Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quốc phòng và an ninh trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.93 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ đổi mới, quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quốc phòng
và an ninh đã trở thành trọng tâm quan trọng, định hình hướng đi của đất nước. Với tầm
nhìn chiến lược và sự linh hoạt trong quản lý, Đảng đã nỗ lực xây dựng một hệ thống
quốc phòng hiện đại, đồng thời đảm bảo an ninh toàn diện, đáp ứng thách thức của thế
giới đương đại. Điều này không chỉ là nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế-xã
hội, mà còn là bảo đảm cho sự tự chủ và ổn định của Việt Nam trước những biến động
quốc tế.
Nhìn chung, quan niệm về quốc phòng và an ninh của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới không chỉ là nỗ lực bảo vệ an sinh xã hội mà còn là hành động
quyết liệt để định hình tương lai, góp phần quan trọng vào sự thịnh vượng và ổn định
của đất nước trên thế giới đa phương.
Nhóm chúng em xem đây là đề tài rất đáng quan tâm và nó mang tính cần thiết
để nhóm có thể nghiên cứu, cũng như là tiến hành làm và tìm hiểu rõ hơn về đề tài này.
Vì vậy nhóm chúng em đã chọn đề tài: “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
quốc phòng và an ninh trong thời kỳ đổi mới” làm tiểu luận kết thúc môn học Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

1


Chương 1
KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA QUỐC PHÒNG, AN NINH
TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
1.1. Khái niệm quốc phòng, an ninh
Khái niệm quốc phòng: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật Quốc phòng 2018
(Có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2019) thì khái niệm quốc phòng được quy định cụ
thể như sau: Quốc phịng là cơng cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của tồn dân
tộc, trong đó sức mạnh qn sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.
Hoạt động quốc phòng phải thực hiện theo các nguyên tắc sau:
Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;


đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự
quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước.
Củng cố, tăng cường quốc phòng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, huy động
sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ
trang nhân dân làm nịng cốt.
Xây dựng nền quốc phịng tồn dân, thế trận quốc phịng tồn dân gắn với nền an
ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân.
Kết hợp quốc phòng với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với quốc phòng.
Kết hợp quốc phòng với an ninh, đối ngoại.
Khái niệm an ninh: Theo khoản 1 Điều 3 luật an ninh quốc gia 2004 thì An ninh
là trạng thái yên bình của xã hội, của đất nước và sự phát triển bền vững của hệ thống
chính trị xã hội. An ninh quốc gia bao gồm an ninh đối nội, an ninh đối ngoại, an ninh
trên tất cả các mặt như chính trị, xã hội, văn hố, giáo dục,... trong đó đặc biệt có bảo vệ
chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới,... Các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia được
xác định là những tội nghiêm trọng nhất của nhóm tội này và có khung hình phạt cao
nhất. An ninh quốc gia là sự tồn tại, phát triển ổn định của chế độ xã hội chủ nghĩa và
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bất khả xâm phạm về độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc. An ninh quốc gia gồm các lĩnh vực khác nhau từ văn
hố, chính trị, giáo dục - đào tạo, kinh tế, quân sự - ngoại giao,..... Nhìn chung, an ninh
quốc gia là vấn đề sống còn của mỗi đất nước. Bảo vệ an ninh quốc gia là phòng ngừa,

2


ngăn chặn, phát hiện, đấu tranh, làm thất bại mọi hoạt động xâm phạm đến an ninh quốc
gia và loại bỏ nguy cơ đối với an ninh của quốc gia, dân tộc
Nguyên tắc hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia:
Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà

nước; huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân tộc, lực lượng
chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia làm nòng cốt.
Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia với nhiệm vụ xây dựng,
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội; phối hợp có hiệu quả hoạt động an ninh, quốc phòng
và đối ngoại.
Chủ động phòng ngừa, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động
xâm phạm an ninh quốc gia.
1.2. Vai trò của quốc phòng, an ninh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc
Xây dựng nền quốc phòng, an ninh nhân dân vững mạnh là tạo ra sức mạnh để
ngăn ngừa đẩy lùi đánh bại mọi âm mưu hành động xâm hại đến mục tiêu trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa. Đảng ta khẳng định:
“Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta không một
chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn coi trọng quốc phịng an ninh, coi đó
là nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ”. Vị trí, vai trị nhiệm vụ trọng yếu, thường
xun của lĩnh vực quốc phịng có nguồn gốc từ mối quan hệ biện chứng giữa quốc
phòng, an ninh đối ngoại với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội; giữa hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Nếu quốc phòng được giữ vững và tăng cường, tất yếu sẽ góp phần quan
trọng vào việc tạo lập, giữ gìn mơi trường hịa bình, ổn định đất nước, phát triển kinh
tế-xã hội, chủ động hội nhập kinh tế và mở rộng quan hệ đối ngoại... tạo nền tảng vững
chắc thực hiện khát vọng của nhân dân, sự lựa chọn đúng đắn của Ðảng ta vì mục tiêu:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. Về mục tiêu, nhiệm vụ của quốc
phòng trong thời kỳ mới, Văn kiện Ðại hội XI của Ðảng tiếp tục bổ sung, phát triển, làm
rõ hơn nội hàm của nó phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, giai đoạn cách mạng mới. Bất
3


