Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Lịch sử văn minh thế giới 2023

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (625.31 KB, 25 trang )

LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
Câu 1: Nêu đặc điểm nghệ thuật Ai Cập cổ đại? Trình bày hiểu biết về Kim tự tháp?
* Đặc điểm nghệ thuật Ai Cập cổ đại:
- Chữ viết, văn học:
Về chữ viết: Khoảng hơn 3000 năm TCN, người Ai Cập cổ đại đã sáng tạo ra chữ tượng
hình. Muốn chỉ một vật gì thì họ vẽ những nét tiêu biểu của sự vật đó. Để diễn tả những khái niệm
trừu tượng thì họ mượn ý. Thí dụ để diễn tả trạng thái khát thì họ vẽ ba làn sóng nước và cái đầu
bị đang cúi xuống; để nói lên sự cơng bằng thì họ vẽ lơng chim đà điểu (vì lơng đà điểu hầu như
dài bằng nhau). Từ chữ tượng hình, sau này người Ai Cập cổ đại đã hình thành ra hệ thống 24 chữ
cái. Vào thiên niên kỉ II TCN, người Híchxốt đã học cách viết của người Ai Cập để ghi lại các
ngơn ngữ của mình. Về sau này, loại chữ viết ấy lại ít nhiều ảnh hưởng tới người Phênixi và người
Phênixi đã sáng tạo ra vần chữ cái A, B... Những chữ tượng hình của người Ai Cập được khắc trên
đá, viết trên da, nhưng nhiều nhất là được viết trên vỏ cây sậy papyrus. Đây là một loại “giấy” cổ
xưa nhất, do vậy ngôn ngữ nhiều nước trên thế giới, giấy được gọi là papes, papier. Năm 1822,
một nhà ngơn ngữ học người Pháp Sampơliơng (Champollion) đã tìm cách đọc được thứ chữ này.
Về văn học: những tác phẩm tiêu biểu cịn sót lại như: Truyện hai anh em, Nói Thật và Nói
Láo, Đối thoại của một người thất vọng với linh hồn của mình, Người nơng phu biết nói những
điều hay...
- Tơn giáo:
Người Ai Cập cổ đại theo đa thần giáo, họ thờ rất nhiều thần. Ban đầu, mỗi vùng thờ mỗi vị
thần riêng của mình, chủ yếu là những vị thần tự nhiên. Đến thời kì thống nhất quốc gia, bên cạnh
những vị thần riêng của mỗi địa phương cịn có các vị thần chung như thần Mặt trời (Ra), thần
sông Nin (Osiris).
Người Ai Cập cổ tin rằng con người có hai phần: hồn và xác. Khi con người chết đi, linh
hồn thốt ra ngồi nhưng có thể một lúc nào đó lại tìm về nơi xác (Họ tin rằng như khi bị ngất,
hồn thoát ra ngồi tạm thời). Vì vậy những người giàu có tìm mọi cách để giữ gìn thể xác. Kĩ thuật
ướp xác vì vậy cũng rất phát triển.
- Kiến trúc điêu khắc:
Người Ai Cập cổ đại đã xây dựng rất nhiều đền đài, cung điện, nhưng nổi bật nhất phải kể
đến là các kim tự tháp hùng vĩ, vĩnh cửu. Người thiết kế ra Kim tự tháp đầu tiên để làm nơi yên
nghỉ cho các pharaon là Imhotép. Người ta đã phát hiện ra khoảng 70 Kim tự tháp lớn nhỏ khác


nhau trong đó có 3 Kim tự tháp nổi tiếng nằm ở gần thủ đô Cairo. Lớn nhất là Kim tự tháp Kêôp
(Kheops) cao tới 146m, đáy hinh vuông, mỗi cạnh tới 230m. Đã mấy ngàn năm qua các Kim tự
tháp vẫn sừng sững với thời gian. Vì vậy người Ai Cập có câu “Tất cả mọi vật đều sợ thời gian,
nhưng riêng thời gian phải nghiêng mình trước Kim tự tháp”.
Ngoài việc xây dựng các lăng mộ, người Ai Cập cổ còn để lại ấn tượng cho đời sau qua các
cơng trình điêu khắc. Đặc biệt nhất là tượng Nhân Sư (Sphinx) hùng vĩ ở gần Kim tự tháp
Khephren. Bức tượng mình sư tử với gương mặt Khephren cao hơn 20m này có lẽ muốn thể hiện
Khephren là chúa tể với trí khơn của con người và sức mạnh của sư tử.
1


- Khoa học tự nhiên:
Về thiên văn: người Ai Cập cổ đã vẽ được bản đồ sao, họ đã xác định 12 cung hoàng đạo và
sao Thuỷ, Kim, Hoả, Mộc, Thổ. Người Ai Cập cổ làm ra lịch dựa vào sự quan sát sao Lang (Sirius).
Một năm của họ có 365 ngày, đó là khoảng cách giữa hai lần họ thấy sao Lang xuất hiện đúng
đường chân trời. Họ chia một năm làm 3 mùa, mỗi mùa có 4 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. Năm
ngày cịn lại được xếp vào cuối năm làm ngày lễ. Để chia thời gian trong ngày, họ đã chế ra đồng
hồ mặt trời và đồng hồ nước.
Về toán học: do yêu cầu làm thuỷ lợi và xây dựng nên kiến thức toán học của người Ai Cập
cổ cũng sớm được chú ý phát triển. Họ dùng hệ đếm cơ số 10. Họ rất thành thạo các phép tính
cộng trừ, cịn khi cần nhân và chia thì thực hiện bằng cách cộng trừ nhiều lần.
Về hình học: họ đã tính được diện tích của các hình hình học đơn giản; đã biết trong một tam
giác vng thì bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh góc vng. Pi của họ tính
= 3,14.
Về Y học: người Ai Cập cổ đã chia ra các chuyên khoa như khoa nội, ngoại, mắt, răng, dạ
dày... Họ đã biết giải phẫu và chữa bệnh bằng thảo mộc.
* Giới thiệu về Kim tự tháp:
Kim tự tháp là những ngôi mộ của các vua Ai Cập thuộc vương triều III và vương triều IV
thời Cổ vương quốc. Các ngôi mộ ấy được xây ở vùng sa mạc ở Tây Nam Cairô ngày nay.
Kim tự tháp được bắt đầu xây dựng từ thời vua Giêde (Djeser), vua đầu tiên của vương triều

