Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Lịch sử tư tưởng phương đông và việt nam 2023

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.99 KB, 20 trang )

LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VIỆT NAM
Câu 1: Nêu đặc điểm Triết học Ấn Độ cổ đại?
Triết học Ấn Độ cổ đại rất phong phú và đa dạng, nó đề cập đến vấn đề xã hội, vũ trụ, tự
nhiên. Tuy nhiên, vấn đề trọng tâm nhất là đi sâu vào đời sống tâm linh, tín ngưỡng, tơn giáo. Các
luận thuyết về Triết học của Ấn Độ cổ đại rất chú ý đến vấn đề nhân sinh, đó là nhân sinh quan và
con đường giải thoát. Hầu hết hệ thống triết lý Ấn Độ là hệ thống triết lý tơn giáo vì vậy nó đều
liên quan đến giải thích các vấn đề về con người, đời người, các luân lý đạo đức, hướng tới con
đường giải thoát chúng sinh bởi xã hội Ấn Độ thấm đượm màu sắc tâm linh và đầy rẫy những bất
công về phân chia đẳng cấp, nghèo đói bệnh tật, chiến tranh phi nghĩa. Những điều này Đã đặt con
người Ấn Độ cổ đại vào bối cảnh xã hội khắc nghiệt, họ khao khát tìm một lối thoát, một đời sống
tốt đẹp hơn.
+ Triết học Ấn Độ cổ đại chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo. Triết học Ấn Độ
cổ đại không nằm ngồi tơn giáo mà ẩn mình sau các nghi lễ huyền bí, qua bộ kinh Veda,
Upanisad… Tơn giáo Ấn Độ cổ đại có xu hướng “Hướng nội” sâu sắc; Tập trung lý giải và thực
hành nhân sinh quan dưới gốc độ tâm linh nhằm đạt tới “giải thoát”, tức là đạt đến sự đồng nhất
tinh thần cá nhân với tinh thần vũ trụ.
+ Triết học Ấn Độ phong phú, đa dạng nhưng biến đổi chậm chạp.
+ Triết học Ấn Độ ít có những cuộc cách mạng lớn, chủ yếu có tính cải cách. Các trường
phái đi sau thường kế thừa, bảo vệ, làm rõ quan điểm của trường phái đi trước. ác nhà Triết học
thường tỏ thái độ kế tục chứ không gạt bỏ hay phủ định hệ thống triết học trước đó. Khi bàn đến
những vấn đề bản thể luận, những vấn đề xoay quanh “tính khơng”, một số học phái độc lập giữa
“có” và “khơng”. Điều này phản ánh trình độ tư duy trừu tượng trong triết học Ấn Độ cổ đại.
+ Mỗi trường phái có một tác phẩm gốc.
+ Trong khi giải quyết những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh quan, triết
học Ấn Độ cổ đại đã thể hiện trình độ biện chứng và tầm khái quát sâu sắc, đưa lại nhiều đóng góp
cho kho tàng triết học nhân loại.
+ Học thuyết triết học Ấn Độ quan niệm đời sống con người phải giải thốt.
+ Triết học và tơn giáo, duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình đan xen nhau, tạo nên
nét đặc sắc riêng biệt.
+ Trong khi giải quyết những vấn đề về bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh quan, triết
học Ấn Độ cổ đại đã thể hiện trình độ biện chứng và tầm khái quát sâu sắc, đưa lại nhiều đóng góp


quý báu cho kho tàng triết học nhân loại.
Câu 2: Nêu thế giới quan của Phật giáo?
- Khái niệm thế giới quan:
Thế giới quan là một khái niệm triết học, tức là cá nhân đối với thế giới, cho đến cách nhìn
rất căn bản về vũ trụ, từ năng lực tư duy của nhân loại hiện khởi, chứ không phải dừng lại ở sự
nghiên cứu hay suy xét đối với một vấn đề nào đó.
- Thế giới quan của Phật giáo:
Thế giới quan Phật giáo là một phạm trù rộng bao hàm cả nhân sinh quan, đó là những quan
1


niệm về thế giới, về vị trí, vai trị của con người trong thế giới. Theo đó, thế giới quan Phật giáo
là toàn bộ những quan niệm chung nhất của Phật về thế giới, bao gồm: thế giới luân hồi và thế
giới các cõi Tịnh độ, các yếu tố cấu thành nên thế giới luân hồi là đất, nước, gió, lửa, và các quy
luật vận hành trong thế giới bao gồm dun sinh, vơ thường, nhân quả, các vị trí và mối quan hệ
của con người với thế giới.
* Mục đích của thế giới quan Phật giáo: là giải thốt chúng sinh khỏi khổ đau để có cuộc
sống an lạc trong hiện tại.
Nội dung chủ yếu của học thuyết Phật giáo là “lý giải và nêu ra cái chân lý về nỗi đau khổ
và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ” – Lời nói của Thích Ca Mâu Ni. Cụ thể:
* Nội dung chủ yếu: tập trung vào tứ diệu đế:
+ Khổ đế: Chân lý nói về nỗi khổ (sinh, lão, bệnh, tử)
+ Tập đế: Chân lý nói về nguồn gốc nỗi khổ
+ Diệt đế: Chân lý nói đến sự chấm dứt nỗi khổ
+ Đạo đế: Con đường diệt khổ bằng cách đi tu
* Con đường diệt khổ (Bát chính đạo):
1. Chính kiến: quan điểm tu hành đúng đắn
2. Chính tư duy: suy nghĩ đúng đắn
3. Chính ngữ: nói năng đúng đắn
4. Chính nghiệp: hành động đúng đắn

5. Chính mệnh: sống đúng đắn
6. Chính tịnh tiến: mơ tưởng những cái đúng đắn
7. Chính niệm: tưởng nhớ những cái đúng đắn
8. Chính định: tập trung tư tưởng, ngẫm nghĩ đúng đắn
* Về giới luật: tín đồ Phật giáo phải kiêng 5 thứ (ngũ giới): Không sát sinh, không trộm cắp,
không tà dâm, khơng nói dối, khơng uống rượu.
* Về mặt thế giới quan, nội dung cơ bản của học thuyết Phật giáo là thuyết duyên khởi.
Do quan niệm duyên khởi sinh ra vạn vật nên đạo Phật của trương “vô tạo hóa” tức là khơng
có vị thần linh tối cao tạo ra vũ trụ. Đây là nội dung cơ bản mà đạo Phật nêu ra để chống lại đạo
Bà la môn và là sự khác biệt quan trọng với các tôn giáo khác.
* Về mặt xã hội, đạo Phật không chủ trương xoá bỏ chế độ đẳng cấp, nhưng tuyên truyền sự
bình đẳng, mở đường giải thốt về tinh thần. Khơng tán thành bạo lực, chủ trương dùng thiện để
cảm hoá ác, nên bị giai cấp thống trị lợi dụng.
Câu 3: Nêu nhân sinh quan của Phật giáo?
- Khái niệm nhân sinh quan:
Nhân sinh quan là cái nhìn về cuộc sống của con người. Cái nhìn ở đây khơng phải bề ngồi
nói đến sự vật, hiện tượng mà nó đi khai thác cái bên trong, cái ý nghĩa nội tại của các sự vật hiện
tượng trong cuộc sống của con người. Từ việc tìm ra các ý nghĩa đó, nhân sinh quan đúc kết nên
quan điểm về triết lý sống, lý tưởng sống, mục đích sống của con người,... Nhân sinh quan có thể
được lập thành một hệ thống, bởi nó đề cập đến nhiều vấn đề, những vấn đề này đặt trong một xã
hội, chúng có sự liên kết, tác động qua lại với nhau.
2


- Nhân sinh quan của Phật giáo:
Nhân sinh quan Phật giáo được hiểu là hệ thống quan điểm của Phật giáo về con người, đời
sống của con người. Hệ thống quan điểm về nhân sinh quan của Phật giáo chịu sự chi phối của thế
giới quan và bởi các ý thức xã hội khác.
Nhân sinh quan Phật giáo đề cập đến con người và cuộc sống của con người. Trong đó, nội
dung chủ yếu là xoay quanh nỗi khổ của thế gian, vấn đề giải trừ cái khổ.

* Đối với con người Phật giáo đưa ra những quan điểm về sự sống, ý nghĩa của sự sống và
sinh mạng của con người.
* Đối với "cái khổ" nhân sinh quan Phật giáo đề cập đến các vấn đề sau đây:
+ Nhận thức về "cái khổ" trong thế gian;
+ Nhận thức về việc giải trừ "cái khổ" của con người;
+ Nhận thức về vấn đề lìa xa, thốt khỏi "cái khổ" của con người;
+ Răn dạy, hướng con người tới thiện tâm "cứu khổ, cứu nạn" chúng sinh.
a/ Nhân sinh quan phật giáo về sự sống của con người
Phật giáo luôn cho rằng cuộc sống vô thường. Mọi sự vật luôn luôn biến đổi và phát triển.
Nhưng mạng sống của con người có thể kết thúc bất cứ lúc nào mà ta không thể biết trước được.
Mạng sống của con người theo thời gian sẽ tiến dần đến điểm kết của sự sống.
Trên thế gian này khơng gì là bất biến, "thế gian vô thường", "nhân tâm vô thường". Thế
gian này không có gì là vĩnh hằng, bất biến. Mạng sống con người chỉ là một phần nhỏ trong thế
gian này. Phật giáo đã sớm biết rõ điều này, đã nhận chân được cuộc đời vốn vô vọng.
Theo Phật giáo "tất cả cả các hành động, tạo tác, truy cầu ở thế gian đều là khổ". Sinh mạng
là điều đáng quý, vạn vật sinh ra đều có sứ mạng. Con người sinh ra đều có thể xác và linh hồn.
Theo quan niệm phật giáo, tuy rằng sinh mạng sẽ kết thúc nhưng con người sau khi chết đi sẽ
không phải là sự kết thúc. Phật giải thích quy luật sau khi chết đi của con người theo thuyết Nhân
quả, Nghiệp báo, Luân hồi. Vạn vậy được kết nối nhờ nhân duyên của nhau, cứ thể tự sinh rồi tự
diệt là luân hồi.
Trong đó, thân xác con người thuộc về thuyết Danh sắc, Lục đại, Ngũ uẩn trong Phật giáo.
Khi con người tồn tại đều sẽ có ba hoạt động chính, trong đó:
+ Các hoat động thông qua hành vi. Những hành vi này sẽ tạo ra hậu quả, Phật giáo gọi đó
là thân nghiệp;
+ Các hoạt động bằng lời nói, phát ngơn. Hậu quả của lời nói là khẩu nghiệp;
+ Các hoạt động tạo nên do suy nghĩa của con người. Hậu quả là ý nghiệp.
Theo Luật Nhân quả tất cả các hoạt động trên xoay quanh hai phạm trù thiện và ác, điều này
tạo ra nghiệp lực, báo ứng hay còn gọi là "gieo nhân nào, gặt quả nấy". Phật còn cho rằng, con
người ở kiếp này phải chịu quả báo về những việc làm ở kiếp trước của họ.
b/ Quan niệm về "khổ" trong nhân sinh quan Phật giáo