luận trong điều kiện, hồn cảnh nào, quốc phịng cũng phải hướng đích bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân

dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an tồn xã hội; chủ
động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch
và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính tồn cầu,
khơng để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Nhiệm vụ cần thực hiện của An ninh
quốc phòng như sau:
Xây dựng nền an ninh nhân dân và quốc phịng tồn dân chính quy, tồn diện,
vững chắc mà khơng có bất kì một thế lực nào có thể đánh bại;
Bảo vệ vững chắc: tồn vẹn lãnh thổ, chủ quyền, độc lập, văn hố dân tộc, quốc
phịng nội bộ, an ninh chính trị và ổn định xã hội. Cùng với đó là duy trì, thiết lập mơi
trường riêng có cho Đảng, chính quyền và người dân có điều kiện tốt để hoạt động. Ổn
định tư tưởng, đập tan các âm mưu, hoạt động phá hoại;
Duy trì, thiết lập mơi trường trật tự, kỷ cương cho toàn dân làm theo.

4


Chương 2
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ QUỐC PHÒNG, AN NINH THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quốc phòng, an ninh từ Đại
hội VI đến Đại hội IX
Đại hội VI
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng giao cho Ban Chấp hành Trung
ương khoá VI chỉ đạo thực hiện thành công những nhiệm vụ đề ra trong Báo cáo chính
trị. Trong đó nhiệm vụ “ Tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước” đã
được Đại hội nhấn mạnh.
Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chun chính vơ sản, kết hợp chặt chẽ kinh
tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, đẩy mạnh cơng cuộc xây dựng nền quốc
phịng tồn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và hậu phương ngày càng vững
mạnh: giáo dục quốc phịng tồn dân, xây dựng quân đội nhân dân chính quy và ngày

càng hiện đại; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị, xây dựng thế trận
chiến tranh nhân dân, thực hiện nghiêm chỉnh Luật nghĩa vụ quân sự và các chính sách
hậu phương quân đội. Tăng cường tổ chức bảo vệ chủ quyền và giữ vững các tuyến
biên giới, vùng trời, vùng biển và hải đảo; xây dựng và củng cố bộ đội biên phòng vững
mạnh. Chăm lo đời sống tinh thần và vật chất của bộ đội, tăng cường mối quan hệ tốt
đẹp giữa quân và dân.
Công cuộc bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội cần được tiến
hành bằng sức của mọi lực lượng, bằng mọi phương tiện cần thiết, trong từng địa bàn,
ở tất cả mọi đơn vị. Xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững manh, có
cơ sở vững chắc trong quần chúng, có trình độ nghiệp vụ ngày càng cao, tuyệt đối trung
thành với Tổ quốc và nhân dân. Tổ chức phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ
quốc; xây dựng xí nghiệp, cơ quan..., phường, xã, quận, huyện an tồn về mọi mặt,
hình thành các khu vực, các tuyến an toàn ở các địa phương; xây dựng nội bộ trong
sạch vững mạnh. Ngăn ngừa và trừng trị những hành động phá hoại về kinh tế chính
trị, tư tưởng, văn hố và các hoạt động tình báo, gián điệp của địch.
Phát huy vai trị và hiệu lực lãnh đạo của Đảng, thể chế hoá đường lối, chính
sách của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh. Các cấp uỷ đảng, các cấp
5


chính quyền phải quán triệt và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ quốc phịng và
an ninh, coi đó là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của mình.
Đại hội VII
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã thông qua nội dung cơ bản của
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Xuất phát từ mục tiêu,
phương hướng cơ bản và lâu dài đã nêu trong Cương lĩnh của Đảng, Chiến lược đến
năm 2000 đã nêu ra nội dung: Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với ổn định
và đổi mới về chính trị, tăng cường củng cố quốc phịng, giữ vững an ninh chính trị và
trật tự, an toàn xã hội.
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược đến năm 2000 là: ra khỏi khủng hoảng, ổn định

tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển,
cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất
nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI. Củng cố quốc phịng, giữ vững an
ninh trong tình hình mới, bảo đảm trật tự, an tồn và mơi trường hồ bình, ổn định, hợp
tác cho sự nghiệp phát triển kinh tế.
Đại hội VIII
Đánh giá tổng quát sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội VII Báo cáo Chính trị khẳng định đất nước đã vượt qua
một giai đoạn thử thách gay go và đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt, trong đó
có nội dung: Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ
quốc, giữ vững ổn định chính trị và an tồn xã hội, bảo đảm quốc phịng, an ninh vững
mạnh, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống. Nhiệm vụ và mục tiêu được nêu ra phải
được thực hiện theo các định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu.
Tăng cường quốc phòng an ninh. Đại hội xác định nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh
trong những năm tới là: phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính
trị, từng bước tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh của đất nước, xây dựng vững
chắc nền quốc phịng tồn dân, thế trận quốc phịng tồn dân gắn với nền an ninh nhân dân
và thế trận an ninh nhân dân, nâng cao chất lượng các lực lượng vũ trang, bảo vệ vững chắc
độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ
Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động

6


gây mất ổn định chính trị xã hội, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, gây tổn
hại cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1996 -2000 đã nêu ra những vẫn đề về
quốc phòng và an ninh:
Những mặt làm được (Kế hoạch 5 năm 1991 - 1996): Quốc phòng, an ninh được
giữ vững: Việc điều chỉnh chiến lược về quốc phòng, củng cố thế trận quốc phịng tồn dân

được thực hiện có kết quả. Các khu vực phòng thủ được tăng cường một bước. Sự kết hợp
giữa kinh tế và quốc phòng được tiến hành dưới nhiều hình thức và đã bước đầu mang lại
kết quả.
An ninh, quốc gia được giữ vững, thế trận an ninh nhân dân được củng cố. Việc
xử lý kiên quyết các vụ vi phạm pháp luật trong một số lĩnh vực mở ra khả năng thiết
lập và củng cố trật tự, an toàn xã hội, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật.
Phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
5 năm 1996 – 2000:
Nhiệm vụ tổng quát: Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; nâng cao
hiệu quả sử dụng các nguồn lực vừa phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, vừa phục vụ quốc
phòng, an ninh.
Nhiệm vụ cụ thể: Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh
của tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị và an tồn xã hội, bảo đảm quốc phịng, an ninh
vững mạnh, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống.
Đại hội IX
Báo cáo Chính trị “Phát huy sức mạnh tồn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh
cơng nghiệp hố hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”
đã trình bày 10 vấn đề, trong đó có vấn đề Tăng cường quốc phịng và an ninh.
Về mục tiêu chiến lược: quốc phòng, an ninh được tăng cường. Kết cấu hạ tầng
đáp ứng yêu cầu phát triển quốc phịng, an ninh và có bước đi trước.
Về quan điểm: Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng - an
ninh. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng tiềm lực và thế trận quốc
phịng tồn dân, thế trận an ninh nhân dân, được thể hiện trong chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của các ngành, các địa phương và trong
các dự án đầu tư lớn. Phân bố hợp lý việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật trên các
7


vùng của đất nước, vừa phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội, vừa sử dụng được cho quốc
phòng, an ninh khi cần thiết. Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, ổn định dân cư các vùng

xung yếu, vùng biên giới, cửa khẩu, hải đảo phù hợp với chiến lược quốc phòng và chiến
lược an ninh quốc gia. Hồn chỉnh chiến lược quốc phịng và chiến lược an ninh quốc
gia phù hợp với tình hình mới, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng kinh tế
đối ngoại. Phát triển cơng nghiệp quốc phịng và kết hợp sử dụng năng lực đó để tham
gia phát triển kinh tế - xã hội. Coi trọng sản xuất một số mặt hàng vừa phục vụ kinh tế,
vừa phục vụ quốc phòng - an ninh.
2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quốc phòng, an ninh từ Đại
hội X đến Đại hội XIII
Đại hội X
Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng sau khi đánh giá những thành tựu về
quốc phòng - an ninh đã đạt được trong 5 năm qua (2001-2005) và khẳng định:
"quốc phòng - an ninh được tăng cường...", "...độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và
an ninh quốc gia được giữ vững". Đồng thời, Báo cáo chính trị cũng đề ra định hướng
cho 5 năm tới (2006-2010) phải "Tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa". Những định hướng đối với sự nghiệp quốc phòng
- an ninh trong thời kỳ mới đến năm 2010 là rất quan trọng.
Về mục tiêu của quốc phòng - an ninh trong thời kỳ mới, Báo cáo chính trị đã định
hướng mục tiêu là: "Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập chủ quyền thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh
chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ
cương, an tồn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và
làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ".
Về xây dựng lực lượng quốc phòng - an ninh, Báo cáo chính trị đã xác định 5
nội dung cơ bản: Một là, "xây dựng Quân đội và Công an cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại". Hai là, "nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để lực
lượng vũ trang thật sự là lực lượng chính trị trong sạch vững mạnh, tuyệt đối trung
thành với Tổ quốc, với Đảng và Nhà nước, được nhân dân tin cậy, yêu mến". Ba là, "đổi
mới tổ chức, nội dung, phương pháp huấn luyện, đào tạo đi đôi với cải tiến, đổi mới vũ
khí, trang bị, phương tiện phù hợp với yêu cầu tác chiến mới". Bốn là, "phát triển khoa
8