III, vương triều đầu tiên của thời Cổ vương quốc. Đây là một ngơi tháp có bậc cao 60m, đáy là
một hình chữ nhật dài 120m, rộng 106m. Xung quanh tháp Giêde có đền thờ và mộ những thành
viên trong gia đình và những người thân cận. Tồn bộ khu lăng này được bao bọc bởi một vòng
tường xây bằng đá vơi. Thời kì Kim tự tháp được xây dựng nhiều nhất và đồ sộ nhất là thời vương
triều IV. Vua đầu tiên của vương triều này là Xnêphru, đã xây cho mình hai Kim tự tháp, cái thứ
nhất cao 36,5m; cái thứ hai cao 99m. Các vua kế tiếp như Kêốp, Kêphren, Mikêrin đều xây dựng
những Kim tự tháp rất lớn: Kim tự tháp Kêốp (tên Ai Cập) là Hufu cao 146,5m; Kim tự tháp
Kêphren cao 137m; Kim tự tháp Mikêrin cao 66m.
Trong số các Kim tự tháp ở Ai Cập cao lớn nhất, tiêu biểu nhất là Kim tự tháp của Kêốp,
con của Xnêphru. Kim tự tháp Kêốp xây thành hình thấp chóp, đáy là một hình vng mỗi cạnh
230m, bốn mặt là những hình tam giác ngoảnh về bốn hướng đơng, tây, nam, bắc. Tồn bộ Kim
tự tháp được xây bằng những tảng đá vôi mài nhẵn, mỗi tảng nặng 2,5 tấn và có tảng nặng 30 tấn.
Để xây Kim tự tháp này, người ta đã dùng đến 2300000 tảng đá với một khối lượng là 2408000m3.
Phương pháp xây Kim tự tháp là ghép các tảng đá được mài nhẵn với nhau chứ không dùng vữa,
thế mà các mạch ghép kín đến mức một lá kim loại mỏng cũng khơng thể lách qua được. Ở mặt
phía Bắc của Kim tự tháp Kêốp, cách mặt đất hơn 13m, có một cái cửa thơng với hầm mộ, Kim tự
tháp Kêốp có hai hầm mộ: một hầm mộ nằm ở sâu 30m dưới lòng đất và một hầm mộ ở giữa Kim
tự tháp cách mặt đất 40m. Người ta cho rằng theo thiết kế ban đầu, hầm mộ ở sâu dưới đất, nhưng
khi đã làm xong thì Kêốp thay đổi ý kiến, bắt phải xây ở trên cao. Hơn 2000 năm sau, nhà sử học
Hy Lạp Hêrôđôt đến Ai Cập còn được nghe cư dân ở đây kể lại quá trình xây Kim tự tháp. Hêrơdơt
cho biết, sau khi quyết định xây Kim tự tháp, Kêốp đã huy động toàn thể nhân dân lao động trong
2


nước đến công trường làm việc. Họ được tổ chức thành từng đội gần 100000 người, cứ 3 tháng
thì thay phiên một lần. Kim tự tháp được xây ở tả ngạn sông Nin, nhưng nơi khai thác đá lại ở hữu
ngạn. Vì vậy, người ta phải dùng thuyền chở đá từ nơi khai thác đến xây Kim tự tháp. Từ bến đá
đến khu lồng mộ, người ta phải xây một con đường bằng những tảng đá mài nhẵn, dài hơn 900m,
rộng 18m và chỗ cao nhất là 15m. Chỉ riêng việc xây con đường này đã mất 10 năm. Từ đây, người
ta để đá lên xe trượt rồi dùng người hoặc bị kéo để chở đá đến cơng trường. Khơng kể thời gian

làm đường và hầm mộ dưới đất, việc xây Kim tự tháp đã kéo dài 20 năm mới hồn thành.
Việc xây dựng Kim tự tháp, như Hêrơđơt nói, "đã đem lại cho nhân dân Ai Cập cổ đại không
biết bao nhiêu tai họa". Nhưng nhân dân Ai Cập cổ đại, bằng bàn tay và khối óc của mình, đã để
lại cho nền văn minh nhân loại những công trình kiến trúc vơ giá.
Trải qua gần 5000 năm, các Kim tự tháp hùng vĩ vẫn vững ở vùng sa mạc Ai Cập bất chấp
thời gian và mưa nắng. Và cũng chính vì vậy, từ thời cổ đại, người ta đã xếp Kim tự tháp Kêốp là
kì quan số một trong bảy kì quan thế giới. Đến nay, trong bảy kì quan ấy, cũng chỉ cịn lại mỗi
Kim tự tháp mà thơi.
Câu 2: Trình bày hiểu biết về bộ luật Hammurabi của nền văn minh Lưỡng Hà cổ đại?
* Nội dung chính:
Về cơ cấu, bộ luật Hammurabi bao gồm gần 300 phần được cấu kết kỹ càng hơn bất kỳ bộ
luật nào trước đó mà chúng ta được biết, bao gồm ba phần chính: phần mở đầu, phần nội dung và
phần kết luận.
+ Phần mở đầu của bộ luật khẳng định rằng đất nước Babilon là một vương quốc do các thần
linh tạo ra. Và chính các thần linh này đã trao đất nước cho vua Hammurabi để thống trị, làm cho
đất nước giàu có, nhân dân no đủ. Hammurabi kể cơng lao của mình đối với đất nước: “vì hạnh
phúc của loài người, thần Anu (thần Trời) và thần Enlin (thần Đất) đã ra lệnh cho trẫm, Hammurabi
một vị vua quang minh và ngoan đạo, phát huy chính nghĩa ở đời, diệt trừ những kẻ gian ác không
tuân theo pháp luật, làm cho kẻ mạnh không hà hiếp người yếu, làm cho trẫm giống như thần
Samát (thần Mặt Trời, ánh sáng và xét xử), soi đến dân đen, tỏ ánh sáng khắp mặt đất”. Vượt ra
khỏi hạn chế lịch sử, giá trị xã hội của bộ luật được thể hiện ngay ở mục đích ban hành luật “để
cho người mạnh không hà hiếp kẻ yếu, để cho những người cơ quả có chỗ nương tựa ở thành
Babilon, nơi mà thủ lĩnh của nó được thần Anu và thần Enlin khen ngợi, ở đền Exajin mà nền
móng của nó lâu bền cùng với trời đất, để cho tòa án trong nước tiện việc xét xử, để cho sự tuyên
án trong nước tiện việc quyết định, để cho những kẻ bị thiệt thịi được trình bày chính nghĩa, trẫm
khắc những lời vàng ngọc của trẫm lên cột đá của trẫm trước bức tượng của trẫm cũng tức là bức
tượng của một vị vua công bằng”. Đây là giá trị nhân văn cao cả của bộ luật mà không phải tất cả
các bộ luật thời cổ đại ở phương Đơng đều có được.
+ Phần nội dung chứa đựng 282 điều luật – đây là phần chủ yếu của bộ luật. Nội dung của
bộ luật chưa phân chia thành từng ngành luật riêng biệt, nhưng tác giả của bộ luật đã có ý thức sắp

