ở
mức độ thấp hơn phải được thỏa mãn trước.
Tổng quan về lý thuyết Thang bậc nhu cầu của Maslow (Maslow’s Hierarchy of
Needs)Trong thời điểm đầu tiên của lý thuyết, Maslow đã sắp xếp các nhu cầu của con
người theo 5 cấp bậc:
- Nhu cầu cơ bản (basic needs)
- Nhu cầu về an toàn (safety needs)
- Nhu cầu về xã hội (social needs)
- Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs)
- Nhu cầu được thể hiện mình (self-actualizing needs)


Sau đó, vào những năm 1970 và 1990, sự phân cấp này đã được Maslow hiệu

chỉnh thành 7 bậc và cuối cùng là 8 bậc:
- Nhu cầu cơ bản (basic needs)
- Nhu cầu về an toàn (safety needs)
- Nhu cầu về xã hội (social needs)
- Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs)
- Nhu cầu về nhận thức (cognitive needs)
- Nhu cầu về thẩm mỹ (aesthetic needs)
- Nhu cầu được thể hiện mình (self-actualizing needs)
- Sự siêu nghiệm (transcendence)
Hệ thống cấp bậc nhu cầu của Maslow thường được thể hiện dưới dạng một hình
kim tự tháp, các nhu cầu ở bậc thấp thì càng xếp phía dưới.
Nhu cầu cơ bản (basic needs):
Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu của cơ thể (body needs) hoặc nhu cầu sinh lý
(physiological needs), bao gồm các nhu cầu cơ bản của con người như ăn, uống, ngủ,
khơng khí để thở, tình dục, các nhu cầu làm cho con người thoải mái,…đây là những nhu
cầu cơ bản nhất và mạnh nhất của con người. Trong hình kim tự tháp, chúng ta thấy
những nhu cầu này được xếp vào bậc thấp nhất: bậc cơ bản nhất.


Maslow cho rằng, những nhu cầu ở mức độ cao hơn sẽ không xuất hiện trừ khi
những nhu cầu cơ bản này được thỏa mãn và những nhu cầu cơ bản này sẽ chế ngự, hối
thúc, giục giã một người hành động khi nhu cầu cơ bản này chưa đạt được.
Ông bà ta cũng đã sớm nhận ra điều này khi cho rằng: “Có thực mới vực được
đạo”, cần phải được ăn uống, đáp ứng nhu cầu cơ bản để có thể hoạt động, vươn tới nhu
cầu cao hơn.
Chúng ta có thể kiểm chứng dễ dàng điều này khi cơ thể khơng khỏe mạnh, đói
khát hoặc bệnh tật, lúc ấy, các nhu cầu khác chỉ còn là thứ yếu.
Sự phản đối của công nhân, nhân viên khi đồng lương không đủ nuôi sống họ
cũng thể hiện việc đáp ứng các yêu cầu cơ bản cần phải được thực hiện ưu tiên.
Nhu cầu về an toàn, an ninh (safety, security needs):

Khi con người đã được đáp ứng các nhu cầu cơ bản, tức các nhu cầu này khơng
cịn điều khiển suy nghĩ và hành động của họ nữa, họ sẽ cần gì tiếp theo? Khi đó các nhu
cầu về an tồn, an ninh sẽ bắt đầu được kích hoạt. Nhu cầu an toàn và an ninh này thể
hiện trong cả thể chất lẫn tinh thần.
Con người mong muốn có sự bảo vệ cho sự sống cịn của mình khỏi các nguy
hiểm. Nhu cầu này sẽ trở thành động cơ hoạt động trong các trường hợp khẩn cấp, nguy
khốn đến tính mạng như chiến tranh, thiên tai, gặp thú dữ,…. Trẻ con thường hay biểu lộ
sự thiếu cảm giác an toàn khi bứt rứt, khóc địi cha mẹ, mong muốn được vỗ về.
Nhu cầu này cũng thường được khẳng định thông qua các mong muốn về sự ổn
định trong cuộc sống, được sống trong các khu phố an ninh, sống trong xã hội có pháp
luật, có nhà cửa để ở,…Nhiều người tìm đến sự che chở bởi các niềm tin tôn giáo, triết
học cũng là do nhu cầu an toàn này, đây chính là việc tìm kiếm sự an tồn về mặt tinh
thần.
Các chế độ bảo hiểm xã hội, các chế độ khi về hưu, các kế hoạch để dành tiết
kiệm, …cũng chính là thể hiện sự đáp ứng nhu cầu an tồn này.
* Thơng qua việc nghiên cứu 2 cấp bậc nhu cầu trên chúng ta có thể thấy nhiều điều thú
vị:


- Muốn kìm hãm hay chặn đứng sự phát triển của một người nào đó, cách cơ bản
nhất là tấn công vào các nhu cầu bậc thấp của họ. Nhiều người làm việc chịu đựng các
địi hỏi vơ lý, các bất cơng, vì họ sợ bị mất việc làm, khơng có tiền ni bản thân và gia
đình, họ muốn được yên thân,…
- Muốn một người phát triển ở mức độ cao thì phải đáp ứng các nhu cầu bậc thấp
của họ trước: đồng lương tốt, chế độ đãi ngộ hợp lý, nhà cửa ổn định,…Chẳng phải ông
bà chúng ta đã nói: “An cư mới lạc nghiệp” hay sao?
- Một đứa trẻ đói khát cùng cực thì khơng thể học tốt, một đứa trẻ bị stress thì
khơng thể học hành, một đứa trẻ bị sợ hãi, bị đe dọa thì càng không thể học. Lúc này, các
nhu cầu cơ bản, an tồn, an ninh được kích hoạt và nó chiếm quyền ưu tiên so với các
nhu cầu học hành. Các nghiên cứu về não bộ cho thấy, trong các trường hợp bị sợ hãi, bị

đe doạ về mặt tinh thần và thể xác, não người tiết ra các hóa chất ngăn cản các quá trình
suy nghĩ, học tập.
Nhu cầu về xã hội (social needs):
Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu mong muốn thuộc về một bộ phận, một tổ
chức nào đó (belonging needs) hoặc nhu cầu về tình cảm, tình thương (needs of love).
Nhu cầu này thể hiện qua quá trình giao tiếp như việc tìm kiếm, kết bạn, tìm người yêu,
lập gia đình, tham gia một cộng đồng nào đó, đi làm việc, đi chơi picnic, tham gia các câu
lạc bộ, làm việc nhóm, …
Nhu cầu này là một dấu vết của bản chất sống theo bầy đàn của lồi người chúng
ta từ buổi bình minh của nhân loại. Mặc dù, Maslow xếp nhu cầu này sau 2 nhu cầu phía
trên, nhưng ơng nhấn mạnh rằng nếu nhu cầu này khơng được thoả mãn, đáp ứng, nó có
thể gây ra các bệnh trầm trọng về tinh thần, thần kinh. Nhiều nghiên cứu gần đây cũng
cho thấy, những người sống độc thân thường hay mắc các bệnh về tiêu hóa, thần kinh, hơ
hấp hơn những người sống với gia đình. Chúng ta cũng biết rõ rằng: sự cơ đơn có thể dễ
dàng giết chết con người. Nhiều em ở độ tuổi mới lớn đã lựa chọn con đường từ bỏ thế
giới này với lý do: “Những người xung quanh, khơng có ai hiểu con!”.


Để đáp ứng cấp bậc nhu cầu thứ 3 này, nhiều cơng ty đã tổ chức cho các nhân viên
có các buổi cắm trại ngoài trời, cùng chơi chung các trò chơi tập thể, nhà trường áp dụng
các phương pháp làm việc theo nhóm, các phương pháp giảng dạy dựa trên vấn đề, các tổ
chức Đoàn, Đội trong nhà trường được giao trách nhiệm tập hợp các em, định hướng các
em vào những hoạt động bổ ích. Các kết quả cho thấy: các hoạt động chung, hoạt động
ngoài trời đem lại kết quả tốt cho tinh thần và hiệu suất cho công việc được nâng cao.
Kinh nghiệm giảng dạy của nhiều giáo viên cũng đưa đến kết luận: phần lớn các
em học sinh sống trong các gia đình hay bất hịa, vợ chồng lục đục, thiếu quan tâm, tình
thương của gia đình thường có kết quả học tập khơng cao như các em học sinh khác.
Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs):
Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu tự trọng (self esteem needs) vì nó thể hiện 2
cấp độ: nhu cầu được người khác quý mến, nể trọng thông qua các thành quả của bản

thân, và nhu cầu cảm nhận, quý trọng chính bản thân, danh tiếng của mình, có lịng tự
trọng, sự tự tin vào khả năng của bản thân. Sự đáp ứng và đạt được nhu cầu này có thể
khiến cho một đứa trẻ học tập tích cực hơn, một người trưởng thành cảm thấy tự do hơn.
Chúng ta thường thấy trong công việc hoặc cuộc sống, khi một người được khích
lệ, tưởng thưởng về thành quả lao động của mình, họ sẵn sàng làm việc hăng say hơn,
hiệu quả hơn. Nhu cầu này được xếp sau nhu cầu “thuộc về một tổ chức”, nhu cầu xã hội
phía trên. Sau khi đã gia nhập một tổ chức, một đội nhóm, chúng ta ln muốn được mọi
người trong nhóm nể trọng, quý mến, đồng thời chúng ta cũng phấn đấu để cảm thấy
mình có “vị trí” trong nhóm đó.
Kinh nghiệm giáo dục cũng chỉ ra rằng: các hành động bêu xấu học sinh trước lớp,
cho các học sinh khác “lêu lêu” một em học sinh bị phạm lỗi,… chỉ dẫn đến những hậu
quả tồi tệ hơn về mặt giáo dục, tâm lý.
“Nhà sư phạm lỗi lạc Makarenko trong suốt cuộc đời dạy dỗ trẻ em hư, khi được
hỏi bí quyết nào để sửa trị các em, ông nói “Tôi chỉ đúc kết trong một công thức ngắn
gọn: Tôn trọng và yêu cầu cao”. Bản chất tâm lý con người ai cũng muốn được tôn trọng,
chạm đến lòng tự trọng là chạm đến điều sâu và đau nhất, là điểm tử huyệt nhất của con
người (cho dù đó là đứa trẻ khó dạy, chưa ngoan).