học quân sự, khoa học công an, nghệ thuật chiến tranh nhân dân; cải tiến phương thức
hoạt động của lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách phối hợp với các tổ chức của
nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội". Năm là, "tiếp
tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng
- an ninh cho cán bộ cơng chức và tồn dân, có nội dung phù hợp với từng đối tượng
và đưa vào chương trình chính khố trong các nhà trường theo cấp học, bậc học; chú
trọng giáo dục thống nhất nhận thức về đối tượng và đối tác; nắm vững đường lối, quan
điểm, yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; nâng cao ý thức trách
nhiệm và tinh thần cảnh giác trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh".
Về xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh, Báo cáo chính trị tại Đại hội X của
Đảng nhấn mạnh đến 3 nội dung quan trọng: Một là, "giữ vững an ninh nội địa"; giải
quyết kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân; xây dựng "thế trận lòng
dân" làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
trong đó Qn đội và Cơng an làm nịng cốt. Hai là, "kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại". Ba là, "xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế
trận an ninh nhân dân. Đẩy mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố".
Về hoàn thiện cơ chế vận hành nhiệm vụ quốc phịng - an ninh, Báo cáo chính
trị đã xác định 3 nội dung chủ yếu: Một là, "xây dựng, bổ sung cơ chế lãnh đạo của
Đảng và quản lý nhà nước đối với hoạt động quốc phòng - an ninh. Thực hiện chế độ
một người chỉ huy gắn với chế độ chính uỷ, chính trị viên, tăng cường cơng tác đảng,
cơng tác chính trị trong qn đội". Hai là, "bổ sung cơ chế phối hợp hoạt động giữa
quốc phòng - an ninh, đối ngoại và các bộ, ngành có liên quan trong phân tích, dự báo
tình hình và làm tham mưu đề xuất các giải pháp thực hiện". Ba là, "bổ sung, xây dựng
các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách xã hội có quan hệ đến nhiệm vụ
quốc phòng - an ninh. Khẩn trương chỉ đạo xây dựng và ban hành các chiến lược quốc
gia như: chiến lược quốc phòng; chiến lược an ninh và các chiến lược chuyên ngành
khác".
Về đấu tranh quốc phòng - an ninh, Báo cáo chính trị đã xác định hai nhiệm

vụ đấu tranh quốc phòng - an ninh trong thời bình: "Kiên quyết làm thất bại mọi âm
mưu và thủ đoạn "diễn biến hồ bình", bạo loạn lật đổ" và "Coi trọng nhiệm vụ đảm

9


bảo an ninh chính trị nội bộ, nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ
chức, cơ quan và đơn vị".
Về kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh, Báo cáo chính trị tại đại
hội X của Đảng đã chỉ rõ định hướng với ba nội dung cơ bản: Một là, "kết hợp xây
dựng phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh trên cơ
sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước". Hai là, tiếp tục phát triển các khu kinh tế quốc phòng, xây dựng các khu quốc phòng - kinh tế với mục tiêu tăng cường
quốc phòng - an ninh là chủ yếu, tập trung vào các địa bàn trọng điểm chiến lược và
những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển đảo. Ba là, "xây dựng công nghiệp
quốc phịng trong hệ thống cơng nghiệp quốc gia dưới sự chỉ đạo, quản lý điều
hành trực tiếp của Chính phủ, đầu tư có chọn lọc theo hướng hiện đại, vừa phục vụ
quốc phòng vừa phục vụ dân sinh".
Đại hội XI
Đại hội XI của Đảng xác định: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa, giữ vững hịa bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;
chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực
thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”.
Quan điểm Đại hội XI của Đảng về bảo vệ Tổ quốc là hệ thống những quan điểm
hoàn chỉnh, toàn diện và phát triển về những vấn đề cơ bản của mục tiêu, nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc. Quan điểm Đại hội XI thể hiện sự kế thừa, phát triển truyền thống của dân
tộc và các quan điểm của Hội nghị Trung ương 8, khoá IX, Nghị quyết Đại hội lần thứ
X của Đảng, đồng thời, nhấn mạnh nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên, lực lượng bảo vệ Tổ quốc là tồn dân và cả hệ thống chính trị, trong đó,
Qn đội và Cơng an là lực lượng nịng cốt; phương thức bảo vệ Tổ quốc là kết hợp chặt

chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh - đối ngoại, phát triển đường lối nghệ thuật chiến
tranh nhân dân v.v..
Quán triệt và thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam mà Nghị quyết Đại
hội XI của Đảng đã xác định là yêu cầu hàng đầu đối với các tổ chức trong hệ thống
chính trị và mỗi người dân Việt Nam. Quá trình quán triệt và tổ chức thực hiện cần chú
ý một số vấn đề sau đây: Một là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ
10


quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai là, xác định rõ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của tồn dân. Ba là, phát huy vai trị
của Qn đội nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Đại hội XII
Kế thừa tư duy mới về quan điểm xây dựng, củng cố quốc phòng - an ninh của các
kỳ đại hội trước và yêu cầu của thực tiễn, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã khẳng
định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa, giữ vững an ninh chính trị-trật tự an tồn xã hội; củng cố, tăng cường quốc phòng,
an ninh; xây dựng nền quốc phịng tồn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc, xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu
tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng”, đồng thời “Phải đặt lợi ích
quốc gia dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp và phát huy sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa”. Đây chính là những quan điểm cơ bản thể hiện tư duy mới của Đảng ta về
quốc phịng, an ninh trong tình hình mới.
Kế thừa tư duy mới về quan điểm xây dựng, củng cố quốc phòng - an ninh của các
kỳ đại hội trước và yêu cầu của thực tiễn, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã khẳng
định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,

toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa, giữ vững an ninh chính trị - trật tự an tồn xã hội; củng cố, tăng cường quốc
phịng, an ninh; xây dựng nền quốc phịng tồn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc,
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng”.
Đại hội XIII
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định nhất quán nhiệm vụ đó và bổ sung rõ
hơn, rộng hơn, toàn diện hơn về nhiều vấn đề mới, thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược
của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.Văn kiện Đại hội XIII
của Đảng xác định: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
11


thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn
hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định chính trị, an
ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh
để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục có những bước phát triển mới trong tư duy về
phương thức và giải pháp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng ta “Xác
định “chủ động phịng ngừa” là chính. Ứng phó kịp thời, hiệu quả với các đe dọa an ninh
phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh.
Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu
để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hịa
bình phù hợp với luật pháp quốc tế”.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng xác định: “xây dựng và phát huy mạnh mẽ
“thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng
và củng cố vững chắc thế trận quốc phịng tồn dân và thế trận an ninh nhân dân. Kết
hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh
và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại”
Một nét mới khác về phương thức và giải pháp tăng cường quốc phịng, an ninh,

bảo vệ Tổ quốc đó là việc Đảng ta xác định rõ: Xây dựng, phát triển nền cơng nghiệp
quốc phịng, cơng nghiệp an ninh hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc, vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng và củng
cố các tuyến phịng thủ biên giới, biển, đảo; vừa có cơ chế huy động nguồn lực từ địa
phương và nguồn lực xã hội cho xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Củng cố quốc phòng, an
ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và tồn dân, trong đó Qn đội
nhân dân và Cơng an nhân dân là nịng cốt”. Đặc biệt, điểm mới trong văn kiện lần này,
Đảng ta đã xác định rõ phương hướng: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Cơng an nhân
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh
chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại”; trong đó, tiếp tục nhấn mạnh và chỉ rõ việc
xây dựng Quân đội nhân dân và Cơng an nhân dân “vững mạnh về chính trị”.

12


Một điểm mới và điểm nhấn quan trọng nữa là, trong văn kiện lần này, Đảng ta đã
xác định rõ: “Tiếp tục triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia,
Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng,
Chiến lược an ninh mạng quốc gia và các chiến lược quốc phòng, an ninh chuyên ngành
khác”.