xếp các điều khoản ra từng nhóm riêng theo nội dung của chúng. Phần nội dung, bộ luật tập trung
điều chỉnh bốn lĩnh vực chủ yếu là dân sự, hình sự, hơn nhân gia đình và tố tụng nhưng khơng có
sự tách rời giữa các lĩnh vực. Các qui phạm của luật Hammurabi cũng giống các bộ luật khác ở
phương Đơng là mang tính hàm hỗn, các điều luật đều kèm theo chế tài. Ở mỗi nội dung của điều
3


luật đều chứa đựng những điểm tiến bộ và hạn chế so với luật pháp của các quốc gia cổ đại khác.
+ Trong phần kết luận, Hammurabi đề cao công lao của mình trước nhân dân, kêu gọi những
ơng vua kế tục đền ơn và thực hiện những điều luật của Hammurabi: “Đây là pháp luật do đức vua
Hammurabi bách thắng đặt ra để đem lại hạnh phúc cho chân chính và đặt nền thống trị nhân từ
trong nước”. “Từ nay đến ngàn đời sau, các vua trong nước phải tuân theo những lời chính nghĩa
của trẫm đã khắc trên cột đá của trẫm, không được thay đổi việc xét xử do trẫm đã quyết
định”. Đồng thời, Hammurabi tuyên bố sẽ trừng trị tất cả những ai xem thường và có ý định hủy
bỏ bộ luật. Điều đó phần nào chứng tỏ vai trò to lớn của bộ luật này đối với sự phát triển toàn thịnh
của đất nước Lưỡng Hà thời Babylonia.
* Đánh giá về bộ luật:
- Ưu điểm:
+ Về dân sự:
Những điểm tiến bộ, đặc sắc nhất của Bộ luật này chính là các quy định về dân sự. Bộ luật
đã đặc biệt chú ý điều chỉnh quan hệ hợp đồng, vì đây là quan hệ phổ biến ở xã hội Lưỡng Hà cổ
đại, có nhiều quy định khơng những tiến bộ về nội dung, mà cịn chặt chẽ về kĩ thuật lập pháp. Về
chế định hợp đồng, Luật quy định ba điều kiện bắt buộc đối với hợp đồng mua bán:

Thứ nhất, người bán phải là chủ thực sự,

Thứ hai, tài sản phải có giá trị sử dụng,

Thứ ba, phải có người làm chứng.
Bộ luật cũng quy định các điều khoản lĩnh canh ruộng đất. Đối với ruộng, người lĩnh canh

nhận mỗi mùa từ 1/3 - 1/2 số sản phẩm thu hoạch. Đối với vườn được nhận 2/3 số sản phẩm thu
hoạch. Điểm tiến bộ hơn nữa là luật đã quy định mức lãi suất đối với hợp đồng vay nợ. Cụ thể luật
quy định mức lãi suất đối với tiền là 1/5, vay thóc là 1/3.
Về chế định thừa kế tài sản, Luật Hammurabi phân làm hai loại thừa kế: thừa kế theo pháp
luật và thừa kế theo di chúc.
Thừa kế theo pháp luật: Nếu người cho thừa kế khơng để lại di chúc thì tài sản được chuyển
đến cho những người có quyền đối với tài sản đó theo luật định. Thời gian đầu tài sản tập trung ở
dòng họ và dần dần được chuyển về gia đình có quyền thừa kế và thành tài sản chung của gia đình.
Đó là cách thừa kế theo pháp luật.
Thừa kế theo di chúc: Bộ luật đã hạn chế quyền tự do của người viết di chúc như quy định
người cha không được tước quyền thừa kế của con trai nếu người con mới phạm lỗi lần đầu và lỗi
không nghiêm trọng. Con trai, con gái đều được hưởng quyền thừa kế ngang nhau.
+ Về hôn nhân gia đình:
Theo xu hướng củng cố địa vị của người chồng, người cha nên trách nhiệm và nghĩa vụ
thuộc về người vợ và con cái. Nếu khơng có con, người chồng có quyền ly dị, bán vợ hoặc lấy vợ
lẽ. Nếu bắt được vợ ngoại tình thì chồng có quyền trói vợ và nhân tình của vợ ném xuống sơng
cho chết. Ngược lại nếu vợ bắt được chồng ngoại tình, chỉ có quyền ly dị mà thơi. Điểm tiến bộ là
đã có quy định kết hơn phải có giấy tờ, ở mức độ nào đó có quy định bảo vệ người phụ nữ (người
vợ có quyền ly hơn khi người chồng đi khỏi nhà khơng có lý do, chồng có quan hệ ngoại tình hay
vu cáo vợ ngoại tình). Có một quy định rất nhân đạo nếu đặt trong hoàn cảnh lúc bấy giờ là: "Người
4


chồng không được bỏ vợ khi biết người vợ mắc bệnh phong hủi."
+ Về hình sự:
Lĩnh vực Hình sự là lĩnh vực thể hiện rõ nhất tính giai cấp và sự bất bình đẳng. Tàn dư của
xã hội nguyên thủy rất rõ là nguyên tắc trả thù ngang bằng, thậm chí cịn cho phép trừng trị cả
những người khơng liên quan đến tội phạm. Nguyên tắc này chỉ căn cứ vào hậu quả xảy ra trên
thực tế để áp dụng trách nhiệm pháp lý, chứ không xét trên phương diện mức độ lỗi và chủ thể
thực hiện hành vi vi phạm. Thí dụ, Điều 38 quy định: " Nếu thợ xây nhà mà xây không đảm bảo,

nhà đổ, chủ nhà chết thì người thợ xây bị giết." hoặc Điều 39: "Nếu nhà đổ, con của người chủ nhà
chết thì con của người thợ xây cũng phải chết ".
+ Về tố tụng:
Đó là thủ tục giải quyết các vụ án. Bộ luật đã có nhiều quy định về thủ tục bắt giữ, giam
cầm, quy định những nguyên tắc khi xét xử như xét xử phải công khai, phải coi trọng chứng cứ,
phán quyết phải được thi hành nghiêm minh... Có hai quy định đặc thù về tố tụng của Bộ luật này:

Về trách nhiệm của thẩm phán: "Nếu thẩm phán xử một vụ kiện mà ra phán quyết
bằng văn bản, nếu sau đó phát hiện lỗi trong văn bản là do lỗi của thẩm phán, thẩm phán sẽ phải
trả 12 lần giá trị tiền phạt mà ông ta đã yêu cầu bồi thường trong vụ kiện, đồng thời ông ta sẽ bị
buộc phải rời khỏi ghế thẩm phán vĩnh viễn và khơng bao giờ có thể trở thành thẩm phán lần nữa".
Quy định về trách nhiệm của thẩm phán trong việc xét xử như quy định trên trong một xã hội thể
hiện tính giai cấp sâu sắc quả thật là một sự tiến bộ. Qua đó cho thấy, thời kỳ này rất coi trọng
công tác xét xử, rất coi trọng trách nhiệm xét xử công bằng của thẩm phán. Sử sách đã ca ngợi
rằng ở Lưỡng Hà cổ đại, tinh thần thượng tơn luật pháp và thói quen cầu viện cơng lý đã ăn sâu
vào tác phong sinh hoạt của người dân nơi đây.