Xuyên suốt trong toàn bộ thuyết nhân sinh quan của Phật giáo đều hướng con người đến sự
giải thoát khỏi nỗi khổ. Phật quan niệm "Đời là bể khổ". Để đat được sự giải thoát, Phật giáo đề
ra bốn chân lý tuyệt diệu, thiêng liêng mà mọi người cần phải thực hiện, đó là tứ diệu đế: Khổ đế,
tập đế, diệt đế và đạo đế.
3


Khổ đế là một triết lý nhân sinh tương ứng với quan điểm bản chất của con người là sự
"khổ". Có thể nói, quan điểm này có phần tiêu cực. Trong đó, tất cả nỗi khổ trong cuộc đời con
người được thể hiện thơng qua "sinh-lão-bệnh-tử".
Để thốt khỏi sự khổ, Phật giáo đề ra quan điểm từ bỏ "tham-sân-si" để từ bỏ điều ác, khi ấy
con người sẽ thoát khỏi nghiệp quả, báo ứng từ đó giải thốt về mặt tâm hồn trước nỗi khổ của
chúng sinh. Phật giáo lấy việc giải thoát đau khổ làm trọng tâm tư tưởng trong giáo lý của mình.
Khơng chỉ từ bỏ điều ác, Phật giáo còn đòi hỏi trách nhiệm về đạo đức làm người, không
được ngơ ngác trước nỗi khổ của người khác. Phật giáo không lấy giáo lý làm trọng mà chỉ cho
rằng đó là các phương tiện để đạt đến chân lý cuối cùng.
Điểm tương đồng trong quan niệm của Phật giáo với tư tưởng Mác - Lê nin là việc cũng lấy
con người làm điểm xuất phát, đồng thời cũng sẽ hướng đến cuộc sống tốt đẹp cho con người.
=> Nhân sinh quan Phật giáo là quan niệm của Phật giáo về con người, cuộc sống con người,
bản chất con người, thái độ và hành vi tu tập của con người nhằm mục đích giải thốt. Nói cách
khác, mục đích cuối cùng và tư tưởng chủ đạo của nhân sinh quan Phật giáo là giải thoát chúng
sinh khỏi kiếp trầm luân đau khổ. Để đạt được sự giải thoát, Phật giáo nêu ra bốn chân lý (tứ diệu
đế) cho mọi người thực hiện.
Câu 4: Nêu đặc điểm Triết học Trung Quốc cổ trung đại?
+ Thứ nhất, triết học Trung Hoa cổ, trung đại luôn nhấn mạnh tinh thần nhân văn, chú trong
đến các tư tưởng triết học liên quan đến con người, cịn triết học tự nhiên có phần mờ nhạt.
+ Thứ hai, triết học Trung Hoa cổ, trung đại chú trọng đến lĩnh vực chính trị -đạo đức của
xã hội, coi việc thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người. Có thể
nói, đây cũng chính là ngun nhân dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận và sự lạc hậu về
khoa học thực chứng của Trung Hoa.

+ Thứ ba, triết học Trung Hoa cổ, trung đại nhấn mạnh sự thống nhất hài hòa giữa tự nhiên
và xã hội, phản đối sự “thái quá” hay ”bất cập”.
+ Thứ tư, đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy của triết học Trung Hoa cổ, trung đại là
nhận thức trực giác, coi trọng tác dụng của cái “Tâm”, coi đó là gốc rễ của nhận thức.
Câu 5: Nêu đường lối trị nước của Nho gia?
Nho gia hay nhà nho là người theo học thuyết của Khổng Tử, chỉ người đã đọc sách thánh
hiền, được thiên hạ trọng dụng để giảng dạy luân thường đạo lý.
Về đường lối trị nước: Khổng Tử chủ trương “Đức trị”. Nội dung của đức trị gồm 3 điều:
Làm cho dân cư đông đúc; làm cho dân được sống yên ổn, kinh tế phát triển và làm cho dân được
học hành.
Ơng ví việc chính trị như ngôi sao Bắc Đẩu, người cầm quyền phải là người quân tử, phải
gương mẫu, lấy cái đức của mình mà cảm hóa dân chúng, muốn vậy phải sửa mình, giữ đức và tu
thân. Ơng phản đối pháp chế, hình phạt, ông cho rằng pháp chế chỉ làm cho dân sợ chứ không phải
biết xấu hổ mà không phạm tội. Lập trường chính trị của ơng là “tơn Chu” (đề cao nhà Chu), ít
nhiều có tính chất bảo thủ.
Câu 6: Nêu quan điểm Nho giáo trong bản chất con người?
- Khái niệm Nho giáo:
4


Nho giáo còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là một hệ thống đạo đức, triết học xã hội, triết
lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ của ông phát triển
với mục đích xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các nước châu Á là
Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam. Những người thực hành
theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà Nho, Nho sĩ hay Nho sinh.
- Quan điểm Nho giáo trong bản chất con người:
Như chúng ta đã biết, Nho giáo là một trường phái triết học đã đưa ra học thuyết chính trị đạo đức để giáo hố con người nhằm củng cố, duy trì trật tự xã hội. Để làm được điều đó, giáo lý
của Nho giáo thiên về việc xem xét, lý giải con người ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trong đó có
sự quan tâm xem xét vấn đề bản chất con người.
Khi xem xét vấn đề này, nhìn chung các nhà tư tưởng của trường phái triết học Nho giáo

Trung Quốc cổ đại cũng chỉ mới quan tâm đến "tính người", "tâm người", "lý người", tức là chỉ
mới bàn đến phẩm chất tinh thần, ý thức, tâm lý, tư tưởng mà chưa đi sâu vào bản chất đích thực
của con người. Mặc dù, mỗi nhà triết học của trường phái Nho giáo xem xét bản chất con người ở
mỗi khía cạnh khác nhau (Khổng Tử: Tính tương cận, tập tương viễn; Mạnh Tử: Tính thiện; Tn
Tử: Tính ác), song trong tồn bộ q trình vận động của lịch sử tư tưởng thì ở họ, vẫn có sự kế
thừa, phát triển và làm cho quan niệm về bản chất con người ngày càng trở nên hoàn thiện hơn.
Tuy vậy, khi bàn về bản chất con người, Khổng Tử đã cho rằng, bản tính của con người là
thiện và nó gần giống nhau ở tất cả mọi người. Ơng nói: "Tính tương cận giã; tập tương viễn giã".
Nghĩa là, con người khi mới sinh ra đều có cái tính trời phú cho là gần giống nhau, nhưng do quá
trình tiếp xúc, học hành mà làm cho họ có sự khác nhau, có kẻ trí, người ngu; phẩm chất của con
người là chất phác, chân thực và đó là điều kiện thuận lợi để trau dồi đức nhân và tất cả các đức
khác cũng từ đức nhân mà ra. Bản tính của con người là thiện nhưng vì con người quen thói đời,
mê vật dục nên mới thấy điều nhân xa mình. Vì vậy, khi con người đã có nhân thì phải ln giữ
lấy điều nhân, đừng bao giờ xa rời nó, dù chỉ trong một khoảnh khắc thời gian.
Câu 7: Nêu quan điểm lấy dân làm gốc của Nho gia?
Dân là những người có vị trí thấp nhất trong xã hội phải phụ thuộc vào người qn tử có địa
vị cao, kẻ tiểu nhân khơng tự giải phóng cho mình (hạ trí ngu bất di). Khổng Tử cho rằng địa vị
của người quân tử, tức nhà cầm quyền như gió, địa vị của kẻ tiểu nhân tức dân chúng tỷ như cỏ,
gió thổi thì cỏ rạp xuống. Mặc dù, quan niệm về Dân là những người có vị trí thấp nhất nhưng Nho
giáo lại ln đề cao vai trò của dân chúng đối với xã tắc.
Trong Kinh thư, Khổng Tử từng khẳng định “Dân vi bang bản” (Dân là gốc nước). Mạnh
Tử tiếp tục phát triển quan điểm này và đưa ra mệnh đề nổi tiếng: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân
vi khinh” (Dân là quý, kế đó là xã tắc, vua là nhẹ). Như vậy, Mạnh Tử đã thấy được mối quan hệ
mật thiết giữa vua, xã tắc và dân nhưng trong đó vai trò của dân được đề cao hơn cả. Bởi vì theo
ơng, được lịng kẻ dân q làm đến ngơi Thiên tử, được lòng Thiên tử chẳng qua làm chư hầu,
được lòng chư hầu chẳng qua làm quan đại phu. Dân là người giữ vai trò quyết định đối với an
ninh xã tắc và ngôi vua. Khổng Tử cho rằng, sự tồn vong của một triều đại phụ thuộc vào việc dân
có tin, có nghe theo chính quyền hay khơng. Nếu dân tin, dân theo, dân ủng hộ thì triều đình đứng
vững. Cịn nếu dân khơng tin, khơng theo, bỏ đi nơi khác hoặc nổi loạn thì triều đình tất sẽ đổ nát.
5