Chỉ tôn trọng mà không yêu cầu là không ổn. Khi được tôn trọng là đã cho con
người ở đúng vị trí “Người” nhất của mình. Do vậy, cần có trách nhiệm buộc phải sống
và hành xử đúng đắn với sự tơn trọng đó.””
Nhu cầu được thể hiện mình (self-actualizing needs):
Khi nghe về nhu cầu này: “thể hiện mình” chúng ta khoan vội gán cho nó ý nghĩa
tiêu cực. Khơng phải ngẫu nhiên mà nhu cầu này được xếp đặt ở mức độ cao nhất. “Thể
hiện mình” khơng đơn giản có nghĩa là nhuộm tóc lịe lẹt, hút thuốc phì phèo, “xổ nho”
khắp nơi, nói năng khệnh khạng, …
Maslow mơ tả nhu cầu này như sau: “self-actualization as a person’s need to be
and do that which the person was “born to do”” (nhu cầu của một cá nhân mong muốn
được là chính mình, được làm những cái mà mình “sinh ra để làm”). Nói một cách đơn

giản hơn, đây chính là nhu cầu được sử dụng hết khả năng, tiềm năng của mình để tự
khẳng định mình, để làm việc, đạt các thành quả trong xã hội.
Chúng ta có thể thấy nhiều người xung quanh mình, khi đã đi đến đoạn cuối của
sự nghiệp thì lại ln hối tiếc vì mình đã khơng được làm việc đúng như khả năng, mong
ước của mình. Hoặc có nhiều trường hợp, một người đang giữ một vị trí lương cao trong
một cơng ty, lại vẫn dứt áo ra đi vì muốn thực hiện các cơng việc mà mình mong muốn,
cái cơng việc mà Maslow đã nói “born to do”. Đó chính là việc đi tìm kiếm các cách thức
mà năng lực, trí tuệ, khả năng của mình được phát huy và mình cảm thấy hài lịng về nó.


ĐÁNH GIÁ NHỮNG ĐĨNG GĨP CỦA LÝ THUYẾT
Mơ hình của Maslow được phát triển dựa trên nền tảng nghiên cứu các chủ thể ở Hoa Kỳ,
và được ứng dụng thành công trong lĩnh vực quản lý tại các doanh nghiệp Hoa Kỳ. Vì
vậy, nghiên cứu của Gambrel và Cianci (2003) được thực hiện nhằm trả lời câu hỏi liệu
lý thuyết của Maslow có thể ứng dụng tốt ở các quốc gia khác nhau hay khơng. Sử dụng
Trung Quốc như ví dụ minh họa, nghiên cứu tập trung đánh giá Tháp nhu cầu Maslow
nhằm xác định liệu lý thuyết này có thể được áp dụng ở một quốc gia có nền văn hóa
mang đặc trưng của chủ nghĩa tập thể như Trung Quốc hay không.
Các nghiên cứu về chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tập thể từng được thực hiện bởi
Hofstede (1980), Schwartz (1994), Triandis (1995) (trích trong Gambrel và Cianci, 2003)
đã chỉ rõ các đặc điểm tương phản của chủ nghĩa cá nhân trong nền văn hóa Hoa Kỳ với
chủ nghĩa tập thể trong nền văn hóa Trung Quốc. Theo đó, trong xã hội thịnh hành chủ
nghĩa cá nhân thì mỗi cá nhân phải nỗ lực để có cuộc sống tốt đẹp hơn dựa vào chính
năng lực cá nhân. Các thành tựu đạt được, sự tự khẳng định bản thân, sự tôn trọng… là


các đặc điểm cơ bản của văn hóa cá nhân, đồng thời đây cũng là nội dung của nhu cầu ở
bậc thứ 4 (nhu cầu được tôn trọng) và nhu cầu ở bậc thứ 5 (nhu cầu tự thể hiện bản thân)
trong Tháp nhu cầu Maslow. Sự khác nhau giữa văn hóa cá nhân và văn hóa tập thể cịn
được phản chiếu qua nơi mỗi cá nhân đặt niềm tin: tin vào quyết định của tập thể/ hay tin