Về hình thức xét xử: Nếu một người kiện một người khác, bị đơn sẽ phải đi đến một
dịng sơng và nhảy xuống, nếu anh ta chìm, bị dòng nước cuốn đi, nguyên đơn sẽ sở hữu nhà của
bị đơn. Nhưng ngược lại, nếu dịng sơng chứng minh rằng bị đơn là khơng có tội, tức là anh ta cịn
sống sót, thì ngun đơn sẽ bị giết chết, và bị đơn sẽ sở hữu nhà của nguyên đơn".
- Nhược điểm:
Bên cạnh những tiến bộ, đúng đắn, về hình thức bộ luật cịn có một số hạn chế nhất định
như: Luật chưa có tính khái qt cao, các quy định của luật chỉ là sự mô tả các hành vi cụ thể; Các
điều khoản thường được quy định dài dòng, các câu chữ trùng lặp với nhau; Đa số các điều khoản
của bộ luật đều liên quan đến hình luật, rất ít điều khoản quy định về các quan hệ dân sự hoặc nếu
có thì cũng bị hình sự hóa. Trong bộ luật này, chúng ta thấy hầu hết các tội đều quy về tội tử hình,
chưa tạo điều kiện cho những người phạm tội có cơ hội sửa chữa sai lầm và trở lại hồn lương.
Câu 3: Trình bày đặc điểm nghệ thuật Trung Quốc thời kỳ cổ - trung đại? Nêu hiểu
biết về Vạn Lý Trường Thành và Tử Cấm Thành?

* Đặc điểm nghệ thuật Trung Quốc thời kỳ cổ - trung đại:
Trung Quốc là một trong những nơi xuất hiện nền văn minh sớm thời cổ - trung đại. Văn
minh Trung Hoa thời cổ - trung đại có ảnh hưởng rất lớn tới các nước phương Đông.
- Chữ viết, văn học, sử học:
Chữ viết: Từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã có chữ Giáp cốt được viết trên mai rùa,
5


xương thú, được gọi là Giáp cốt văn. Qua quá trình biến đổi, từ Giáp cốt văn hình thành nên Thạch
cổ văn, Kim văn. Tới thời Tần, sau khi thống nhất Trung Quốc, chữ viết cũng được thống nhất
trong khuôn hình vng được gọi là chữ Tiểu triện.
Văn học: Kinh thi là tập thơ cổ nhất ở Trung Quốc do nhiều tác giả sáng tác thời Xuân-Thu,
được Khổng tử sưu tập và chỉnh lí. Kinh thi gồm có 3 phần: Phong, Nhã, Tụng. Thơ Đường là thời
kì đỉnh cao của nền thơ ca Trung Quốc. Trong hàng ngàn tác giả nổi bật lên ba nhà thơ lớn đó là
Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị. Tới thời Minh-Thanh, tiểu thuyết lại rất phát triển với các tác phẩm
tiêu biểu như: Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung, Thuỷ hử của Thi Nại Am, Tây du kí
của Ngơ Thừa Ân, Nho lâm ngoại sử của Ngơ Kính Tử, Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần...
trong đó Hồng lâu mộng được đánh giá là tiểu thuyết có giá trị nhất.
Sử học: Người Trung Hoa thời cổ rất có ý thức về biên soạn sử. Nhiều nước thời Xuân-Thu
đã đặt các quan chép sử. Trên cơ sở quyển sử nước Lỗ, Khổng Tử đã biên soạn ra sách Xuân Thu.
Tới thời Hán, Tư Mã Thiên là một nhà viết sử lớn đã để lại tác Phẩm Sử kí, chép lại lịch sử Trung
Quốc gần 3000 năm, từ thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ Đế. Tới thời Đơng Hán, có các tác phẩm
Hán thư của Ban Cố, Tam quốc chí của Trần Thọ, Hậu Hán thư của Phạm Diệp. Tới thời Minh Thanh, các bộ sử như Minh sử, Tứ khố tồn thư là những di sản văn hố đồ sộ của Trung Quốc.
- Khoa học tự nhiên và kĩ thuật:
Toán học: Người Trung Hoa đã sử dụng hệ đếm thập phân từ rất sớm. Thời Tây Hán đã xuất
hiện cuốn Chu bễ tốn kinh, trong sách đã có nói đến quan niệm về phân số, về quan hệ giữa 3
cạnh trong một tam giác vng. Thời Đơng Hán, đã có cuốn Cửu chương tốn thuật, trong sách
này đã nói đến khai căn bậc 2, căn bậc 3, phương trình bậc nhất, đã có cả khái niệm số âm, số
dương. Thời Nam - Bắc triều có một nhà tốn học nổi tiếng là Tổ Xung Chi, ơng đã tìm ra số Pi
xấp xỉ 3,14159265 – đây là một con số cực kì chính xác so với thế giới hồi đó.