13


Chương 3
ĐÁNH GIÁ VỀ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG, AN NINH
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CAO HIỆU QUẢ

XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG, AN NINH
3.1. Đánh giá q trình xây dựng quốc phịng, an ninh từ năm 1986 đến nay
Nhìn lại hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trên lĩnh vực quân sự,
quốc phòng, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, nổi bật ở những nội dung
cơ bản sau:
Một là, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, mơi trường hịa bình để xây dựng và phát triển đất
nước.
Đảng ta đã ban hành và tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung Ương 8
(khóa IX, XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trên cơ sở đó, các
ban, bộ, ngành, cơ quan tham mưu chiến lược, nhất là Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an, Bộ
Ngoại giao chủ động làm tốt công tác nghiên cứu chiến lược, kịp thời tham mưu, đề xuất
với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, cơ chế, chính sách, pháp luật về quốc phịng,
an ninh và đối ngoại phù hợp với tình hình thực tiễn.
Bộ Quốc phòng đã thường xuyên chỉ đạo các lực lượng nắm chắc tình hình thế
giới, khu vực và trong nước, kiểm sốt chặt chẽ tình hình biên giới, vùng trời, vùng biển;
chủ động xây dựng kế hoạch, phương án đối phó hiệu quả với các tình huống, khơng để
bị động, bất ngờ về chiến lược. Các lực lượng đã triển khai, thực hiện chặt chẽ các chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án về quân sự, quốc phòng gắn với phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn cả nước. Những năm gần đây, cán bộ, chiến sĩ Quân
đội đã tích cực, chủ động phối hợp với các lực lượng, tham gia giúp đỡ nhân dân phịng,
chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn; xử lý bom mìn, chất độc
hóa học tồn lưu sau chiến tranh; đấu tranh phòng, chống tội phạm qua biên giới…; góp
phần phát huy phẩm chất cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ, xứng đáng với niềm tin yêu của
Đảng, Nhà nước và nhân dân.

14



Hai là, nền quốc phịng tồn dân được xây dựng ngày càng vững mạnh tồn diện;
có bước phát triển mới cả về bề rộng và chiều sâu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta đã nỗ lực xây dựng nền quốc phịng tồn dân tồn diện, độc lập, tự chủ,
tự lực, tự cường, ngày càng hiện đại; với bản chất hịa bình, tự vệ. Đó là nền quốc phịng
của dân, do toàn dân tham gia xây dựng, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt,
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước.
Đến nay, thế bố trí các lực lượng được điều chỉnh hợp lý trên phạm vi cả nước;
quy hoạch xây dựng cơng trình chiến đấu, cơng trình phịng thủ được triển khai tích cực,
nhất là trên tuyến biên giới, biển, đảo. Chúng ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp đẩy
mạnh xây dựng và hoạt động các khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố), nâng cao khả năng
phòng thủ quốc gia cả trong nội địa, trên các tuyến biên giới và vùng biển, đảo. Công
tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ, đảng viên và toàn
dân được coi trọng, đi vào nền nếp, đạt hiệu quả thiết thực; góp phần tạo cơ sở, nền tảng
cho việc triển khai thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc của các
cấp, các ngành, các tổ chức, lực lượng và toàn dân trong điều kiện mới.
Ba là, chất lượng tổng hợp, sức mạnh, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của
lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân không ngừng được nâng cao.
Chúng ta đã chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh cả về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, xứng đáng là lực lượng nịng cốt cho tồn dân trong thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, chúng ta đã có nhiều giải pháp mang tính đột
phá trong xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để nâng cao chất lượng
tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân. Việc đổi mới công tác huấn luyện
- đào tạo, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng nền nếp chính quy, quản lý kỹ thuật,… được
đẩy mạnh, có sự chuyển biến mới về chất lượng. Công tác hậu cần, kỹ thuật được thực
hiện tốt, nhất là bảo đảm cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu trên tuyến
biển, đảo. Xây dựng, phát triển cơng nghiệp quốc phịng theo Nghị quyết số 06-NQ/TW,
ngày 16-7-2011 của Bộ Chính trị (khóa XI). Cơng tác nghiên cứu khoa học quân sự,
khoa học công nghệ quân sự, khoa học xã hội và nhân văn quân sự được chú trọng và
có bước phát triển mới, trọng tâm hướng vào các vấn đề về chiến lược quân sự, quốc

phòng trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc; các loại hình tác chiến chiến lược,
15