Thiên thời địa lợi chẳng bằng nhân hòa. Lương thực đủ, binh lực đủ, chẳng bằng được dân tin cậy.
Nhận thức rõ được vai trò của dân nên Khổng Tử đã đề xuất một loạt chính sách trị dân nhân đức.
Trong đó phải kể tới chính sách Dưỡng dân và Trị dân.
+ Dưỡng dân là chính sách hàng đầu trong quan niệm “dân là gốc”. Theo Khổng Tử, có ni
dân tốt thì dân mới tin, mới theo. Trong quan niệm của mình, Nho giáo cho rằng, để xây dựng một
triều đình vững mạnh thì cần tới ba điều, đó là: “Túc thực”, “túc binh” và “dân tín” (Nghĩa là lương
thực phải đầy đủ, binh lực phải sung túc và được trăm họ tin cậy).
Khổng Tử cho thấy, lấy được lòng tin của nhân dân là việc hết sức quan trọng. Người thống
trị mà có được lịng tin của nhân dân thì sẽ có sức mạnh lấn át mọi trở ngại trong quá trình lập
quốc. Quan điểm này đã thể hiện nhãn quan chính trị thiên tài của Khổng Tử, ơng đã thấy được
mối quan hệ khăng khít giữa chính trị, kinh tế và quân sự. “Thực” chính là kinh tế, “binh” chính
là quân sự, “dân tín” chính là chế độ chính trị - xã hội. “Theo Khổng Tử đường lối căn bản để xây
dựng và phát triển một quốc gia tốt nhất là xây dựng và phát triển đồng thời một chế độ chính trị
tốt, với một nền kinh tế phồn thịnh và một nền quân sự hùng mạnh”.
Kế thừa quan điểm của Khổng Từ, Mạnh Tử đã đưa ra thuyết “Nhân chính”, địi hỏi bọn q
tộc phải để cho nhân dân có tài sản riêng thì họ mới n tâm làm ăn (có hằng sản thì mới có hằng
sâm). Mạnh Tử đã có tư tưởng thừa nhận chế độ “hằng sản” của nền kinh tế sản xuất nhỏ, bảo vệ
sức lao động, rút hẹp khái niệm người quân tử, mở rộng một cách tương đối khái niệm kẻ tiểu
nhân trong phạm trù “Dân” Như vậy, trong chính sách Dưỡng dân của Nho giáo vừa có mặt tích
cực, vừa có những hạn chế nhất định. Một mặt, Nho giáo cho rằng những người thống trị phải luôn
quan tâm đến đời sống của nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân, nhưng mặt khác, sự quan tâm
này không nhằm mục đích mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân mà chỉ nhằm bảo vệ triều đình, củng
cố địa vị của giai cấp thống trị mà thôi.
+ Trị dân là phải biết làm cho dân giàu, bởi dân giàu thì nước với mạnh, dân đã giàu rồi thì
phải dạy dân biết thế nào là cương thường đạo lý để giữ trật tự trong xã hội. Nhưng làm cho dân
giàu cần phải giảm nhẹ thuế cho dân. Đặc biệt, phải biết giảm thuế khi dân mất mùa để bớt phần
nghèo khó. Bên cạnh đó, cũng cần phải thực hiện chính sách tiết kiệm trong tiêu dùng.
Ơng khun các bậc trị dân cái gì khơng có lợi cho dân thì đừng tiêu dùng, ngay cả lễ nhạc

cũng phải tiết kiệm, không được bày đặt tốn kém. Tiến bộ hơn cả chính sách phân phối công bằng
của Khổng Tử. Theo ông, thực hiện một chế độ phân phối cơng bằng thì lịng dân sẽ khơng oán,
mọi người hoà thuận, nước sẽ yên.
Câu 8: Nêu đường lối trị nước của Pháp gia?
Kế thừa và phát triển tư tưởng của các nhà Pháp gia đời trước, Hàn Phi cho rằng muốn trị
nước tốt thì phải có sức mạnh về kinh tế và quân sự. Muốn có sức mạnh thì phải tập trung quyền
lực vào một ơng vua, tức là phải dùng luật pháp để cai trị. Nội dung pháp trị gồm 3 yếu tố: pháp,
thế, thuật.
+ Pháp: chỉ pháp luật. Ông chủ trương dùng pháp luật, mệnh lệnh, hình phạt để cai trị là
phương pháp có hiệu lực nhất là vì dân vốn coi thường lịng thương mà chỉ vâng theo uy lực.
+ Thế: là quyền thế, uy thế, địa vị của người cầm quyền. Muốn pháp thi hành được thì vua
phải có thế, tức phải có đầy đủ uy quyền. Pháp gia chủ trương quyền thế vạn năng. Kẻ thống trị
6


phải nắm lấy quyền giết hại, khen thưởng. Vua phải biết “gia ơn” và “ra uy” đúng lúc thì mới
nâng cao được thế, hiệu quả thi hành pháp mới cao. Để nâng cao thế thì mọi thứ phải nhất nhất
theo pháp lệnh của nhà vua.
+ Thuật: là phương pháp điều hành, là có trí ngầm, thủ đoạn, mưu lược của nhà vua, là quyền
mưu không lộ ra mặt để điều khiển bề tôi. Thuật gồm ba mặt: bổ nhiệm, khảo hạch, thưởng phạt.
Thuật bổ nhiệm là phương pháp chọn quan lại: chỉ căn cứ vào tài năng, không cần đức hạnh dòng
dõi; Thuật khảo hạch và thưởng phạt là căn cứ theo trách nhiệm để kiểm tra hiệu quả công tác, làm
tốt thì thưởng rất hậu, làm khơng tốt thì phạt rất nặng.
Cịn văn hóa giáo dục thì khơng những khơng cần thiết, khơng đem lại lợi ích thiết thực mà
cịn có hại cho xã hội.
Phải thừa nhận rằng phái Pháp gia chủ trương dùng pháp luật để trị nước là đúng đắn. Nhờ
vậy, nước Tần đã trở nên hùng mạnh và thống nhất được Trung Quốc. Nhưng mặt khác phái này
quá nhấn mạnh biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ nhận đạo đức, tình cảm, thủ tiêu văn hóa giáo
dục là đi ngược lại với sự phát triển của văn minh và làm cho mâu thuẫn xã hội vô cùng gay gắt.
Chính vì thế, sau khi thống nhất Trung Quốc, nhà Tần tiếp tục thi hành đường lối này nên chỉ tồn

tại được 15 năm thì sụp đổ.
Câu 9: Quá trình du nhập của Phật giáo vào Việt Nam diễn ra như thế nào? Nêu những
thuận lợi và khó khăn của nó?
- Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam:
Phật giáo truyền vào Việt Nam từ rất sớm. Theo các nhà nghiên cứu thì vào khoảng thế kỷ
III TCN, vua Asơka đã phái những đồn truyền giáo Ấn Độ đến Miến Điện, Thái Lan, Việt Nam.
Theo sách Ngô chí của Trung Quốc, vào đời Hán, năm 207, có nói đến Sĩ Nhiếp (quan Trung
Quốc) khi đi sang quản lý Giao Chỉ có mang theo một số nhà sư, dựa vào tài liệu đó thì ít nhất đạo
Phật có mặt ở Việt Nam ngay từ những năm đầu công nguyên.
Phật giáo truyền vào Việt Nam thời đó chủ yếu bằng đường biển, do các thương nhân và tu
sĩ Ấn Độ mang sang. Thương nhân thường đến Việt Nam để mua các thứ gia vị, hương liệu, quế,
tiêu… Mỗi lần đến thường ở rất lâu, và trong chuyến đi xa đó, thương thuyền thường đặt bàn thờ
đức Phật và thỉnh theo tu sĩ. Từ đó, tư tưởng Phật giáo được gieo mầm trong nhân dân.
Vào những năm đầu công nguyên, Luy Lâu (vùng Dâu thuộc Thuận Thành – Bắc Ninh) đã
ra đời một trung tâm Phật giáo và Phật học lớn.
Theo các nhà nghiên cứu, các nhà sư Ấn Độ đã đến Luy Lâu lập chùa Hoằng Pháp và phát
triển đạo Phật. Sau một thời gian truyền bá đạo Phật ở Giao Châu, các nhà sư lại tiếp tục lên đường
sang Trung Quốc truyền bá đạo Phật. Như vậy, Luy Lâu đã trở thành trạm trung chuyển Phật giáo
Ấn Độ sang Hoa Nam.
Đến thế kỷ V, Phật giáo đã phát triển tại nhiều nơi trên đất nước ta và đã xuất hiện những
nhà sư Việt Nam có danh tiếng như Huệ Thắng (440-479), Thích Đạo Thiền (457-483)…
Đến thế kỷ VI, ảnh hưởng của nhà truyền giáo Ấn Độ dần giảm sút, trong khi đó, các nhà
truyền giáo Trung Quốc, sau khi Phật giáo từ phương Bắc phát triển xuống lãnh thổ Trung Quốc
đã dội ngược trở lại xuống nước Việt Nam, ngày càng ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội, Việt Nam
xuất hiện nhiều nhà sư nổi tiếng như Vân Lỳ, Trí Hạnh…
7


Như vậy, do thâm nhập một cách hịa bình nên Phật giáo đã dần phổ biến sâu rộng trên đất
nước Việt Nam và ngày càng thấm sâu vào lòng người.

- Thuận lợi và khó khăn:
Thuận lợi
+ Sự hịa nhập của tinh thần từ bi, hỷ xả với tinh thần
yêu nước Việt Nam
Phật giáo với những giá trị xây dựng từ tinh thần đại từ,
đại bi, cứu khổ, cứu nạn đã hòa quyện với tư tưởng yêu
nước, nhân nghĩa Việt Nam. Sự hòa nhập của Phật giáo
được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc ta. Đã có rất nhiều vị cao tăng là
quốc sư, giúp vua trị nước, an dân thời phong kiến. Thời
kỳ đầu của chế độ phong kiến, chùa chiền cũng là nơi
đào tạo giới trí thức, dạy dân cách tổ chức đời sống.
+ Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong quan hệ ứng
xử, giao tiếp
Đạo đức Phật giáo hòa nhập với các giá trị đạo đức của
dân tộc trở thành phương tiện diễn đạt quan niệm đạo
đức truyền thống của người Việt Nam. Các thuật ngữ
như “từ bi, hỷ xả”, “vô ngã, vị tha”, “cứu nhân độ thế”,
“tu nhân tích đức”, “sống nhân từ để phúc cho đời
sau”… trở thành một phần trong lẽ sống của người Việt,
trở thành ngôn ngữ của đời sống thường ngày. Cách
thức giao tiếp, ứng xử của người Việt Nam cũng chịu
ảnh hưởng rất lớn bởi các quan niệm Phật giáo. Trong
bát chính đạo của Phật giáo, có chính ngữ (giữ cho lời
nói được đúng mực), đó chính là một trong các điều kiện
để mỗi con người có những ứng xử phù hợp với mọi
người trong xã hội. Về ứng xử, giao tiếp trong gia đình,
Phật giáo đề cao sự hịa thuận và trách nhiệm của các
bậc cha mẹ, anh em, vợ chồng… đề cao sự hiếu thuận
thông qua thực hiện Tứ ân.

+ Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong sự cơng
bằng, bình đẳng
Tư tưởng bình đẳng, cơng bằng của Phật giáo khi du
nhập và phát triển ở Việt Nam đã hòa nhập với tư tưởng,
cơng bằng, bình đẳng của người Việt Nam. Phật giáo
chủ trương thiết lập quan hệ cơng bằng, bình đẳng giữa

Khó khăn
+ Với cách nhìn “cuộc đời là bể khổ khơng
bờ bến, thốt khổ bằng tu tâm, dưỡng tính
để diệt trừ vô minh đạt giác ngộ”, Phật
giáo đưa lại quan niệm sống bi quan, yếm
thế, coi cuộc đời chỉ là phù hoa, thoảng
qua, là sống gửi, thác về. Nhìn cuộc đời
một cách bi quan, thụ động nên khơng ít
người Việt dễ chùn bước khi gặp khó
khăn, sống bng trơi cho qua ngày, đoạn
tháng với niềm tin chỉ lo tu tâm, dưỡng
tính là đủ. Khi gặp trắc trở một số người
Việt thường nghĩ đến số phận, nghiệp
chướng, nhân quả, khiến con người hình
thành tính cách bị động, ít chịu vươn lên,
hạn chế năng lực đấu tranh xã hội của
những con người hiện thực, thậm chí thờ
ơ, do dự đối với cái tiêu cực, cái ác đang
gây bất bình trong xã hội; khơng tin vào
hoạt động đấu tranh tích cực, chống tiêu
cực trong xã hội, mà chờ đợi, tin vào nhân
quả tự đến.
+ Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin khi bàn về tôn giáo đã đề cập đến

vấn đề đạo đức tôn giáo không những phê
phán mặt tiêu cực mà cịn chỉ ra một số ý
nghĩa tích cực của đạo đức tôn giáo. Tuy
nhiên, trong bối cảnh lịch sử khi đó, các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin
thường xem xét tôn giáo gắn với thực tiễn
đấu tranh giai cấp ở châu Âu, phục vụ cho
yêu cầu cách mạng của giai cấp vô sản nên
phải bàn nhiều đến mặt tiêu cực của tơn
giáo, mà chưa có điều kiện đi sâu nghiên
cứu các khía cạnh tích cực của văn hóa,

mọi người và cho rằng mọi người đều bình đẳng như
tâm lý, tình cảm, đạo đức tơn giáo.
nhau, trong mỗi người đều có phật tính; trong quan hệ

8


với người khác, mỗi cá nhân không được cầu lợi cho
mình… có ảnh hưởng rất lớn đối với quan niệm sống
của người Việt, điển hình như: “Một người vì mọi
người, mọi người vì một người”.
+ Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo về tính trung thực
Trong giáo lý của nhà Phật, tính trung thực thuộc vào
giới “khơng nói dối” của ngũ giới. Thập thiện bao gồm:
thực ở cả “thân, khẩu, ý”. Trung thực ở ý là trung tâm
điều chỉnh hành vi theo luật nhân quả, nhân nào quả ấy.
Theo đó, sự dối trá sẽ bị nghiệp báo. Thuyết nhân quả,
nghiệp báo của Phật giáo gặp gỡ với tín ngưỡng của

người Việt Nam đã lan tỏa thành nếp sống, nếp nghĩ “ở
hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”… trong nhân dân.
+ Ảnh hưởng trong tính thiện, tình nghĩa và tình thương
Phật giáo đã hòa đồng với tư tưởng truyền thống Việt
Nam để xây dựng tính thiện, tình nghĩa và tình thương.
Đó là, tình “thương người như thể thương thân”, “lá
lành đùm lá rách”… Tình thương, tình nghĩa, tính thiện
khơng chỉ thể hiện trong quan hệ với hiện tại mà còn
được thể hiện trong quan hệ với quá khứ như: uống
nước nhớ nguồn hoặc ăn quả nhớ kẻ trồng cây…
+ Ảnh hưởng trong tấm lịng bao dung
Phật giáo đã góp phần cùng với dân tộc Việt Nam trong
việc xây dựng tấm lòng bao dung rộng lớn, vô ngã, vị
tha. Tinh thần bao dung rộng lớn được thể hiện trước lỗi
lầm của con người. Tinh thần bao dung còn được thể
hiện trong cách ứng xử với kẻ thù khi chúng bại trận,
trong chính sách nhân đạo đối với tù binh, hàng binh...
+ Ảnh hưởng trong tinh thần tự lực, tự chủ mỗi người
Tư tưởng này của Phật giáo khiến con người được giải
phóng khỏi sự trói buộc của thần quyền, nhờ đó mà
được tự do. Chính con người phải tự quyết định số phận
và tiền đồ của chính mình. Quan điểm tự lực, tự chủ của
Phật giáo đã góp phần xác định thêm cho tinh thần tự
lực, tự chủ của mỗi con người Việt Nam.
Câu 10: Nêu ảnh hưởng của Phật giáo đến các lĩnh vực về văn hóa, chính trị, xã hội
thời Lý – Trần? Những nguyên nhân nào tạo nên sự phát triển cực thịnh của Phật giáo ở
giai đoạn này?
- Ảnh hưởng đến các lĩnh vực:
* Ảnh hưởng dưới thời Lý:
9



Vào thời đại nhà Lý, Phật giáo vẫn tiếp tục giữ một vai trị rất lớn về mặt chính trị. Ngay
điểm khởi đầu, tức là việc lập nên triều đại này, Phật giáo đã đóng vai trị quyết định.
Tuy đã giúp nhà Tiền Lê, nhưng trước tình trạng tệ lậu của quốc gia dưới sự cai trị của Lê
Long Đĩnh, sư Vạn Hạnh đã không ngần ngại ủng hộ Lý Công Uẩn lên ngôi, chấm dứt chế độ dã
man của Lê Ngọa Triều, bằng một cuộc vận động quần chúng qua sấm truyền về vận mệnh dân
tộc gắn với chữ Lý, vốn đã được nhà sư Định Không (? – 808) nói đến từ hai thế kỷ trước. Với
việc Lý Công Uẩn xuất thân là một môn sinh của nhà chùa và vai trị của sư Vạn Hạnh, sẽ khơng
ngoa khi nói rằng bước đầu dựng lên nhà Lý thuộc về Phật giáo là bước đầu tiên. Sư Vạn Hạnh
cũng là người được tin rằng đã thuyết phục Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long với ý
nguyện bảo vệ lâu dài nền độc lập dân tộc.
Các tăng sư Phật giáo cũng trực tiếp tham dự chính sự qua việc trực tiếp thiết lập các kế
hoạch, thảo văn thư, tiếp sứ thần, bàn luận cả những vấn đề về quân sự. Tuy can dự vào chính sự
nhưng tăng sư Phật giáo không hề chủ trương tham gia chính quyền, nên sau đó, khi triều đình đã
vững mạnh hơn, có thể tự mình gánh vác tất cả, thì họ lại tự nhiên lui về với chức năng vốn có của
mình, là hướng dẫn tinh thần và đạo đức, lui về với việc tu đạo của mình khi nhiệm vụ đối với
quốc gia, với quảng đại quần chúng đã hồn thành.
Phật giáo thời Lý cũng có ảnh hưởng rất lớn lên văn hóa – nghệ thuật. Cụ thể:
Về phương diện học thuật, Phật giáo Việt Nam giai đoạn này, mà chủ thể là các tăng sĩ, thiền
sư, đã có cơng đào tạo một lớp trí thức có trình độ uyên thâm cả Phật, Nho, Lão, nhưng lại không
cố chấp và biết dung hợp những dị biệt giữa ba hệ thức triết lý này. Nhiều thiền sư am tường cả
tam giáo (Khuông Việt, Vạn Hạnh, Đạo Hạnh, Viên giác, Mẫn Giác…), và sẵn sàng truyền thụ
cho các môn đệ những tinh túy của các quan niệm chính trị – xã hội của Nho giáo. Khi nghị bàn
chính sự họ cũng sẵn sàng sử dụng lý luận Nho học. Kiến thức Nho được sử dụng theo tinh thần
Phật giáo đã đóng góp khá nhiều cho học thuật và chính trị đời Lý.
Dưới sự tác động, hướng dẫn tinh thần của các thiền sư, Phật giáo dưới thời Lý đã tạo dựng
một bản sắc văn hóa chính trị đầy tính nhân bản. Nhà Lý đã được xem như một triều đại thuần từ
nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Các vị vua của triều đại này có cuộc sống đạo đức và tâm
linh. Đã khơng có cảnh tranh đoạt, bạo loạn, cực hình, mà thay vào đó bằng một đường lối chính

trị khoan dung, độ lượng, từ bi với thần dân và với cả kẻ thù (vua Lý Thái Tông tha tội cho Nùng
Trí Cao, vua Lý Thánh Tơng khơng giết Chế Củ, vua Chiêm Thành). Xã hội vì đó mà bình an, phú
cường, đồn kết, tạo nên những chiến tích trước Chiêm Thành phía Nam và cả Tống quốc hùng
mạnh phương Bắc.
Phật giáo giai đoạn này cũng có những đóng góp to lớn đối với sinh hoạt văn học. Văn học
Phật giáo đã trở thành dòng văn học chủ đạo của thời này.
Những cơng trình kiến trúc và điêu khắc Phật giáo cũng đóng góp những giá trị mỹ thuật
cho triều đại nhà Lý. Những cơng trình này giờ đây khơng cịn lưu lại bao nhiêu, nhưng sử sách
ghi lại là vào các triều vua Lý Thái Tổ, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông đã xây, lập
rất nhiều chùa, điện, tháp, tiến hành đúc, vẽ nhiều tượng, tranh Phật. Những công việc này không
phải chỉ nhằm cho hoàng tộc, mà ở khắp nơi trong dân chúng. Một cơng trình nhà Lý mà nay vẫn
là một trong những biểu tượng của dân tộc Việt, chính là Chùa Một Cột, được xây từ năm 1049,
10


khi đó gọi là Chùa Diên Hựu.
Tuy nhiên, sức ảnh hưởng của Phật giáo lên đời sống chính trị, văn hóa, tinh thần vào thời
nhà Lý được cho là có q nhiều màu sắc mê tín. Có lẽ nhận định như vậy có phần hơi khắt khe.
Cho dù có những yếu tố Mật giáo, sấm vĩ, phong thủy, nhưng đây lại là những cái đã góp phần
khơng nhỏ cho vị trí của dân tộc Việt kể từ thời nhà Đinh đến lúc đó, và tính mê tín của nó thật ra
cũng không bằng ở giai đoạn suy đồi của Phật giáo như vào thời Lê Sơ hay thời Pháp thuộc.
* Ảnh hưởng dưới thời Trần:
Sự ảnh hưởng của Phật giáo dưới đời nhà Lý vẫn được tiếp tục dưới đời Trần.
Vào đầu thế kỷ 13, đã có sự dần dần sáp nhập vào với nhau của ba thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu
Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường. Thiền phái Yên Tử từ đây mà hình thành. Thiền phái này
sau đó, dưới sức ảnh hưởng rất lớn của vua Trần Thái Tơng và Tuệ Trung Thượng Sĩ, đã có một
bước phát triển lớn, trở thành thiền phái Trúc Lâm – thiền phái duy nhất dưới đời nhà Trần. Có
thể nói, thời đại nhà Trần là thời đại Phật giáo nhất tông, mà thiền sư Hiện Quang (? – 1221), tu
đạo tại núi Yên Tử, là vị khai tổ của sự nhất tông này.
Vua Trần Thái Tông (1218-1277) không nằm chính thức trong tơng phả của Trúc Lâm,