vào quyết định của chính mình.
Chính vì vậy, lý thuyết Tháp nhu cầu của người Trung Quốc được phát triển bởi
Nevis (1983) dựa trên nền tảng mơ hình của Maslow (trích trong Gambrel và Cianci,
2003) đã chỉ ra điểm khác biệt lớn nhất giữa Tháp nhu cầu của người Trung Quốc (Nevis)
so với Tháp nhu cầu Maslow chính là ở vị trí thứ bậc của “nhu cầu xã hội”, và sự loại bỏ
“nhu cầu được tôn trọng” ra khỏi Tháp nhu cầu. Cụ thể, theo Nevis thứ bậc từ thấp đến
cao trong Tháp nhu cầu như sau: nhu cầu xã hội – nhu cầu sinh học – nhu cầu an toàn nhu
cầu tự thể hiện bản thân. Kết quả nghiên cứu của Gambrel và Cianci (2003) cho thấy cần
có sự điều chỉnh mơ hình gốc của Maslow trước khi áp dụng ở các quốc gia có nền văn
hóa tập thể như Trung Quốc và các nước Đông Á khác. Nghiên cứu của Adler (1991),
Child (1981), Triandis (1995) (trích trong Geren, 2011) đã khẳng định khi nghiên cứu về
ĐLLV của các cá nhân đặt trong mơi trường tổ chức thì cần xem xét đến yếu tố văn hóa.
Ứng dụng Tháp nhu cầu Maslow vào khu vực công tại Việt Nam
Với đối tượng nghiên cứu là ĐLLV của CBCCVC ở Việt Nam thì việc xem xét
các đặc trưng của nền văn hóa tập thể là cần thiết. Adler (1991) (trích trong Geren, 2011)
cho rằng khung tham chiếu của mỗi cá nhân quyết định trật tự tầm quan trọng của các
nhu cầu, và khung tham chiếu này được quyết định một phần bởi nền văn hóa nơi mỗi
người sinh sống. Adler (1991), Shenkar (1994), Hofstede & Bond (1988) (trích trong
Geren, 2011) khẳng định rằng xã hội các nước phương Tây chú trọng nhiều đến hành vi
cá nhân, trong khi đó xã hội Trung Quốc lại quan tâm nhiều đến yếu tố tập thể. Do đó,
các nhà nghiên cứu không thể áp dụng cùng một mô hình cho cả hai nền văn hóa khác
nhau này. Chẳng hạn, người lao động ở các quốc gia có nền văn hóa tập thể mà điển hình
là Trung Quốc thường chú ý nhiều đến nhu cầu xã hội và được tôn trọng hơn là các nhu
cầu cá nhân và nhu cầu tự thể hiện bản thân (Certo, 1990; Hofstede, 1980, trích trong
Geren, 2011). Vì vậy, lý thuyết Tháp nhu cầu Maslow vốn đúc kết từ nghiên cứu các cá


nhân làm việc trong khu vực tư nhân tại Hoa Kỳ - một quốc gia điển hình của chủ nghĩa
cá nhân - cần phải được điều chỉnh cho phù hợp trước khi áp dụng vào Việt Nam.
Theo Nevis, đối với phần lớn người Trung Quốc, trong một tổ chức làm việc thì

xây dựng mối quan hệ mật thiết với đồng nghiệp hay các thành viên khác trong cùng một
nhóm được xem là quan trọng hơn nhiệm vụ thực hiện tốt cơng việc. Do đó, nhu cầu xã
hội trở thành nhu cầu ở bậc thấp nhất (nhu cầu quan trọng nhất). Bên cạnh đó, do chủ
nghĩa cá nhân khơng được chú trọng và lợi ích cá nhân lại được định nghĩa theo lợi ích
nhóm nên nhu cầu được tơn trọng bị loại ra khỏi mơ hình của Nevis.
Xét về khía cạnh văn hóa thì mơ hình của Nevis được cho là phù hợp hơn mơ hình
của Maslow khi áp dụng vào Việt Nam do sự tương đồng về văn hóa giữa Việt Nam và
Trung Quốc. Tuy nhiên, việc loại bỏ hay giữ lại nhu cầu được tơn trọng trong mơ hình
cần phải được suy xét kỹ lưỡng. Bởi lẽ, Nevis thực hiện nghiên cứu tại Trung Quốc vào
năm 1983, thời điểm mà nền kinh tế Trung Quốc chưa mở cửa hoàn toàn. Trải qua nhiều
cuộc cải cách, hội nhập quốc tế sâu rộng ở cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, bối cảnh xã hộihiện nay đã thay đổi khá nhiều so với những năm đầu thập niên 80. Người lao động trở
nên tự do hơn, chú ý đến nhu cầu cá nhân nhiều hơn, và liên tục nỗ lực để tìm kiếm địa vị
cao hơn. Tôi cho rằng việc giữ lại nhu cầu được tơn trọng trong mơ hình phân tích các
nhân tố ảnh hưởng đến ĐLLV là cần thiết. Ngoài ra, để mơ hình có thể vận hành tốt ở
khu vực cơng thì các nhân tố đặc thù cho khu vực công cần được bổ sung như người lao
động mong muốn công việc ổn định lâu dài, sự tự chủ trong cơng việc, vai trị của Cơng
Đồn...
Việc ứng dụng tháp nhu cầu Maslow trong công ty khá đơn giản, bởi lẽ nó sẽ
ứng với mỗi cấp độ của tháp. Cụ thể như sau:
Nhu cầu sinh lý: Nhu cầu sinh lý hay cịn gọi là nhu cầu cơ bản. Cơng ty cần đảm
bảo được cho nhân viên của mình có được một mức lương phù hợp, xứng đáng với vị trí.
Trong đó, mức lương này phải đảm bảo được một cuộc sống cơ bản cho nhân viên để chi
trả cho cuộc sống. Ngoài ra, nhân viên cũng cần được cung cấp một chế độ làm việc và
nghỉ ngơi phù hợp.