chiến dịch và phương án xử lý các mối đe dọa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền
thống, bảo đảm sát thực tế, phù hợp với điều kiện mới.
Bốn là, hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phịng khơng ngừng được đẩy mạnh,
có bước phát triển đột phá cả về nhận thức và hành động; góp phần nâng cao vị thế của
đất nước, Quân đội và xây dựng lòng tin chiến lược giữa các quốc gia, thúc đẩy xu thế
hịa bình, hợp tác trong khu vực và trên thế giới.
Chúng ta đã tích cực, chủ động mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng song phương
với các quốc gia, nhất là các nước láng giềng, các nước trong khu vực, bạn bè truyền
thống và các nước lớn; từng bước đưa quan hệ đó đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết
thực. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng ở các cấp độ khác
nhau với hơn 80 nước, trong đó có các nước lớn. Trên bình diện đa phương, Việt Nam
đã trở thành thành viên tích cực và có trách nhiệm của các diễn đàn khu vực và quốc
tế... Đặc biệt, năm 2014, lần đầu tiên Việt Nam cử lực lượng Qn đội tham gia hoạt
động gìn giữ hịa bình của Liên hợp quốc. Thông qua hội nhập quốc tế, chúng ta đã và
đang tranh thủ mọi nguồn lực từ bên ngồi để xây dựng Qn đội, củng cố quốc phịng,
bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, tạo môi trường thuận lợi để xây dựng và phát triển đất
nước.
Năm là, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất, tập trung của Nhà nước và sự tham
gia của toàn dân đối với lĩnh vực quốc phịng. Q trình thực hiện cơng cuộc đổi mới,
chúng ta từng bước thể chế hóa cương lĩnh, quan điểm, đường lối của Đảng về bảo vệ
Tổ quốc, về quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với
đối ngoại thành luật pháp, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để các cấp, ngành, lực lượng
và địa phương triển khai thực hiện. Trong đó, cơng tác quản lý nhà nước về quốc phịng,
bảo vệ Tổ quốc được triển khai nghiêm túc, đồng bộ và tương đối toàn diện. Nhà nước
đã ban hành Hiến pháp năm 2013, các luật, pháp lệnh,… liên quan đến thực hiện nhiệm

vụ quốc phòng và đã phát huy tốt hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn. Đã bổ sung và hồn
thiện một bước về cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, các cơ quan, ban,
ngành, đoàn thể làm tham mưu và tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng theo chức
năng, trên phạm vi cả nước.

16


3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng nền quốc phòng, an ninh
Qua hơn 30 năm đổi mới quân sự, quốc phịng có thể rút ra một số bài học kinh
nghiệm sau:
Thứ nhất, thường xuyên quán triệt, nắm vững đường lối đổi mới, nhất là quan
điểm, tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, lấy đó làm kim chỉ nam cho hoạt động
quân sự, quốc phòng.
Thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục vận dụng bài học kinh nghiệm này trong thực
hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Trước hết và quan trọng nhất là
phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối
với Quân đội và sự nghiệp quốc phòng. Quán triệt và thực hiện có hiệu quả các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, trọng tâm là Nghị quyết Đại hội XII của Đảng;
Nghị quyết Trung Ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới;
Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X. Trên cơ sở đó thống nhất
nhận thức, tư tưởng và hành động đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thứ hai, coi trọng công tác nghiên cứu, đánh giá, dự báo đúng tình hình, bảo đảm
giữ vững thế chủ động trong mọi tình huống.
Thực tế đã chứng minh, nhờ thực hiện tốt cơng tác này, chúng ta ln chủ động và
có kế hoạch, kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, ngay từ thời bình, bảo đảm “trong
ấm, ngồi êm”, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Thời gian tới, các cơ quan, đơn vị toàn quân cần phối hợp chặt chẽ với các lực
lượng có liên quan, chủ động nghiên cứu, đánh giá, dự báo đúng tình hình để tham mưu,

đề xuất kịp thời cho Đảng và Nhà nước, không để bị động, bất ngờ trước những diễn
biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và các hoạt động chống phá của các thế
lực thù địch. Chúng ta cần chủ động nghiên cứu, nắm vững chiến lược, sách lược của
đối tượng, đối tác và chiều hướng phát triển của nó, cũng như các nhân tố có thể dẫn tới
những đột biến, bất lợi để xử lý khéo léo, linh hoạt, kịp thời.
Thứ ba, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; tăng cường nội lực
kết hợp với ngoại lực trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời gian tới, chúng ta phải tập trung tăng cường tiềm lực quốc phòng; nâng
cao chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang nhân dân, trực tiếp là Quân đội nhân
17