nhưng có nhiều cơ duyên với Phật giáo, với thiền phái này. Ông đã tự tu học Phật đạo và để lại
nhiều tác phẩm Phật học có giá trị.
Vua Trần Nhân Tơng (1258-1308) lại là một chân truyền chính thức đời thứ sáu của Yên
Tử, ông xuất gia năm 1299, sau 21 năm làm vua, lấy hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà . Ơng là người có
cơng đầu trong việc xây dựng một giáo hội hồn tồn thống nhất, chính thức dựng nên thiền phái
Trúc Lâm chủ trương nhập thế.
Tư tưởng Phật học của thiền phái Trúc Lâm có thể có những biến thể ít nhiều khác nhau,
trình bày khác nhau, nhưng tựu trung có thể xem tư tưởng của Tuệ Trung Thượng Sĩ, là điển hình
nhất, độc đáo nhất. Người này đã phát triển học thuật của Yên Tử theo khuynh hướng thực chứng,
khơng cố chấp vào kinh kệ, điển tự. Ơng quan niệm giáo lý, việc học đạo không phải ở lý thuyết,
mà là ở tồn tại của chính mình, hãy quay về chính bản thân mình, khơng phải đi tìm kiếm ở Phật
tổ. Ông nổi tiếng ở những quan niệm trái ngược với thái độ cả chấp, như từng giảng rằng “sắc
chẳng phải khơng, khơng chẳng phải sắc”. Ơng cũng phê phán rằng khi đặt ra vấn đề giải thốt
chính là đã dựng lên ranh giới giữa phiền trượt và giải thoát, giữa mê và ngộ, giữa phàm và thánh,
giữa sinh tử và niết bàn. Chính sự “nhị kiến”này làm ta bị bó buộc vào vịng sinh tử, khiến người
ta mãi mãi là kẻ phàm nhân. Ơng cũng đả kích sự cả chấp trong việc thực hành trì giới. Theo ông,
sự siêu việt vượt lên trên tội – phúc khi trì giới là ở chỗ khơng có sự ràng buộc vơ ích vào nó. Với
những quan niệm như vậy, quả thật vị thiền sư này đã khai mở một đường hướng mới sâu sắc,
uyên thâm đích thực trong Phật học Việt Nam.
Trong buổi đầu nhà Lý, các thiền sư còn can dự trực tiếp vào cơng việc chính sự. Triều đình
cần đến sức học, tài ngoại giao, khả năng giáo dục, sự liên kết nhân tâm của họ. Nhưng đến đời
Trần, tình hình đã khác đi. Các vua Trần là những người có tri thức, lại uyên bác Phật học. Nhưng
dù vị trí trực tiếp trong cơng việc chính sự của các tăng sĩ khơng cịn nữa, Phật giáo lại vẫn phát
triển rực rỡ hơn bao giờ hết, ảnh hưởng trực tiếp lên chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội đời Trần, trở
thành một tinh thần dân tộc thời bấy giờ.
11


Với sự việc vua Trần Thái Tông chuyên tâm học Phật, vua Trần Nhân Tông xuất gia, xây
dựng thiền phái Trúc Lâm, anh vợ của vua Trần Thánh Tơng thì trở thành Tuệ Trung Thượng Sĩ,

vua Trần Anh Tông cũng có chủ đích tu đạo sau khi nhường ngơi (nhưng chưa kịp thì băng
hà), Phật giáo thật sự trở thành một thế lực tinh thần ủng hộ cho chính trị, và ngược lại, triều đình
là một quyền lực củng cố cho Phật giáo. Có thể giai đoạn Nhân Tơng là giai đoạn Phật giáo hưng
thịnh cực độ ở nước ta.
Phật giáo Trúc Lâm chủ trương nhập thế, đạo Phật phụng sự đời sống, đời sống tâm linh giải
thoát đời sống xã hội, Phật giáo đời Trần thật sự tạo nên một sự thống nhất chính trị, thống nhất
tinh thần dân tộc trên phương diện quốc gia một cách rộng khắp. Yếu tố liên kết nhân tâm của
Phật giáo Trúc Lâm đã khiến thời kỳ này có một nền tảng chính trị bình dị, dân chủ, thân dân. Một
tiếng “đánh” đồng lòng của Hội nghị Diên Hồng và ba lần liên tục đánh bại quân xâm lược nhà
Nguyên, chính là thể hiện sự thống nhất dân tộc trên tinh thần Phật giáo.
Về phương diện văn hóa, Phật giáo giai đoạn này cũng là yếu tố chủ lực, quyết định. Cuộc
đời tu học của Trần Thái Tông đã tạo ra một không khí học Phật thật sự trong giới trẻ, trí thức ở
Thăng Long và trong cả nước. Tấm gương thành đạt trong Phật học của Thánh Tơng và Tuệ Trung
khi cịn trẻ cũng là một động lực cho việc này.
Phật giáo đời Trần mang một tinh thần khoan dung và tự do. Chính đều này gây dựng nên
những nét văn hóa xã hội, văn hóa dân tộc vào thời kỳ này. Phật giáo khơng chỉ trích Nho, Lão,
mà để cho các giáo lý này tự do phát triển. Trong khơng khí học tập tự do và cởi mở, triều đình
đãi ngộ hiền sĩ một cách kính cẩn, đã phát triển sự học lên rất nhiều, và cũng nhiều người tài giỏi
xuất hiện. Chính từ tinh thần dung hợp và khai phóng này của Phật giáo mà nền học vấn thời Trần
không bị ràng buộc bởi khoa cử, thực hiện chính sách tự do tôn giáo, không phân biệt sĩ phu được
đào tạo từ truyền thống giáo lý nào. Điều đó đã xây dựng nên một nền văn học rạng rỡ và đầy ý
thức tự tin. Thi ca thời Trần vì thế mà mang ảnh hưởng sâu đậm của thiền học, thi sĩ nhìn sự việc
bằng con mắt của người biết tĩnh tâm thiền quán.
Sinh hoạt Phật giáo cũng là một nét đáng kể trong đặc điểm văn hóa thời kỳ này. Việc vua
Nhân Tông – người đã đánh bại quân Nguyên, đem thịnh trị, an bình về cho xã tắc – xuất gia,
khiến cả nước hướng về ngọn núi Yên Tử, việc tu luyện Phật pháp thật sự sôi nổi trong nước.
Chùa, tháp mọc lên khắp nơi, khiến Nho gia Lê Bá Quát đã than rằng dân chúng chỉ lo lập chùa
mà không lo lập trường học, văn miếu. Sách Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ thì nói “số người
cắt tóc làm tăng ni cũng bằng nửa số dân thường” [4] . Tất nhiên thực tế khó mà đến mức như vậy,
nhưng điều đó cho thấy tầm mức quá sức rộng lớn của sinh hoạt Phật giáo lúc đó, đến nỗi, ý thức

được nguy cơ tăng sĩ quá đông mà khơng thủ trì nghiêm túc giới luật sẽ dẫn đến suy vong của
chính giáo hội, phái Trúc Lâm đã in Tứ thần luật và tổ chức học tập cho giới tăng sĩ về giới luật,
định ra những quy chế rõ ràng trong việc tổ chức, sinh hoạt, quản lý giáo hội.
Vào thời này nhà chùa cũng đã thực sự trở thành một lực lượng kinh tế. Điều này cũng dễ
hiểu trước sự ủng hộ của triều đình và thế lực chính trị, xã hội, tinh thần của Phật giáo. Chùa chiền
khắp nơi đã chiếm hữu nhiều ruộng đất. Sử sách còn ghi lại là ruộng đất được dâng tặng rất nhiều
cho các chùa Báo Ân, Quỳnh Lâm, Sùng Nghiêm, Vĩnh Nghiêm, Thanh Mai, Cơn Sơn, là những
chùa lớn thời đó. Riêng chùa Quỳnh Lâm đã có hơn 1.000 mẫu đất và có tới 1.000 người làm
12


ruộng. Lợi tức thu được từ đây có lẽ đã được sử dụng vào Phật sự và tăng sự của toàn giáo hội.
Phật giáo Trúc Lâm đạt đến đỉnh điểm là vậy, nhưng đến sau đời sư Huyền Quang (12541334), nó khơng cịn hưng thịnh nữa. Điều này khơng thể giải thích chỉ bằng sự ra đi quá sớm của
vua Anh Tông trước khi thực hiện ý định xuất gia. Cũng không thể cho là do sự yếu kém của
Huyền Quang, người nhận nhiệm vụ lãnh đạo giáo hội khi ở vào tuổi 77, cũng không phải là sự
bất lực của An Tâm, người kế vị Huyền Quang. Có lẽ sự đi xuống này cần được giải thích từ nguồn
gốc sâu xa trong những vấn đề xã hội của Phật giáo. Có thể thấy là khi nền độc lập quốc gia đã trở
nên vững vàng, việc củng cố quyền lực thống trị của mọi triều đại là không thể tránh khỏi. Từ đây
nảy sinh việc tìm kiếm, xây dựng một ý thức hệ làm nền tảng. Nhà Trần cũng không tránh khỏi
điều này, và ý thức hệ này vốn đã có sẵn, đó chính là Nho học. Nho giáo đã dần hưng thịnh lên,
việc học Nho và các quan Nho ngày một nhiều, và xã hội đã bắt đầu phân hóa do vấn đề ý thức
hệ. Các Nho thần quan niệm chỉ có Nho giáo mới là đạo thánh nhân, cịn Phật giáo thì chỉ có hại
cho quốc gia. Hơn nữa, đối với bản thân Phật giáo thời này, khi mà một giáo hội dựa quá nhiều
vào sự ủng hộ của triều đình mà quên đi thế đứng thật sự cần được cắm sâu trong dân gian, sự
suy giảm của nó là sẽ đến lúc khơng thể tránh khỏi.
- Những nguyên nhân tạo nên sự phát triển cực thịnh của Phật giáo ở giai đoạn này:
Đỉnh cao thịnh vượng nhất của Phật giáo ở Việt Nam vào thời Lý - Trần do là:
Thời kỳ này, các vua và hoàng tộc đều sùng Phật; nhiều đường lối, chính sách của Nhà nước
đều được các trí thức Phật giáo tham gia xây dựng. Vì vậy, đường lối chính trị thời kỳ này mang
đậm tinh thần khoan dung, từ bi của Phật giáo. Giáo hội Phật giáo, chùa chiền, tu viện… đều dưới