Thiên văn học: Từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã vẽ được bản đồ sao có tới 800
vì sao. Họ đã xác định được chu kì chuyển động gần đúng của 120 vì sao. Từ đó họ đặt ra lịch Can
Chi. Thế kỉ IV TCN, Can Đức đã ghi chép về hiện tượng vết đen trên Mặt trời. Thế kỉ II, Trương
Hành đã chế ra dụng cụ để dự báo động đất. Năm 1230, Quách Thủ Kính (đời Nguyên) đã soạn ra
cuốn Thụ thời lịch, xác định một năm có 365,2425 ngày. Đây là một con số rất chính xác so với
các nhà thiên văn Châu Âu thế kỉ XIII.
Y dược học: Thời Chiến Quốc đã có sách Hồng đế nội kinh được coi là bộ sách kinh điển
của y học cổ truyền Trung Hoa. Thời Minh có cuốn Bản thảo cương mục của Lí Thời Trân. Cuốn
sách này được dịch ra chữ Latinh và được Darwin coi đây là bộ bách khoa về sinh vật của người
Trung Quốc thời đó. Đặc biệt là khoa châm cứu là một thành tựu độc đáo của y học Trung Quốc.
Kĩ thuật: Có 4 phát minh quan trọng về mặt kĩ thuật mà người Trung Hoa đã đóng góp cho
nhân loại, đó là giấy, thuốc súng, la bàn và nghề in. Giấy được chế ra vào khoảng năm 105 do Thái
Luân. Nghề in bằng những chữ rời đã được Tất Thăng sáng tạo vào đời Tuỳ. Đồ sứ cũng có nguồn
gốc từ Trung Hoa. Từ thế kỉ VI, họ đã chế ra diêm quẹt để tạo ra lửa cho tiện dụng.
- Hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc:
Hội hoạ: Hội hoạ Trung Quốc có lịch sử 5000 - 6000 năm với các loại hình: bạch hoạ, bản
hoạ, bích hoạ. Đặc biệt là nghệ thuật vẽ tranh thuỷ mạc, có ảnh hưởng nhiều tới các nước ở Châu
6


Á. Cuốn Lục pháp luận của Tạ Hách đã tổng kết những kinh nghiệm hội hoạ từ đời Hán đến đời
Tuỳ. Điêu khắc ở Trung Quốc cũng phân thành các ngành riêng như: Ngọc điêu, thạch điêu, mộc
điêu. Những tác phẩm nổi tiếng như cặp tượng Tần ngẫu đời Tần, tượng Lạc sơn đại Phật đời Tây
Hán (pho tượng cao nhất thế giới), tượng Phật nghìn mắt nghìn tay.
Kiến trúc, điêu khắc: Cũng có những cơng trình rất nổi tiếng như Vạn lí trường thành (tới
6700 km), Thành Tràng An, Cố cung, Tử cấm thành ở Bắc Kinh.
- Triết học, tư tưởng:
Thuyết Âm dương, Bát quái, Ngũ hành, Âm dương gia: Âm dương, bát quái, ngũ hành, là
những thuyết mà người Trung Quốc đã nêu ra từ thời cổ đại để giải thích thế giới. Họ cho rằng
trong vũ trụ ln tồn tại hai loại khí khơng nhìn thấy được xâm nhập vào trong mọi vật là âm và

dương (lưỡng nghi). Bát quái là 8 yếu tố tạo thành thế giới: Càn (trời), Khơn (đất), Chấn (sấm),
Tốn (gió), Khảm (nước), Ly (lửa), Cấn (núi), Đoài (hồ). Trong Bát quái, hai quẻ Càn, Khôn là
quan trọng nhất.
Ngũ hành là: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Đó là 5 nguyên tố tạo thành vạn vật. Các vật khác
nhau là do sự pha trộn, tỉ lệ khác nhau do tạo hoá sinh ra. Sau này, những người theo thuyết Âm
dương gia đã kết hợp thuyết Âm dương với Ngũ hành rồi vận dụng nó để giả thích các biến động
của lịch sử xã hội.
Về tư tưởng:
Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, ở Trung Quốc đã xuất hiện rất nhiều những nhà tư tưởng đưa
ra những lí thuyết để tổ chức xã hội và giải thích các vấn đề của cuộc sống (Bách gia tranh minh).
+ Nho gia: Đại biểu cho phái Nho gia là Khổng Tử. Nho gia đề cao chữ nhân, chủ trương lễ
trị, phản đối pháp trị. Nho gia đề cao Tam cương, Ngũ thường cùng với tư tưởng Chính danh định
phận và đề cao tư tưởng Thiên mệnh. Giá trị quan trọng nhất trong tư tưởng của Khổng Tử là về
giáo dục. Ông chủ trương dạy học cho tất cả mọi người. Tới thời Hán Vũ Đế (140-87 TCN), chấp
nhận đề nghị của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ Đế đã ra lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”,
Nho gia đã được đề cao một cách tuyệt đối và nâng lên thành Nho giáo.
+ Đạo gia: Đại biểu cho phái Đạo gia là Lão Tử và Trang Tử. Hai ông đã thể hiện tư tưởng
của mình qua hai tác phẩm Đạo đức kinh và Nam Hoa kinh. Theo Lão Tử, “Đạo” là cơ sở đầu tiên
của vũ trụ, có trước cả trời đất, nằm trong trời đất. Qui luật biến hố tự thân của mỗi sự vật ơng
gọi là “Đức”. Lão Tử cho rằng mọi vật sinh thành, phát triển và suy vong đều có mối liên hệ với
nhau. Tới thời Trang Tử, tư tưởng của phái Đạo gia mang nặng tính bng xi, xa lánh cuộc đời.
Họ cho rằng mọi hoạt động của con người đều không thể cưỡng lại “đạo trời”, từ đó sinh tư tưởng
an phận, lánh đời. Phái Đạo giáo sinh ra sau này khác hẳn Đạo gia, mặc dù có phái trong Đạo giáo
tơn Lão Tử làm “Thái thượng lão quân”. Hạt nhân cơ bản của Đạo giáo là tư tưởng thần tiên. Đạo
giáo cho rằng sống là một việc sung sướng nên họ trọng sinh, lạc sinh.
+ Pháp gia: Ngược hẳn với phái Nho gia, phái Pháp gia chủ trương “pháp trị”, coi nhẹ “lễ
trị”. Tiêu biểu cho phái Pháp gia là Hàn Phi Tử, một kẻ sĩ thời Tần Thuỷ Hoàng. Theo Hàn Phi
Tử, trị nước chỉ cần pháp luật nghiêm minh, rõ ràng, dễ hiểu với mọi người, khơng cần lễ nghĩa.
Ơng cho rằng trị nước cần nhất 3 điều:
• Pháp: đó là phải định ra được pháp luật nghiêm minh, rõ ràng, dễ hiểu, công bằng với mọi