dân và dân quân tự vệ. Tiếp tục xây dựng, củng cố thế trận quốc phịng tồn dân, trước
hết là “thế trận lòng dân” gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc; đẩy mạnh xây
dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố). Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội với quốc phịng - an ninh và quốc phòng - an ninh với đối ngoại trong từng
quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển kinh tế - xã hội; trong đó, chú trọng mở rộng hợp
tác quốc phòng với các nước.
Thứ tư, coi trọng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn trên lĩnh vực qn
sự, quốc phịng.
Nhờ tích cực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, cả thực tiễn thành cơng và
chưa thành cơng, Đảng ta đã lãnh đạo tồn dân tộc vững bước tiến lên. Để tiếp tục vận
dụng có hiệu quả bài học đó vào thực tiễn, cùng với nâng cao nhận thức, chúng ta cần
tăng cường phối hợp giữa các ban, bộ, ngành, lực lượng và địa phương trong xây dựng
kế hoạch, xác định các vấn đề nghiên cứu, tổng kết, bảo đảm tính khoa học, hệ thống,
chun sâu và có tính định hướng cao.
Việc nghiên cứu, tổng kết phải tồn diện, nhưng cần có trọng điểm; trong đó, cần
đi sâu vào các vấn đề lớn, có tính xuyên suốt và mang tầm chiến lược; trên cơ sở đó, xác
định cơ sở khoa học và thực tiễn để điều chỉnh, bổ sung hồn thiện đường lối, chính
sách quốc phịng cho phù hợp.

Thứ năm, đổi mới phải tồn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp, tạo đột phá trong
lĩnh vực quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc.
Những năm qua, quán triệt đường lối đổi mới của Đảng, lĩnh vực qn sự, quốc
phịng đã có sự đổi mới toàn diện, đồng bộ cả về nhận thức, tư tưởng và hoạt động thực
tiễn; trong đó, các vấn đề về xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phịng có bước
phát triển tồn diện, mang tính đột phá; góp phần tạo sức mạnh tổng hợp, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Việc vận dụng bài học này nhằm đổi mới lĩnh vực QS, QP trong những năm tới
phải được thể hiện trên từng mặt công tác, bảo đảm đổi mới phải toàn diện, đồng bộ từ
hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành đến tổ chức thực hiện ở tất cả các cấp,
nhưng phải phù hợp với đặc điểm của từng lực lượng và có trọng tâm, trọng điểm.

18


KẾT LUẬN
Đường Lối Quốc Phòng Và An Ninh kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với củng
cố quốc phòng là quan điểm cơ bản, chủ trương chiến lược nhất quán, xuyên suốt của
Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhằm tăng cường sức mạnh quốc
phịng của đất nước trong q trình phát triển kinh tế, đồng thời giữ vững mơi trường
hịa bình, ổn định để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, bền vững.
Trong thời gian qua, việc kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng được
các cấp, các ngành tích cực triển khai thực hiện trong từng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và đã đạt được những thành tựu to lớn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc kết hợp phát triển kinh tế với củng
cố quốc phòng, an ninh ở nước ta thời gian qua cịn có những mặt hạn chế, bất cập. Vì
vậy, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh vừa là nhiệm
vụ cơ bản, thường xuyên, vừa là yêu cầu khách quan, cấp thiết hiện nay.
Để kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh cần tiến hành
đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau với sự tham gia của các cấp, các ngành, của cả hệ

thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân. Điều đó địi hỏi trách nhiệm chính trị của mỗi
cá nhân, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Báo điện tử Đảng
Cộng sản Việt Nam, 20/11/2023
2. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Báo điện tử Đảng
Cộng sản Việt Nam, 20/11/2023
3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Báo điện tử Đảng Cộng sản
Việt Nam, 20/11/2023
4. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1996- 2000, Báo điện tử Đảng Cộng sản
Việt Nam, />20/11/2023
5. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 (Báo cáo của Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng), Báo điện
tử Đảng Cộng sản Việt Nam, />20/11/2023
6. Nguyễn Nhâm (2006), Góp phần tìm hiểu quan điểm quốc phòng và an ninh
trong Văn kiện Đại hội X của Đảng, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,
21/11/2023
7. Nguyễn Tiến Quốc (2011), Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo quan
điểm

Đại

hội

Đảng


XI,

Tạp

chí

Cộng

sản

điện

tử,

21/11/2023
20


8. Phạm Văn Dỹ (2017), Những quan điểm cơ bản của Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của
Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới, Báo Quân khu 7,
21/11/2023
9. Võ Văn Hải, Những điểm mới về quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Tạp chí Cộng sản điện
tử, 21/11/2023
10. Linh Trang (2023), Quốc phịng là gì? Vai trị và chính sách của quốc phịng
hiện nay, Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam, 13/11/2023
11. Bùi Tuấn An (2023), An ninh là gì? Quốc phịng an ninh là gì? Vị trí, vai trị
quốc phịng an ninh, Cơng ty luật Minh Khuê – Tư vấn pháp luật – Dịch vụ luật sư,
,13/11/2023
12. Ngô Xuân Lịch (2016), Thành tựu và kinh nghiệm trong 30 năm đổi mới quân

sự, quốc phòng, Báo Nhân Dân điện tử, 18/11/2023

21



×