Nhu cầu an toàn: Sau khi nhân viên được nhận vào làm, công ty cần đảm bảo được
điều kiện làm việc an tồn cho nhân viên. Nó nằm ở việc ký kết hợp đồng lao động giữa
nhân viên và nhân viên. Ngồi ra cơng ty cần tn thủ những quy định, luật lao động như
việc đóng bảo hiểm cho nhân viên, bao gồm bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế. Ngồi ra,

cơng ty cũng cần có bảo hiểm thất nghiệp cho nhân viên của mình phịng khi trường hợp
xấu xảy ra.
Nhu cầu xã hội: Nhu cầu xã hội trong tháp nhu cầu Maslow liên quan tới yếu tố
tình cảm, cảm xúc. Vậy nên với doanh nghiệp, để đáp ứng được nhu cầu với nhân viên
thì phải xây dựng được các phịng ban, tổ chức, hình thành cơng đồn và tạo được văn
hóa làm việc nhóm. Ngồi ra, doanh nghiệp cần tăng được sự gắn kết giữa nhân viên với
nhau, thơng qua những hoạt động ngoại khóa, teambuilding hay những chuyến du lịch
thường niên. Quy mơ của chúng có thể ở cấp độ phịng ban hoặc trên tồn cơng ty, tùy
vào thời điểm và tình hình.
Nhu cầu được tơn trọng: Trong doanh nghiệp, nhu cầu được tôn trọng của nhân
viên chính là việc được lắng nghe bởi mọi người. Ngồi ra, họ cần có được con đường
thăng tiến rõ ràng trong sự nghiệp (cả về vị trí lẫn mức lương). Ban lãnh đạo cũng cần có
được cơ chế thưởng phạt rõ ràng, cơng bằng với nhân viên vì nó thể hiện sự tơn trọng,
cũng như khích lệ đối với họ.
Nhu cầu được thể hiện bản thân: Mỗi cá nhân trong doanh nghiệp là một cá thể
riêng biệt, vì vậy doanh nghiệp cần khai thác được thế mạnh của mỗi người. Hãy trao cơ
hội để mỗi nhân viên được phát triển, điển hình như cân nhắc những vị trí lãnh đạo cho
nhân viên có đóng góp xuất sắc nhất. Nó đồng nghĩa với việc trao cho nhân viên đó
quyền hạn, tiếng nói và đóng góp vào sự phát triển của cả công ty.
Tháp nhu cầu Maslow vận dụng trong quản trị nhân sự: Thoạt nghe qua, để
vận dụng kim tự tháp Maslow trong cơng ty khá đơn giản vì nó rõ ràng với từng mốc nhu
cầu riêng. Tuy nhiên có một thực tế cần lưu ý ở đây, một nhân viên tại một cơng ty sẽ có
đồng thời cả 5 nhu cầu trên cùng một lúc. Là một nhà quản trị nhân sự, bạn cần có những
chính sách phù hợp cho từng cá nhân ở mỗi thời điểm khác nhau. Không thể nào áp dụng


cùng một thứ cho nhiều người, cũng như không thể áp dụng suốt một chính sách cho một
người vĩnh viễn được. Tùy từng đối tượng khác nhau, họ sẽ có nhu cầu khác nhau.
Ví dụ như một sinh viên mới ra trường, nhu cầu về lương thưởng chỉ dừng ở mức
vừa đủ để chi trả cuộc sống. Nhu cầu quan trọng nhất sẽ là được học hỏi thêm nhiều kinh

nghiệm, nâng cao và phát triển bản thân. Còn đối với một nhân viên có thâm niên dày
dạn kinh nghiệm, dĩ nhiên nhu cầu về học hỏi và phát triển sẽ khơng cịn được ưu tiên
hàng đầu nữa. Thay vào đó là nhu cầu về sự thăng tiến trong công việc, mức lương
thưởng và chế độ đãi ngộ tốt hơn, cũng như nhu cầu được thể hiện bản thân, có tiếng nói
trong cơng ty.
Ứng dụng tháp nhu cầu Maslow trong dịch vụ du lịch
Về bản chất, tháp nhu cầu Maslow được xây dựng để phân tích nhu cầu của con
người, vì vậy khơng khó để ứng dụng nó vào trong ngành du lịch. Chỉ có điều, những cấp
độ nhu cầu sẽ được tùy chỉnh một chút để phù hợp hơn với những yếu tố của ngành. Thế
nhưng, chúng vẫn phục vụ chung một mục đích là phân tích được nhu cầu của con người,
mà ở đây là của du khách. Từ đó doanh nghiệp sẽ có những thay đổi, chính sách phù hợp
để đáp ứng. Cụ thể 5 cấp độ trong tháp Maslow trong dịch vụ du lịch như sau:
Nhu cầu sinh học: Đây là nhu cầu cơ bản nhất đối với con người và nó cũng tương
tự với du khách. Để du khách có thể tận hưởng được trọn vẹn chuyến đi, dĩ nhiên họ cần
phải được đáp ứng về những yếu tố cơ bản như: điều kiện ăn uống, chỗ ở, đi lại. Du
khách sẽ khơng thể hài lịng về chuyến đi nếu những nhu cầu này không được đáp ứng.
Chỗ nghỉ có thoải mái khơng? Bữa ăn có đáp ứng được về chất lượng và số lượng không?
Dịch vụ vận chuyển có tốt khơng? Đó là những câu hỏi mà doanh nghiệp du lịch cần trả
lời nếu họ muốn đáp ứng nhu cầu sinh học của du khách.
Nhu cầu an tồn: Với lĩnh vực du lịch, tính an toàn là cực kỳ quan trọng. Doanh nghiệp
du lịch cần đảm bảo được điều này cho du khách ở tất cả điểm đến, cũng như mọi dịch vụ
có trong tour. Chỉ cần bất kỳ một điểm nào khiến du khách cảm thấy bị “đe dọa”, chắc
chắn nó sẽ mang lại cảm giác khơng thoải mái cho cả phía khách hàng và phía doanh
nghiệp du lịch. Để thỏa mãn nhu cầu này, doanh nghiệp du lịch cần mang lại cho du