7


người, khơng phân biệt đó là q tộc hay dân đen.
• Thế: Muốn thực thi pháp luật thì các bậc quân vương phải nắm vững quyền thế, không chia
xẻ cho kẻ khác.
• Thuật: đó là thuật dùng người. Thuật có 3 mặt: bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt. Thuật
bổ nhiệm là khi chọn quan lại chỉ căn cứ vào tài năng và lịng trung thành, khơng cần dịng dõi,
đức hạnh. Khảo hạch là phải kiểm tra công việc thường xun. Thưởng phạt thì chủ trương “ai có
cơng thì thưởng, ai có tội thì trừng phạt thật nặng, bất kể là quí tộc hay dân đen”, trọng thưởng,
trọng phạt.
+ Mặc gia: Người đề xướng là Mặc Tử (Khoảng giữa thế kỉ V TCN đến giữa thế kỉ IV TCN).
Hạt nhân tư tưởng triết học của Mặc gia là nhân và nghĩa. Mặc Tử còn là người chủ trương “ thủ
thực hư danh” (lấy thực đặt tên). Tư tưởng của phái Mặc gia đầy thiện chí nhưng cũng khơng ít ảo
tưởng. Từ đời Tần, Hán trở về sau, ảnh hưởng của phái Mặc gia hầu như khơng cịn đáng kể.
* Giới thiệu về Vạn Lý Trường Thành:
Vạn Lý Trường Thành là tên gọi chung cho nhiều thành lũy kéo dài hàng ngàn cây số từ
Đông sang Tây, được xây dựng bằng đất và đá từ thế kỷ 5 TCN cho tới thế kỷ 16, để bảo vệ Trung
Hoa khỏi những cuộc tấn công của người Hung Nô, Mông Cổ, Đột Quyết, và những bộ tộc du
mục khác đến từ những vùng hiện thuộc Mông Cổ và Mãn Châu. Một số đoạn tường thành được
xây dựng từ thế kỷ thứ 5 TCN, sau đó được Hồng đế đầu tiên của Trung Quốc là Tần Thủy
Hoàng ra lệnh nối lại và xây thêm từ năm 220 TCN và 200 TCN và hiện chỉ cịn sót lại ít di tích.
Vạn Lý Trường Thành nổi tiếng được tham quan nhiều hiện nay được xây dưới thời nhà Minh
(1368-1644).
Các mục đích khác của Vạn Lý Trường Thành bao gồm kiểm soát biên giới, cho phép áp đặt
thuế đối với hàng hóa vận chuyển theo con đường tơ lụa, quy định hoặc khuyến khích thương
mại và kiểm sốt xuất nhập cảnh. Hơn nữa, đặc điểm phịng thủ của Vạn Lý Trường Thành đã
được tăng cường bằng việc xây dựng các tháp canh, doanh trại quân đội, trạm đóng qn, báo hiệu
có giặc thơng qua các phương tiện khói hoặc lửa, và thực tế là con đường của Vạn Lý Trường
Thành cũng phục vụ như là một hành lang giao thông vận tải.

Một nghiên cứu khảo cổ chi tiết, sử dụng những công nghệ hiện đại, được công bố vào năm
2009 kết luận rằng Vạn Lý Trường Thành do nhà Minh xây dựng có chiều dài 8.850 km. Nó bao
gồm phần bức tường dài 6.259 km, phần hào dài 359 km, và phần lá chắn tự nhiên như đồi, sông
dài 2.232 km. Một nghiên cứu khảo cổ chi tiết khác vào năm 2012 kết luận Vạn Lý Trường Thành
có chiều dài 21.196 km. Chiều cao trung bình tường thành là 7m so với mặt đất, mặt trên của
trường thành rộng trung bình 5-6m. Vạn Lý Trường Thành bắt đầu từ Sơn Hải quan trên bờ Biển
Bột Hải ở phía đơng, tại giới hạn giữa Trung Quốc bản thổ ("đất Trung Quốc gốc") và Mãn
Châu đến phần phía đơng nam Khu tự trị người Duy Ngô Nhĩ tại Tân Cương .
Vạn Lý Trường Thành tọa lạc tại phía Bắc Trung Quốc, dài tới 21196,18 km2, đã tồn tại
được hơn 2.300 năm theo suốt chiều dài lịch sử Trung Quốc từ thời phong kiến đến nay.
Suốt 2.300 năm Vạn Lý Trường Thành qua các triều đại khác nhau lại được xây dựng ở các
khu vực khác nhau để bảo vệ ranh giới lãnh thổ. Và hoàng đế nhà Chu thời tiền Hoa (770 - 221
TCN) là người đầu tiên đặt nền móng cho cơng trình vĩ đại này.
8


Tiếp đến là triều đại nhà Tần (221 - 2017 TCN) hoàng đế Tần đầu tiên đã nối các phần Vạn
Lý Trường Thành trên biên giới phía Bắc lại với nhau. Triều đại nhà Hán (206 TCN - 220 SCN)
Han Wudi đã mở rộng Vạn Lý Trường Thành đến Ngọc môn quan và xa hơn nữa. Nhà Tống (1368
- 1644) tướng Qi Giguang tiếp tục cho xây dựng cơng trình này bao khắp thủ đô Bắc Kinh.
Vạn Lý Trường Thành khơng chỉ là bức tường, đó là một hệ thống phòng thủ quân sự kết
hợp với tháp canh để giám sát, pháo đài cho các điểm chỉ huy và hậu cần, tháp báo hiệu để liên
lạc. Trong triều đại nhà Minh (1368-1644), Vạn Lý Trường Thành đã được xây dựng lại để trở
nên mạnh mẽ hơn và tinh vi hơn, nhờ kỹ thuật xây dựng đòi hỏi yêu cầu cao hơn đang phát triển.
+ Thân tường: Vạn Lý Trường Thành thường có những khối cao 1,8 mét với những lỗ hổng,
và những bức tường cao 1,2 m.
+ Các tháp canh: Mỗi bức tường lớn 500 m hoặc thấp hơn (1.640 feet) có một tháp bên cạnh
cho phép những người phịng thủ bắn mũi tên vào những kẻ tấn công tiến gần đến bức tường.
Pháo đài được xây dựng tại các điểm truy cập quan trọng, dễ bị tấn công, như Pháo đài
Shanhai Pass, Pháo đài Juyong Pass và Pháo đài Jiayu Pass. Trên pháo đài có nhiều cửa và cửa