sự điều hành và bảo trợ của nhà vua (Nhà nước). Các thiền sư đạo cao đức trọng đều được triều
đình tin dùng và được coi như những cố vấn đặc biệt cho triều đình như: thời Lý có thiền sư Vạn
Hạnh, Khng Việt, Pháp Thuận, Viên Thơng…; thời Trần có thiền sư Trúc Lâm, Đại Đăng,
Huyền Quang, Pháp Loa… Phật giáo một mặt thẩm thấu trong đời sống của người dân Việt, mặt
khác được giai cấp cầm quyền coi như một hệ tư tưởng chủ đạo.
Tuy nhiên, dù trên nhiều phương diện, Phật giáo quan hệ với Nhà nước như một quốc giáo:
có sự cộng hưởng tích cực giữa Phật giáo và chính trị, giữa triều đình và Giáo hội, giữa tín đồ bình
dân và Nhà nước; nhưng, Phật giáo ở thời Lý - Trần vẫn không được thừa nhận chính thức ở vị
trí Quốc giáo. Bởi các thiền sư tuy giữ vai trị cố vấn trong triều đình nhưng họ luôn giữ khoảng
cách nhất định của một tôn giáo truyền thống hay tôn giáo dân tộc, họ không tham dự sâu vào bộ
máy quyền lực, kết thúc công việc lại lui về chùa mà khơng giữ một vị trí chính thức nào trong bộ
máy quyền lực.
Câu 11: Q trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam diễn ra như thế nào? Nêu những
thuận lợi và khó khăn của nó?
- Q trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam:
Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc. Từ thời Tây Hán, Nho giáo đã được các
quan lại Trung Quốc truyền sang nước ta, nhưng từ thời Đông Hán (thế kỷ I sau công nguyên) mới
thấy tài liệu nói về vấn đề này.
Đến đời Đường (thế kỷ VII-VIII), ở Trung Quốc bắt đầu mở khoa thi và cho phép sĩ tử người
Việt được đi thi, chủ trương đó càng khuyến khích việc học Nho giáo ở Việt Nam. Tuy nhiên, mục
13


đích của việc truyền bá Nho giáo của bọn quan lại Trung Quốc là nhằm đào tạo những người giúp
việc cho chính quyền thực dân và thơng qua Nho giáo để cải đổi phong tục, tập quán của nhân dân
ta. Do đó, một số người học xong làm việc cho chính quyền đơ hộ, nhưng cũng có người đi học
để thêm kiến thức và tìm đường giải phóng dân tộc.
Đến cuối triều đại nhà Đường, do số thí sinh người Việt dự thi Tiến sĩ ở Trung Quốc ngày
một đông hơn, nên nhà Đường đã hạn chế số lượng người Việt đi thi do họ nhận ra trong số người
Việt học hành đỗ đạt khơng chịu ra hợp tác chính quyền đô hộ mà tham gia khởi nghĩa chống Bắc

thuộc, họ không muốn người Việt học cao, hiểu rộng cạnh tranh với Nho sĩ Trung Quốc, có hại
cho nền đơ hộ.
- Thuận lợi và khó khăn:
Thuận lợi

Khó khăn

+ Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho
con người có sự đối xử nhân ái, khoan dung,
độ lượng với nhau. Đức lễ, với hệ thống các
qui định chặt chẽ đã giúp con người có thái độ

+ Một số người do quá “trọng đức”, “duy tình”
trong khi xử lý các cơng việc và các mối quan
hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép
nước và vi phạm pháp luật.

và hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo
khuôn phép. Xét theo phương diện pháp luật
thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực trong
việc duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, ngày
nay chúng ta có thể kế thừa. Điều này đã tạo

+ Nhiều người khi có chức, quyền đã kéo bè
kéo cánh, đưa người thân, anh em họ hàng vào
cơ quan mình đang quản lý. Sắp xếp và bố trí
cán bộ khơng theo năng lực, trình độ và địi hỏi
của cơng việc mà dựa vào sự thân thuộc, gần

cho con người nếp sống trên kính dưới

nhường. Tư tưởng chính danh giúp cho con
người xác định được nghĩa vụ và trách nhiệm
của mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng
trong các quan hệ xã hội.
+ Ở đây Nho giáo đã nhận thức được một thực
tế là những người trong bộ máy nhà nước mà
mất đạo đức thì khơng thể cai trị được nhân
dân. Cho nên đạo đức là một phương tiện để

gũi trong quan hệ tông tộc, dịng họ.
+ Trong cơng tác tổ chức cán bộ, vì đề cao
quan hệ thân thích dẫn đến tư tưởng cục bộ địa
phương. Nhiều người vì quan hệ thân thuộc mà
không dám đấu tranh với những sai lầm của
người khác.
+ Do quan niệm sai lệch về đức Nhân Nghĩa
với nội dung đền ơn trả nghĩa mà trong thực tế
một số cán bộ có thái độ ban ơn, cố tình lợi

tranh thủ được lòng dân.
+ Theo Nho giáo, đạo đức người cầm quyền có
ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong của một triều
đại. Vì vậy, Khổng Tử khuyên người cầm
quyền phải “tu thân” để làm tấm gương cho
người dưới. Với việc đề cao tu thân, coi đây là
cái gốc trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã
tạo nên một lớp người sống có đạo đức.
+ Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt

dụng kẽ hở của chính sách và luật pháp để trục

lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa quyền…. Thậm chí,
một số người dùng tư tưởng gia trưởng để giải
quyết các công việc chung. Một trong những
phẩm chất của người lãnh đạo là tính quyết
đốn. Nhưng quyết đốn theo kiểu độc đốn,
chun quyền là biểu hiện của thói gia trưởng.
+ Việc coi trọng lễ và cách giáo dục con người
theo lễ một cách cứng nhắc, bảo thủ là cơ sở

Nam đã có nhiều tấm gương sáng ngời về đạo cho tư tưởng tôn ti, tư tưởng bè phái, cục bộ,
đức của các vị vua, của các anh hùng hào kiệt. đề cao địa vị, coi thường lớp trẻ, trọng nam
14


+ Theo các nhà kinh điển của Nho giáo, người khinh nữ… hiện nay vẫn còn tồn tại trong suy
làm quan phải có đức, phải lấy nhân nghĩa, lấy nghĩ và hành động của khơng ít người.
chữ tín làm mục tiêu để cảm hóa lịng người, => Những tư tưởng trên phản ánh cơ sở hạ tầng
để cai trị.
của xã hội phong kiến phụ quyền gia trưởng:
Đứng đầu gia đình là người cha, người chồng
gọi là gia trưởng, đứng đầu dòng họ là trưởng
họ, đại diện cho cả làng là ông lý, cả tổng là
ông chánh, hệ thống quan lại là cha mẹ dân và
cao nhất là vua (thiên tử - gia trưởng của gia
đình lớn – quốc gia, nước). Vì vậy, mọi người
có nghĩa vụ theo và lệ thuộc vào “gia trưởng”.
+ Thực chất đạo cương – thường của Nho giáo
là bắt bề dưới phải phục tùng bề trên đã tạo nên
thói gia trưởng. Thói gia trưởng biểu hiện ở
quan hệ xã hội, ở tổ chức nhà nước. Trong gia

đình là quyền quyết định của người cha, người
chồng. Ở cơ quan là quyền duy nhất là của lãnh
đạo. Ở đâu vẫn cịn có cán bộ mang tư tưởng
gia trưởng, bè phái thì ở đó quần chúng nhân
dân sẽ khơng phát huy được khả năng sáng tạo,
chủ động được.
+ Cũng từ việc coi trọng lễ giáo, coi trọng quan
hệ gia đình thân thuộc nên nhiều người đã đưa
quan hệ gia đình vào cơ quan hình thành nên
quan hệ “chú cháu”, “anh em” khiến cho người
cấp dưới khơng dám góp ý và đấu tranh với
khuyết điểm của họ vì vị nể bậc cha chú, dẫn
đến những quyết định thiếu khách quan, không
công bằng. Tư tưởng trọng nam khinh nữ đã
dẫn đến một số người lãnh đạo không tin vào
khả năng của phụ nữ, ngại tiếp nhận họ vào cơ
quan hoặc cho rằng họ chỉ là người thừa hành
mà không được tham gia góp ý kiến… là
những trở ngại cho việc đấu tranh vì quyền
bình đẳng giới. Vì quan hệ thứ bậc đã tạo nên
quan niệm chạy theo chức quyền.
+ Sự giáo dục, tu dưỡng đạo đức của Nho giáo
cịn mang tính cứng nhắc đã tạo nên những con
người sống theo khuôn mẫu, hành động một
cách thụ động.
15


Câu 12: Nêu ảnh hưởng của Nho giáo đến các lĩnh vực về kinh tế, văn hóa, chính trị,
giáo dục thế kỉ XV?

Với sự bắt đầu của triều đại Lê, Nho giáo trở thành độc tôn. Từ đây, Nho giáo trở thành hệ
tư tưởng chính thống của tầng lớp thống trị. Nho giáo được dùng làm các nguyên lý chỉ đạo việc
xây dựng các thiết chế chính trị và xã hội.
Tại Việt Nam, Nho giáo đã bản địa hoá nên thành nền Việt nho, cung cấp các giá trị làm nền
tảng cho nền văn hoá Việt Nam để tạo nên một truyền thống tốt đẹp về tư tưởng, đạo đức và nếp
sống. Đó là ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ và tình cảm đạo đức của mỗi người đối với cộng đồng;
là sự hiếu học, coi trọng nhân tài, coi trọng người có học vấn và tơn sư trọng đạo; là sự tích cực
nhập thế, tích cực dấn thân vào các hoạt động xã hội; là việc coi trọng gia đình, trọng tình
nghĩa. Câu châm ngơn "Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn" phổ biến ở các trường học tại Việt Nam hiện
nay chính là quan niệm giáo dục.
Nhưng thứ Nho giáo đã ảnh hưởng tới vua quan nhà Lê và tầng lớp sĩ phu Việt Nam thế
kỷ 15 là Tống Nho (Nho giáo đời Tống), mà người ta thường gọi là Tân Nho, đặc biệt là các lý
thuyết của Trình Hạo, Trình Di và Chu Hy.
Nho giáo được xem là có sức lan tỏa và ảnh hưởng đến Văn học Việt Nam, điển hình như
hai bản tun ngơn độc lập như "Nam Quốc Sơn Hà" của Lý Thường Kiệt và "Bình Ngơ Đại Cáo"
của Nguyễn Trãi đề cao tính dân tộc, nguyện vọng dành độc lập của Nhân dân Việt Nam, trong đó
ở tác phẩm "Nam Quốc Sơn Hà" có kể đến câu: "Sông núi nước Nam, vua Nam ở, rành rành định
phận tại sách Trời" đã nhắc đến nước Nam đã có chủ quyền và ln chống lại sự uy hiếp từ phía
phương Bắc, chủ quyền đó đã được Trời cao cơng nhận và do đó xâm chiếm nước Nam là hành
động chống lại mệnh Trời. Ý tưởng này chịu ảnh hưởng từ tư tưởng mệnh trời của Hán Nho
Cuối thế kỷ XIV, Nho giáo phát triển mạnh, chiếm ưu thế trong cung đình và đi sâu vào sinh
hoạt tinh thần của Đại Việt trên nhiều mặt. Giáo dục Nho học giữ vị trí chủ đạo trong nền giáo dục
đất nước. Tầng lớp Nho sĩ trở nên đông đảo và tích cực tham gia các cơng việc chính trị của đất
nước, phấn đấu cho lý tưởng của Nho giáo, phát triển những quan điểm về các mặt chính trị, xã
hội, đạo đức, làm cho sinh hoạt tư tưởng và văn hóa nước nhà khá náo nhiệt.
Bên cạnh đó, vào cuối đời Trần, xã hội Việt Nam bước vào khủng hoảng, sự phát triển quá
mức của đạo Phật đã gây ra những hậu quả xã hội nặng nề, như tầng lớp quý tộc lợi dụng danh
nghĩa tôn giáo ra sức xây chùa, đúc tượng; nhà chùa chiếm hữu nhiều ruộng đất, tiêu phí nhiều
tiền của, tăng ni ngày một đơng đến mức chiếm quá nửa dân số. Khi đó đã xuất hiện khuynh hướng
cơng kích Phật giáo từ phía các Nho sĩ và ngày một trở nên mạnh mẽ, rầm rộ, phản ánh những