khách những giá trị hữu hình. Nó là những điều mang lại sự an tâm cho khách hàng, điển
hình như: Bảo hiểm cho khách hàng, đảm bảo an toàn trong phương tiện di chuyển,
hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp, xử lý được tình huống phát sinh.
Nhu cầu xã hội: Đáp ứng nhu cầu xã hội cho du khách chính là thỏa mãn được yếu tố tinh

thần, mang lại những trải nghiệm du lịch thoải mái. Ngồi ra nó cịn là sự đảm bảo về
tính cá nhân hóa cho du khách. Hiểu đơn giản, một chuyến du lịch đáp ứng được nhu cầu
xã hội của du khách là khi nó mang lại bầu khơng khí vui vẻ, thoải mái và duy trì được nó
trong suốt chuyến đi. Ngồi ra, hướng dẫn viên du lịch cần thể hiện được sự tận tình khi
hỗ trợ, khuấy động được bầu khơng khí và tạo được sự hứng khởi cho du khách. Từ đó
mang lại trải nghiệm du lịch tốt nhất cho du khách, giúp họ cảm thấy thích thú và khám
phá được thêm điều mới.
Nhu cầu được tôn trọng: Yếu tố này tương ứng với mức 4 trong tháp nhu cầu
Maslow. Trong đó, doanh nghiệp/nhà cung cấp dịch vụ du lịch cần đảm bảo được du
khách cảm thấy được tôn trọng trong suốt chuyến đi. Nó giống với việc, muốn du khách
tơn trọng và quý mến doanh nghiệp thì doanh nghiệp cũng cần thể hiện lại sự tôn trọng
với họ. Điều này được thể hiện qua những việc như: hướng dẫn viên thay mặt doanh
nghiệp gửi lời cảm ơn tới đoàn du khách sau chuyến đi, hướng dẫn viên tận tình hướng
dẫn và giải đáp thắc mắc cho du khách, sự tôn trọng giữa những du khách trong đoàn,..
Nhu cầu được thể hiện bản thân: Đây là cấp độ cao nhất trong tháp nhu cầu Maslow,
cũng là yếu tố mà mọi doanh nghiệp du lịch muốn hoàn thành. Bởi lẽ chỉ khi đáp ứng
được nhu cầu này, doanh nghiệp mới mang lại cho du khách trải nghiệm tuyệt vời nhất.
Với nhiều du khách, du lịch không chỉ là nghỉ dưỡng hay trải nghiệm mà nó cịn là
khám phá bản thân, truyền cảm hứng cho người xung quanh. Chính vì vậy, nếu một
doanh nghiệp du lịch có thể cung cấp cho du khách cơng cụ để thực hiện điều này, đồng
nghĩa với việc họ đã đáp ứng và thỏa mãn được nhu cầu này.
Ứng dụng tháp nhu cầu Maslow trong tình yêu
Thật ngạc nhiên khi tháp Maslow – một mơ hình thường thấy trong quản trị doanh
nghiệp lại có thể ứng dụng trong cả tình u. Sở dĩ có thể làm như vậy là vì bản chất của
tháp Maslow là phân tích con người. Mỗi cá thể sẽ bị ràng buộc vào trong những nhu cầu


trong mơ hình này, trong khi tình u là hiện tượng xảy ra giữa người với người vậy nên
các nguyên lý của tháp vẫn hồn tồn có thể được áp dụng. Vậy cụ thể ứng dụng tháp nhu
cầu Maslow trong tình u như nào? Hãy theo dõi bài phân tích dưới đây:

Nhu cầu sinh học: Cũng giống như bao thứ khác, nhu cầu sinh học là nhu cầu cơ
bản nhất của một con người. Xét ở khía cạnh tình u, có nghĩa bạn cần đáp ứng được
những nhu cầu về mặt đời sống cho bạn đời của mình. Điều này khơng q phức tạp, chỉ
đơn giản là bạn có một công việc với mức thu nhập đủ tốt để lo cho cuộc sống của cả hai.
Tuy nhiên nó khơng chỉ dừng ở mức sống đủ mà nó phải hơn như thế, bạn phải tìm cách
để nâng cao và cải thiện chất lượng cuộc sống cho nửa kia của mình.
Nhu cầu an toàn: Hiểu đơn giản, bạn cần tạo được cảm giác an tồn cho người kia khi ở
bên cạnh mình. Nó thể hiện ở việc bạn mang lại cho bạn đời của mình một cuộc sống
lành mạnh, an tồn. Yếu tố an tồn ở đây thể hiện ở nhiều khía cạnh trong cuộc sống. Đó
là một chỗ ở an tồn, một nơi làm việc an toàn, hay một cuộc sống tinh thần thoải mái.
Nhu cầu xã hội: Bất kỳ ai trong cuộc sống cũng đều mong muốn được mọi người yêu
quý, có những người bạn tâm giao để sẻ chia, trị chuyện. Trong tình u cũng vậy, đáp
ứng được nhu cầu này chính là bạn trở thành một người tin cậy với nửa kia của mình. Là
một người mà người ấy có thể chia sẻ, tâm sự mọi chuyện với mình.
Nhu cầu được tơn trọng: Mức nhu cầu này cũng khá giống khi áp dụng trong
doanh nghiệp. Có nghĩa là mỗi cá nhân họ cần được người khác tôn trọng về danh dự,
nhân phẩm và tiếng nói của mình. Kể cả khi đã là bạn đời của nhau, hai người vẫn là hai
cá nhân riêng biệt và cần tôn trọng lẫn nhau, đối xử công bằng. Vậy nên, đừng chỉ tập
trung những yếu tố bên ngoài mà quên đi việc lắng nghe, chia sẻ để nửa kia cảm thấy
được tôn trọng.
Nhu cầu được thể hiện bản thân: Đây là mức cao nhất trong tháp nhu cầu Maslow
và nó là nhu cầu thuộc về cá nhân nhiều nhất. Mỗi cá nhân đều có những thế mạnh, ưu
điểm riêng biệt vậy nên bạn cần tìm cách đưa ra những lời khuyên, nhận xét để giúp bạn
đời của mình phát triển được những khả năng, ưu điểm đó thì nó sẽ giúp bạn chinh phục
được trái tim của họ tuyệt đối.
Ứng dụng học thuyết Maslow trong giáo dục


Tháp nhu cầu Maslow được tạo ra là để tìm hiểu và phân tích nhu cầu và động lực
của mỗi con người. Vì vậy khi ứng dụng học thuyết này vào trong giáo dục, mục đích là

để cha mẹ hiểu được con cái của mình. Từ đó họ có thể đồng hành cùng con trong việc
giáo dục và quá trình trưởng thành. Tương ứng với mỗi cấp độ sẽ là nhu cầu khác nhau
của con, trong đó:
Nhu cầu thiết yếu: Tương ứng với cấp độ một trong tháp, nó là những nhu cầu cơ
bản trong cuộc sống như ăn uống, ngủ nghỉ, sinh lý,… Cha mẹ cần dạy cho con cái biết
cách tự bản thân đáp ứng được những nhu cầu này, thay vì chiều chuộng và làm hộ cho
con. Bởi lẽ nếu cứ tiếp tục bao bọc và chăm sóc quá chu đáo, nó sẽ tạo cho đứa trẻ sự ỷ
lại và khả năng sinh tồn của đứa trẻ vơ tình bị tước mất.
Nhu cầu được an tồn: Nhu cầu an tồn ở đây nó nằm ở khía cạnh cả về thể xác
lẫn tinh thần. Cha mẹ cần dạy cho con mình biết cách tự chăm sóc, bảo vệ bản thân và có
ý thức về một cuộc sống “an tồn”. Nó nằm ở việc có được một cơng việc, có gia đình,
sức khỏe, tài sản.
Nhu cầu hịa hợp: Nó chính là cảm xúc của con với người xung quanh. Cha mẹ
cần giúp con mình nhận thức được tầm quan trọng của gia đình, xây dựng được tình cảm
gắn kết giữa các thành viên trong nhà. Ngồi ra, nó cịn là sự phát triển các mối quan hệ
với người ngoài xã hội: bạn bè, đồng nghiệp. Dạy cho con mình biết đối nhân xử thế, xây
dựng niềm tin giữa con người với con người.
Nhu cầu được tôn trọng: Mỗi cá nhân đều có những suy nghĩ, quan điểm, cái tơi
riêng. Vậy nên cha mẹ cần dạy cho con mình biết tơn trọng điều đó với mọi người và
ngược lại, bản thân cha mẹ cũng cần thể hiện được sự tôn trọng với con cái.
Nhu cầu thể hiện bản thân: Tương ứng với cấp độ cao nhất trong tháp nhu cầu. Ở cấp độ
này, những nhu cầu về vật chất đã khơng cịn quan trọng mà thay vào đó là tinh thần. Thể
hiện bản thân ở đây là lòng tự trọng, mong muốn khẳng định bản thân và đạt được thành
tựu, đóng góp ý nghĩa vào cho cuộc sống.
Một vài điều cần lưu ý trong tháp nhu cầu Maslow
Nhu cầu không nhất thiết phải “rập khuôn” như học thuyết Maslow