vịm. Các cổng vào pháo đài là những cơng trình mạnh và bất khả xâm phạm nhất trên Great Wall.
Vạn Lý Trường Thành là một biểu tượng của Trung Quốc, không chỉ văn hóa Trung Quốc
về niềm tự hào dân tộc, về tinh thần chống giặc ngoại xâm mà còn là kiến trúc và sự sáng tạo của
Trung Quốc. Trong quá trình xây dựng Vạn Lý Trường Thành, có rất nhiều huyền thoại ly kỳ và
thú vị, chẳng hạn như Meng Jiang Nü đang khóc lóc trên Vạn Lý Trường Thành, một câu chuyện
tình buồn nhưng lãng mạn trong triều Tần.
Vạn Lý Trường Thành là một trong bảy kỳ quan mới của thế giới. "Great Human Feat in
History": Vạn Lý Trường Thành là dự án xây dựng với thời gian dài nhất và chi phí lớn nhất, sự
cống hiến từ cuộc sống con người, máu, mồ hơi và nước mắt. Nó xứng đáng nằm trong "Bảy kỳ
quan mới của thế giới" và Di sản Thế giới của UNESCO.
* Giới thiệu về Tử Cấm Thành:
Cố Cung Bắc Kinh hay còn gọi là Tử Cấm Thành: là cung điện của 24 vị hoàng đế trong
triều đại nhà Minh và Nhà Thanh. Tử Cấm Thành được xây dựng vào năm thứ tư đời Minh Thành
Tổ Chu Đệ. Diện tích xây dựng là 150000 m2. Đây là kiến trúc kiểu cung điện lớn nhất hiện có
trên thế giới.
Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh là lơ đơn vị bảo vệ di tích văn hóa trọng điểm quốc gia đầu tiên
và lô du lịch cấp quốc gia cấp 5A đầu tiên. Nó được đưa vào danh sách di sản văn hóa thế giới.
Tử Cấm Thành được biết đến là cung điện của các triều đại từ thời nhà Minh đến nhà Thanh.
Nơi này được xây dựng trong diện tích 720 m2, bao gồm 800 cung và hơn 8700 phịng. Đặc biệt,
Tử Cấm Thành được cơng nhận là Di sản thế giới tại Trung Quốc vào năm 1987 với cái tên Cung
điện triều Minh và triều Thanh. Tử Cấm Thành được xây dựng với khn viên hình chữ nhật chiều
bắc-nam dài 961 m và đông-tây dài 753 m. Tiến sâu vào bên trong trong Tử Cấm Thành bạn sẽ
được chiêm ngưỡng những kiến trúc cực kỳ ấn tượng. Nó bao gồm 980 kiến trúc nhà ở , được bao
bọc bởi tường cao 7,9 m và dày 6 m với hào sâu 52 m. Bốn góc là 4 tồ tháp với kiểu mái phức
tạp, tượng trưng cho Vương các và Hồng Hạc lâu. Mỗi mặt tường có một cổng: Ngọ Môn, Thần
Vũ môn, Đông Hoa môn và Tây Hoa môn.
9


Tử Cấm Thành được chia làm hai phần: Ngoại đình (Tiền triều) phía Nam dành cho các lễ

nghi, và Nội đình (Hậu cung) phía Bắc là nơi ở của hồng đế và hoàng thất, cũng là nơi Hoàng đế
và các quan lại họp bàn việc triều chính hàng ngày.
+ Tiền Triều: Đi từ Ngọ Môn, sẽ thấy một con sông được Bắc qua bởi 5 cây cầu dẫn đến
Thái Hòa mơn, đằng sau là một quảng trường lớn. Phía cuối quảng trường là bậc thang làm bằng
đá cẩm thạch trắng, dẫn vào Tam Đại điện là Thái Hòa Điện, Trung hịa điện và Bảo Hịa điện.
Phía Tây Nam và Đơng Nam của tiền triều là Võ Anh điện và Văn Hoa điện. Võ Anh điện là nơi
hoàng đế gặp các quan đại thần và thiết triều, còn Văn Hoa điện là nơi lưu trữ thư pháp của hồng
đế. Phía Đơng Bắc là Nam tam sở là nơi ở của hoàng thái tử.
+ Hậu cung: được phân cách với Tiền triều bởi một sân thn dài, là nơi ở của hồng đế và
hoàng thất ở triều Thanh. Hoàng đế ở và làm việc chủ yếu ở hậu cung, còn Tiền Triều chỉ được sử
dụng cho các nghi lễ quan trọng. Ở trung tâm của Hậu cung là 3 cung lớn gồm: càn Thanh Cung,
Giao Thái điện và khôn Ninh cung. Đằng sau ba điện là một khu vườn tên là Ngự Hoa Viên, phía
bắc của khu vườn là Thần Võ Mơn. Xung quanh điện Dưỡng Tâm là nơi làm việc của Bộ Quân
Cơ và các quan lại chủ chốt. Mỗi bên Đông và Tây của cung Càn Thanh là 6 cung khác, gọi là
Đơng lục cung và Tây lục cung.
Đó chính là những bức tường được sơn đỏ tươi, tượng trưng cho sự trang nghiêm và hạnh
phúc. Cùng với đó là hệ thống máy được lập ngói lưu ly màu vàng ươm, một màu sắc tượng trưng
cho triều đình Trung Quốc. Một vài nơi mà bạn không nên bỏ lỡ khi tham quan như: cửa Ngọ
Mơn, Điện Thái Hịa, cung Càn Thanh, điện Tinh Thiên, khu vườn Thượng Uyển... Đây chính là
một nơi mà bạn có thể phải dành cả một hành trình dài để khám phá và trải nghiệm khi đến thủ đơ
Bắc Kinh.
- Tây Lục Cung nằm ở phía Bắc Điện Dưỡng Tâm, gồm:
+ Vĩnh Thọ cung
+ Thái Cực Điện
+ Dục Khôn cung
+ Trường Xuân cung
+ Trữ Tú cung
+ Hàm Phúc cung.
- Đông Lục Cung gồm:
+ Cảnh Nhân cung

+ Diẻn Hi cung
+ Thừa Càn cung
+ Vĩnh Hoà cung
+ Chung Túy cung
+ Cảnh Dương cung.
=> Nhận xét: Dựa vào các thành tựu trên lĩnh vực nghệ thuật của văn minh Trung Quốc đã
phân tích và ví dụ về Tử Cấm thành (Bắc Kinh), ta có thể thấy được Tử Cấm thành có sự đa dạng
về các nguyên liệu xây dựng nên, nhưng gỗ là chủ yếu. Bên cạnh đó, quần thể kiến trúc này vơ
cùng độc đáo và mang tính dân tộc văn hoá truyền thống của Trung Quốc xưa. Các cấu trúc tổng
thể của Tử Cấm Thành được quy hoạch và tính nghệ thuật cao. Điêu khắc tinh xảo và lúc bấy giờ
phương pháp thiết kế rất tiên tiến đi trước thời đại.
Câu 4: Trình bày 4 thành tựu khoa học kỹ thuật lớn của người Trung Quốc?
Có 4 phát minh quan trọng về mặt kĩ thuật mà người Trung Hoa đã đóng góp cho nhân loại,
đó là: giấy, thuốc súng, la bàn và nghề in.
+ Giấy: Nhờ sự phát triển của nghề dệt, tơ tằm, nhân dân lao động Trung Quốc đã phát minh
10