mâu thuẫn vốn có trong xã hội giữa một bên là giới quý tộc (thân tộc của nhà vua) có thế lực, có
sản nghiệp, có khuynh hướng ủng hộ Phật giáo với một bên là ngoại tộc đi lên bằng tài năng trí
tuệ. Khơng chỉ phê phán những tệ nạn và những hậu quả tiêu cực do sự phát triển rầm rộ của Phật
giáo, một số nhà Nho cịn cơng kích cả giáo lý của nhà Phật.
Đặc biệt, trong khi phê phán Phật giáo, Lê Văn Hưu còn đề cao Nho giáo như là cơ sở lý
luận cho mọi hoạt động chính trị của triều đình. Vào cuối Trần, giới Nho sĩ ngày càng có vị trí
đáng kể trong xã hội và ngày càng có đủ uy lực để dám công khai phản đối một số đặc quyền đặc
lợi của q tộc, mà cịn cơng khai phản đối Phật giáo lúc Phật giáo cịn là tơn giáo của nhà vua.
16


Cuộc đấu tranh cơng kích Phật giáo vừa nhằm khẳng định địa vị cho Nho giáo trong đời
sống văn hóa - tư tưởng, vừa được coi là cuộc đấu tranh triệt để để chuẩn bị về mặt lực lượng xã
hội và tư tưởng cho tầng lớp Nho sĩ bước lên vũ đài chính trị; đồng thời báo hiệu sự sa sút của
Phật giáo khơng chỉ trong thực tế, mà cịn trong lĩnh vực tư tưởng. Từ đây, Phật giáo không cịn
giữ vị trí quan trọng trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng như trước nữa, mà Nho giáo dần tiến đến
nắm giữ vị trí chủ đạo trong sinh hoạt tư tưởng tại Việt Nam.
Câu 13: Nêu đặc điểm của Nho giáo ở thế kỉ XIX?
Đầu thế kỷ XIX, Nguyễn Ánh diệt được nhà Tây Sơn, thống nhất đất nước, lên làm vua, lập
ra triều Nguyễn (năm 1802). Gia Long (miếu hiệu của Nguyễn Ánh) và các vị vua Nguyễn kế tiếp
đều ra sức đề cao Nho giáo, phục hồi địa vị độc tơn của Nho giáo. Nhưng, Nho giáo chính thống
triều Nguyễn do đi vào chỗ khắc nghiệt, giáo điều nên đã ngăn chặn sự nảy nở của các mầm mống
tư tưởng thức thời và yêu nước, đã từ chối khuynh hướng cải cách xã hội, khiến đất nước đánh
mất cơ hội mới để tiến kịp với thời đại.
Tất nhiên, Nho giáo là một học thuyết, một tư tưởng và do đó, sự vận dụng nó phụ thuộc vào
người sử dụng. Nhưng, khi người sử dụng quá tin vào hiệu lực của nó mà qn mất rằng hồn cảnh
đã thay đổi thì học thuyết cũng phải thay đổi theo, thì chính học thuyết đó tác động trở lại làm cho
con người mê muội, làm theo những điều đã lỗi thời. Bởi vậy, có thể nói, cả triều Nguyễn và Nho
giáo đều phải chịu trách nhiệm trước lịch sử dân tộc cuối thế kỷ XIX.
Nhà Nguyễn chấn chỉnh lại giáo dục và vua Minh Mạng cho ban hành “10 điều huấn dụ”

trong nhân dân. Nho giáo thời Nguyễn chịu ảnh hưởng của Tống nho, bên cạnh đó cịn có ảnh
hưởng của Hán nho và Đường nho. Dưới triều Nguyễn lịch sử đã đặt ra cho các nhà Nho ba vấn
đề lớn cần giải quyết, đó là cuộc đấu tranh giữa “chính đạo” và “tà đạo”, giữa “duy tân” và “thủ
cựu”, giữa “chiến” và “hòa”. Đây là 3 cuộc đấu tranh tư tưởng quan trọng, mà có giải quyết nó
mới chứng minh được sức sống của Nho giáo, cịn khơng thì nước mất, dân tộc bị nô lệ. Nhưng
kết quả, Nho giáo đã không giải quyết được đúng đắn 3 vấn đề nói trên, bất lực trước sứ mệnh lịch
sử, dẫn dân tộc đi vào khúc quanh bi thương và tủi nhục.
Câu 14: Nêu nguồn gốc, nội dung, sự du nhập và đặc điểm của Đạo giáo ở Việt Nam?
- Nguồn gốc của Đạo giáo:
Đạo giáo: (Đạo nghĩa là con đường, đường đi, giáo là sự dạy dỗ) hay gọi là Tiên Đạo, là một
nhánh triết học và tôn giáo của Trung Quốc, được xem là tơn giáo đặc hữu chính thống của đất
nước này. Nguồn gốc lịch sử của Đạo giáo được xác nhận nằm ở thế kỉ thứ 4 trước Công nguyên,
khi tác phẩm Đạo Đức kinh của Lão Tử xuất hiện. Các tên gọi khác là Lão giáo, Đạo Lão, Đạo
Hoàng Lão, hay Đạo gia, Tiên Giáo.
Đạo giáo là một tơn giáo cổ xưa, có nguồn gốc từ Trung Quốc. Đạo giáo có hai nhánh phát
triển chính: Đạo giáo thần tiên và Đạo giáo phù thủy.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, mặc dù Đạo giáo chưa từng trở thành hệ tư tưởng thống
trị trong xã hội Trung Quốc như Nho giáo, Phật giáo nhưng vai trò của nó trong đời sống xã hội
Trung Quốc rất to lớn. Đặc biệt trong tầng lớp người bình dân và được người Trung Quốc coi là
một tôn giáo “đặc sản” của dân tộc.
- Nội dung của Đạo giáo:
17


Hệ thống tư tưởng của Đạo Giáo đã được Lão Tử gói gọn chỉ trong cuốn sách Đạo Đức
Kinh, dài 81 chương và có khoảng 5000 từ. Mặc dù ngắn gọn súc tích nhưng sách đã gây được
tiếng vang lớn trong cộng đồng triết gia phương Đông và phương Tây. Hệ thống tư tưởng của Đạo
Giáo nhấn mạnh chủ trương "vô vi". Đây cũng là điểm nhấn khác biệt giữa Đạo Giáo với các tơn
giáo khác. Đạo giáo có hai đặc trưng cơ bản là:
+ Quan niệm về vũ trụ và vạn vật

Đạo là thể vơ hình và vơ tướng tức là không sinh không diệt mà hằng hữu đời đời. Sở dĩ
nhiều người khơng thấy được Đạo là vì nó bao gồm các nguyên tố rời rạc và chưa kết thành hình
tượng. Đạo sinh ra một, một lại sinh hai, hai tiếp tục sinh ba, ba lại sinh vạn vật. Một là Thái cực,
hai là Âm Dương, ba là Tam Thiên Vị. Âm và Dương sẽ thu nhận Sinh từ ngơi Thái cực, rồi xung
đột và hịa hiệp để tạo thành trời đất, vũ trụ và vạn vật. Cho nên theo Lão Tử, trong vạn vật đều có
Âm Dương cụ thể đều cõng một Âm và bồng một Dương. Do đó theo Đạo giáo, trước khi vũ trụ
được thành hình, trong khoảng khơng gian này là hư vơ bao la. Chỉ có duy nhất một chất sinh rất
huyền diệu, đó là Đạo. Đạo biến hóa tạo ra Âm Dương rồi Âm Dương xơ đẩy và hịa hiệp tạo ra
vũ trụ và vạn vật. Sau đó vạn vật được hóa sinh ra và tác động với nhau, có khi phồn thịnh với
nhau. Cuối cùng tan rã để trở về với trạng thái khơng vật khơng hình. Cũng tức là trở về nguồn
gốc của nó là Đạo.
+ Quan niệm về nhân sinh
Lão Tử quan niệm Đạo Trời không thân với ai mà cũng không sợ ai. Trời Đất đã sinh ra
muôn vật gồm cây cỏ, chim muông và nhân loại. Khi sinh ra không phải nhằm để chúng ăn thịt
nhau mà là các sinh vật đều khắc chế lẫn nhau, nuôi dưỡng lẫn nhau và bổ trợ nhau để cùng tồn
tại và phát triển. Đạo giáo không coi trọng thân xác mà coi trọng phần linh hồn Đạo giáo không
coi trọng thân xác mà coi trọng phần linh hồn Lão Tử không lấy cuộc đời làm lạc thú và ông xem
việc sống như một nghĩa vụ. Do đó khơng yếm thế, không lạc quan đồng thời xem cái chết là một
việc phục tùng theo lẽ tự nhiên. Lão Tử rất ghét những người ham mê danh lợi và quá coi trọng
cái xác thịt. Đây chỉ là cái xác thịt giả tạm khơng đáng q nó cịn là mối lo cho người ta. Thứ
đáng quý nhất là khi người ta đem thân ra phụng sự cho thiên hạ. Lão Tử khuyên người đời không
nên quá thiên về đời sống vật chất, phải biết tiết chế lòng ham muốn. Con người nên chú trọng
tinh thần và lấy cái tâm đè nén cái khí, thà rằng bỏ cái thân này mà giữ được Đạo và Đức cịn hơn.
Đạo giáo khơng bàn đến Thượng đế, Linh hồn, Thiên đàng hay Địa ngục. Nhưng có nói một cách
tổng quát về gốc tích của con người và vạn vật là từ Đạo mà ra rồi cuối cùng thì trở về là Đạo, hịa
vào Đạo và tu trong Đạo.
- Sự du nhập của Đạo giáo vào Việt Nam:
Sau ngày ra đời ở Trung Quốc, Đạo giáo đã theo chân các nhà cai trị, trí thức cùng thuật số,
phù thủy Trung Quốc bắt đầu du nhập vào nước ta. Khác với Nho giáo, khi sang nước ta, Đạo giáo
đã bắt gặp ngay những nét tương đồng trong tín ngưỡng bản địa của nhân dân ta, đó là tục sùng