Như đã đề cập, những học thuyết liên quan tới con người sẽ rất khó để có thể chính xác
tuyệt đối và tháp nhu cầu Maslow không phải ngoại lệ. Mặc dù theo đúng học thuyết, nhu

cầu của con người sẽ phát triển theo thứ tự từ chân tháp đến đỉnh tháp. Tuy nhiên khơng
phải lúc nào cũng hồn tồn như vậy, bởi lẽ nó cịn phụ thuộc vào hồn cảnh và tình hình
của mỗi người. Chỉ có duy nhất nhu cầu sinh lý sẽ ln nằm ở vị trí chân tháp, đồng
nghĩa đóng vai trị nền tảng để phát triển những cấp độ nhu cầu tiếp theo.
Nhu cầu không phải lúc nào cũng tăng. Đa số trong chúng ta đều muốn tăng tiến
nhu cầu của mình, đi từ chân tháp lên đỉnh tháp. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có
thể thực hiện đúng trình tự như vậy. Bởi lẽ nó có thể bị gián đoạn bởi các yếu tố ngoại
cảnh, hoặc tình hình hiện tại bị thay đổi do biến cố trong cuộc sống. Ví dụ như mất việc,
nợ nần, ly hôn, tai nạn,… là những tác nhân gây ra sự gián đoạn. Sau khi xảy ra sự việc,
trình tự nhu cầu sẽ được thiết lập lại thay vì tăng lên.
Nhu cầu cũ khơng nhất thiết phải đáp ứng tất cả thì nhu cầu mới mới xuất hiện
Maslow đã từng đề cập rằng, một cấp độ nhu cầu của con người không nhất thiết phải
đáp ứng đủ 100% thì mới chuyển sang nhu cầu mới. Thay vào đó, chỉ cần thỏa mãn nhu
cầu ở mức độ nhất định thì đã có thể xuất hiện nhu cầu mới.
Tháp nhu cầu mở rộng Maslow



KẾT LUẬN
Theo thuyết A. Maslow, nhu cầu tự nhiên của con người được chia thành các thang bậc
khác nhau từ “đáy” lên tới “đỉnh”, phản ánh mức độ “cơ bản” của nó đối với sự tồn tại và
phát triển của con người vừa là một sinh vật tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội.
Việc sắp xếp nhu cầu theo thang bậc từ thấp đến cao cho thấy độ “dã man” của con người
giảm dần và độ “văn minh” của con người tăng dần.
Cấp độ thấp nhất và cơ bản nhất là nhu cầu thể chất hay thể xác của con người gồm nhu
cầu ăn, mặc, ở… Cấp độ tiếp theo là nhu cầu an toàn hay nhu cầu được bảo vệ. Nhu cầu
an tồn có an tồn về tính mạng và an tồn về tài sản. Cao hơn nhu cầu an toàn là nhu cầu
quan hệ như quan hệ giữa người với người, quan hệ con người với tổ chức hay quan hệ
giữa con người với tự nhiên. Con người ln có nhu cầu u thương gắn bó. Cấp độ nhu
cầu này cho thấy con người có nhu cầu giao tiếp để phát triển. Ở trên cấp độ này là nhu

cầu được nhận biết và tôn trọng. Đây là mong muốn của con người nhận được sự chú ý,
quan tâm và tôn trọng từ những người xung quanh và mong muốn bản thân là một “mắt
xích” khơng thể thiếu trong hệ thống phân công lao động xã hội. Việc họ được tôn trọng
cho thấy bản thân từng cá nhân đều mong muốn trở thành người hữu dụng theo một điều
giản đơn là “xã hội chuộng của chuộng công”. Vì thế, con người thường có mong muốn
có địa vị cao để được nhiều người tơn vọng và kính nể. Vượt lên trên tất cả các nhu cầu
đó là nhu cầu sự thể hiện. Đây là khát vọng và nỗ lực để đạt được mong muốn. Con
người tự nhận thấy bản thân cần thực hiện một cơng việc nào đó theo sở thích và chỉ khi
cơng việc đó được thực hiện thì họ mới cảm thấy hài lịng. Thuyết nhu cầu sắp xếp nhu
cầu con người từ thấp lên cao. Những nhu cầu ở cấp cao hơn sẽ được thỏa mãn khi nhu
cầu cấp thấp hơn được đáp ứng.
Con người cá nhân hay con người trong tổ chức chủ yếu hành động theo nhu cầu. Chính
sự thỏa mãn nhu cầu làm họ hài lịng và khuyến khích họ hành động. Đồng thời việc nhu
cầu được thỏa mãn và thỏa mãn tối đa là mục đích hành động của con người. Theo cách
xem xét đó, nhu cầu trở thành động lực quan trọng và việc tác động vào nhu cầu cá nhân



×