bái thần linh, ma thuật phù phép… nên đã nhanh chóng phát triển, nhất là Đạo giáo phù thủy. Hơn
nữa, vốn mang trong mình tư tưởng phản kháng giai cấp thống trị, nên Đạo giáo đã được người
Việt Nam sử dụng làm vũ khí chống lại kẻ đơ hộ. Sách Tam quốc chí chép rằng: “Sĩ Nhiếp mắc
bệnh đã chết qua 3 ngày, có người tiên là Đổng Phụng cho một viên thuốc, lấy nước ngậm uống,
18


cầm má lay động, một lúc liền mở mắt, cất nhắc chân tay, sắc mặt dần bình phục”. Đổng Phụng
vốn quê ở Phúc Kiến và là người theo đạo Thần tiên.
Đối với Đạo giáo Thần tiên thì phải luyện thuốc trường sinh và phái Đạo giáo này cũng đã
sớm truyền bá sang Việt Nam, vì một lẽ là phần lớn các thần sa mà đạo sĩ Trung Quốc sử dụng để
luyện kim đan đều được lái buôn đem từ Giao Chỉ sang bán, nên các Đạo sĩ ở Trung Quốc thường
tìm cách vận động được sang làm quan tại Giao Châu để có điều kiện tìm hiểu châu sa thần sa.
Năm 42, Mã Viện hành quân đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, ngồi mục đích đánh dẹp cịn
có mục đích tìm kiếm các mỏ thần sa. Sau thắng lợi trên chiến trường Cấm Khê, ông ta đưa quân
vào Cửu Chân rồi tiến sâu xuống Nhật Nam và tìm thấy mỏ thần sa khổng lồ tại Cù Lao Chàm, ở
ngoài biển Quảng Nam (mỏ này khai thác đến hết đời Tống mới cạn, nhà sư Thích Đại Sán đến
Đàng Trong hồi thế kỷ XVIII cũng xác nhận Giao Chỉ có nhiều thần sa và mỏ thần sa Cù Lao
Chàm là mỏ lớn nhất).
- Đặc điểm của Đạo giáo ở Việt Nam:
Thời Đinh, Tiền Lê, Lý,
Trần, Hồ

Thời Hậu Lê, Mạc,
Lê Trung Hưng, Nguyễn

Thời Pháp thuộc

+ Sau ngày đất nước độc lập, bên
cạnh Phật giáo, các vua đều coi

trọng vai trò của Đạo giáo trong
đời sống tinh thần của dân tộc. Các
đạo sĩ được nhà nước phong kiến

+ Đến thời Lê sơ, cùng với
Phật giáo, Đạo giáo bị hạn
chế. Năm 1427, Lê Lợi ra lệnh
cấm những “kẻ xưng là đồng
cốt, đạo sĩ, mượn tiếng ma

+ Đến thời Pháp thc, để đối
phó với kẻ địch có nhiều ưu
thế về súng đạn, nhiều cuộc
khởi nghĩa đã tích cực sử dụng
ma thuật phù thủy làm vũ khí

coi trọng chẳng kém gì tăng sư.
Các vua Đinh, Lê, Lý đều chọn cả
tăng sư và đạo sĩ vào triều làm cố
vấn chính trị cho mình, bên cạnh
tăng quan có cả đạo quan. Nhà
Đinh đã đặt chức Tăng lục đạo sĩ
làm cố vấn cho nhà vua. Vua Đinh
Tiên Hồng từng “lấy lễ thầy trị”
để tiếp pháp sư Văn Du Tường.

quỷ, thánh thần gieo rắc
hoang mang, mê hoặc lòng
người”. Tuy vậy, những người
hành nghề Đạo giáo vẫn tiếp

tục lén lút hoạt động. Năm
1461, vua Lê Thánh Tông ra
sắc chỉ “Các chùa qn mà
khơng có ngạch cũ thì khơng
được làm mới”. Mặc dù vậy,

tinh thần và tập hợp quần
chúng như: khởi nghĩa Mạc
Đĩnh Phúc (Bắc Bộ), khởi
nghĩa Võ Trứ và Trần Cao
Vân (Trung Kỳ), nhất là
phong trào Hội kín (Nam Kỳ)
lôi cuốn hàng vạn người tham
gia. Đặc biệt, để cổ vũ tinh
thần yêu nước và tập hợp lực

Các đạo sĩ được nhà nước phong
cấp bậc. Trong triều Tiền Lê, các
đạo sĩ cũng là cố vấn của nhà vua.
+ Năm 1010, khi mới lên ngôi, vua
Lý Thái Tổ đã ban y phục cho các
nhà sư và đạo sĩ. Năm 1027, chỉ
một tháng sau khi lên ngôi, vua Lý
Thái Tông ra lệnh đặt các chức bậc
của tăng, đạo… Dưới triều Lý, bên

cũng có lúc nhà nước cần đến
Đạo giáo, như những khi có
nhật thực, nguyệt thực, vua Lê
Thái Tơng thường sai Thái sư

Bùi Thị Hạnh dùng bí thuật để
trấn yểm giải trừ; hoặc dưới
thời vua Lê Thánh Tông, vào
năm 1476 vua sai các đạo sĩ
cúng trừ sâu lúa… Tuy nhiên,

lượng chống Pháp, các sĩ phu
Việt Nam cùng nhau tổ chức
lập thiện đàn cầu tiên để hỏi về
cơ hội, thời thế, cát hung,
thống nhất ý chí nổi dậy.
+ Nhiều đàn phụ tiên nổi tiếng
lúc bấy giờ như đền Ngọc Sơn
(Hà Nội), đền Tản Viên (Sơn
Tây), đền Đào Xá (Hưng

cạnh việc xây dựng chùa chiền, những trường hợp như vậy Yên). Nhiều đàn cầu tiên ở
triều đình cịn nhiều lần bỏ tiền xây khơng nhiều, nhìn chung Đạo Nam Bộ đã là một trong
19


dựng các đền điện, đạo quán. Một giáo bị hạn chế nghiêm ngặt. những tiền đề dẫn đến sự hình
số đạo cung, đạo quán được xây
dựng như cung Thái Thanh, cung
Cảnh Linh, quán Ngũ Nhạc…
Dưới thời vua Lý Anh Tông, nhà
vua cho mở khoa thi Tam giáo để
tuyển chọn những người có
kiến thức về Đạo học ra giúp vua
về đường trị nước. Trên cơ sở tinh

thần “Tam giáo 56 đồng nguyên”

+ Dưới triều Mạc, cùng với
chủ trương cởi mở về tư
tưởng, Đạo giáo được hồi
phục cùng với tinh thần “Tam
giáo đồng nguyên”. Do đó,
nhiều đạo quán được trùng tu
và xây mới như quán Linh
Tiên, quán Tiên Phúc… Sang
thời Lê Trung hưng, nhiều

thành đạo Cao Đài.
+ Đến đầu thế kỷ XX, khi các
học thuyết đua nhau truyền bá
ở Việt Nam thì Đạo giáo cũng
muốn tuyên truyền cho học
thuyết của mình. Vì vậy, vào
đầu thập kỷ 30 đã xuất hiện
một số sách Đạo giáo như
sách: Đạo giáo – Chu Tử

của thời Lý đã tạo điều kiện cho sự
thâm nhập giữa Đạo giáo với Phật
giáo và cả Nho giáo.
+ Đến thời nhà Trần, năm 1244,
vua Trần thi hành chính sách

đạo quán khác cũng được tiếp (1933), Toàn chân triết –
tục trùng tu và xây dựng như Nguyễn Duy Cần (1936)…

quán Trấn Vũ, quán Bích
Câu…
+ Chán ngán trước thực trạng

phong chức Tả nhai cho những đạo
sĩ thông thạo Đạo giáo. Phùng Tá
Khang được phong chức ấy. Tuy
không tham gia hàng ngũ quan lại
trong triều, nhưng như vậy cũng

xã hội lúc bấy giờ, nhiều Nho
sĩ đến với Lão – Trang và Đạo
giáo, thực hành thuật số, tu
tiên luyện đan như Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ,

cho thấy nhà Trần coi trọng Đạo
giáo. Dù là tín đồ của Phật giáo,
nhưng năm 1248 vua Trần Thái
Tông đã sai các nhà phong thủy đi
xem khắp nơi núi sông trong nước,
chỗ nào có vượng khí đế vương thì
dùng phép thuật trấn yểm.
+ Tuy nhiên, bên cạnh việc sử
dụng Đạo giáo, các triều đình

Nguyễn Thiếp, Phan Huy
Ích…
+ Dưới triều Nguyễn, Đạo
giáo lại bị hạn chế, bị kiểm

sốt, song nó vẫn tiếp tục tồn
tại và tìm cách phát triển.
Trong dân gian, nó biến thành
các phong trào tín ngưỡng pha
màu mê tín dị đoan như các

phong kiến cũng coi Đạo giáo (đặc
biệt đối với Đạo giáo phù thủy) là
tà đạo. Sở dĩ như vậy là vì Đạo giáo
dựa trên cơ sở tư tưởng “vơ vi” của
Lão – Trang, nên từ trong bản chất
nó đã mang mầm tư tưởng phản
kháng giai cấp thống trị.

thuật phù thủy, trừ tà, lên
đồng… Trong trí thức nó biến
thành thái độ sống nhàn tản,
phóng khống, tiêu biểu là
Nguyễn Cơng Trứ, Cao Bá
Quát…

Giảng viên giảng dạy môn học

Người soạn thảo tài liệu, tác giả

Nhóm Giảng viên khoa Kiến thức cơ bản

Nguyễn Linh – khóa 60
Hà Nội, ngày 29 tháng 12 năm 2023
20




×