được cách làm một loại giấy thô sơ bằng tơ. Năm 105, một viên quan thời Đông Hán là Thái Luân
phát minh ra cách dùng vỏ cây, lưới cũ, giẻ rách... để làm giấy. Từ đó nghề sản xuất giấy trở thành
một nghề mới, tạo điều kiện cần thiết cho sự phát triển nhanh chóng của nền văn hóa Trung Quốc.
Đến thế kỉ VIII, kĩ thuật làm giấy của Trung Quốc được truyền sang phương Tây.
+ Thuốc súng: Từ xưa, người Trung Quốc vẫn tin rằng người ta có thể luyện được vàng và
thuốc trường sinh bất lão. Cho đến thời Đường, mục đích chính của họ khơng đạt được mà lại
thường xuyên gây ra những vụ nổ, do tình cờ người ta đã tìm ra một chất liệu mới là thuốc súng.
+ La bàn: Vào thế kỉ X, người Trung Quốc bắt đầu biết mài lên đá nam châm để hút từ tính
rồi dùng miếng sắt đó vào việc làm la bàn. La bàn lúc bấy giờ còn rất thơ sơ người ta cắt miếng
sắt có từ tính để nối vào bát nước hoặc treo vào dây ở chỗ kín gió.
+ Nghề in: bắt đầu phát minh từ thời Đường nhưng bấy giờ người ta chỉ biết in bản khắc trên
gỗ. Đến giữa thế kỉ XI, một người dân là Tất Thăng phát minh ra cách in chữ rời bằng đất sét nung.

Phát minh này là một tiến bộ nhảy vọt của nghề in.
Câu 5: Trình bày đặc điểm nghệ thuật Hy Lạp cổ đại? Nêu hiểu biết về 1 trong 7 kỳ
quan thế giới cổ đại của Hy Lạp?
* Đặc điểm nghệ thuật Hy Lạp cổ đại:
Tuy xuất hiện muộn hơn nền văn minh Ai Cập nhưng nhờ tiếp thu được nhiều giá trị từ Ai
Cập và Lưỡng Hà cổ đại và phát triển lên, nâng lên tầm khái quát, nên nền văn minh Hy Lạp cổ
đại đã có rất nhiều đóng góp giá trị.
- Chữ viết, văn học:
Về chữ viết: người Hy Lạp cổ đại đã dựa trên hệ thống chữ viết của người Phênixi (Phoenicia)
rồi cải tiến, bổ xung thành một hệ thống chữ cái mới gồm 24 chữ cái. Từ chữ Hy Lạp cổ sau này
đã hình thành nên chữ Latinh và chữ Slavơ. Đó là cơ sở chữ viết mà nhiều dân tộc trên thế giới
ngày nay đang sử dụng.
Về văn học: Văn học Hy Lạp cổ đại có thể chia ra làm ba bộ phận chủ yếu có liên quan với
nhau, đó là thần thoại, kịch, thơ. Người Hy Lạp có một hệ thống thần thoại rất phong phú để mô
tả thế giới tự nhiên, nói lên kinh nghiệm cuộc sống và cả tâm tư sâu kín của con người. Hầu như
trong cuộc sống thời đó có việc gì thì đều có thần bảo trợ, lo về cơng việc đó. Kho tàng thần thoại
Hy Lạp mãi tới ngày nay cịn được nhiều mơn nghệ thuật ở các nước trên thế giới khai thác. Đây
là một dân tộc có một kho tàng thần thoại mà nhiều dân tộc lớn trên thế giới phải ghen tị. Về sau,
khi có chữ viết, kho tàng thần thoại này được Hêdiốt (nhà thơ Hy Lạp sống vào thế kỉ VIII TCN)
hệ thống lại trong tác phẩm Gia phả các thần. Thơ ca là thể loại văn học rất phát triển, đặc biệt nó
có thế mạnh khi chưa có chữ viết. Tiêu biểu nhất phải kể đến tác phẩm Iliat và Ôđixê của Homer
(thế kỉ IX TCN). Tới thế kỉ VII-VI TCN xuất hiện nhiều nhà thơ được công chúng ưa thích như
Acsilơcút, Xơlơng, Xaphơ, Anacrêơng... Hy Lạp là quê hương của kịch nói phương Tây. Ở đây có
cả bi kịch lẫn hài kịch. Những nhà viết kịch nổi tiếng thời đó như Etsin, Sơphơclơ, Ơripit...
- Sử học:
Từ thế kỉ VIII-VI TCN, lịch sử Hy Lạp chỉ được truyền lại bằng truyền thuyết và sử thi. Đến
thế kỉ V TCN lịch sử ở Hy Lạp mới trở thành một bộ môn riêng biệt. Các nhà viết sử tiêu biểu của
Hy Lạp thời đó là: Hêrơđơt (Herodotus) cuốn Lịch sử chiến tranh Hy-Ba, Tuyxiđit (Thuycudides)
11



cuốn Lịch sử chiến tranh Plôpônedơ…
- Kiến trúc, điêu khắc:
Những cơng trình kiến trúc của Hy Lạp cổ đại khơng hùng vĩ như của Ai Cập cổ đại nhưng
nó lại nổi bật ở sự thanh thốt, hài hồ. Các cơng trình kiến trúc ở Hy Lạp cổ đại thường được xây
dựng trên những nền móng hình chữ nhật với những dãy cột đá tròn ở bốn mặt. Qua nhiều thế kỉ,
người Hy Lạp cổ đại đã hình thành ra ba kiểu cột mà ngày nay người ta vẫn thể hiện trong trường
phái “cổ điển”. Kiểu Đôric (thế kỉ VII TCN), trên cùng là các phiến đá vuông giản dị không có
trang trí; kiểu Lơnic (TK V TCN) cột đá trịn thon hơn, có đường cong ở bốn góc phiến đá hình
vng như hai lọn tọc uốn; kiểu Cơranh (thế kỉ IV TCN) có những cành lá dưới những đường
cong, thường cao hơn và bệ đỡ cầu kì hơn. Các cơng trình kiến trúc tiêu biểu đó là đền Pactơnơng
(Parthenon) - Aten, đền thờ thần Dớt (Zeus) - núi Olempia, đền thờ nữ thần Atena (Athena).
Các nhà điêu khắc ở Hy Lạp cổ đại cũng để lại nhiều tác phẩm tới bây giờ vẫn xứng đáng là
mẫu mực cho điêu khắc như các pho tượng Vệ nữ ở Milô, tượng Lực sĩ ném đĩa, tượng nữ thần
Atena, tượng thần Hecmet... Những nhà điêu khắc tiêu biểu thời đó như Phiđat (Phidias), Mirông
(Miron), Pêliklêt, (Polykleitos)...
- Khoa học tự nhiên:
Thế giới Hy Lạp cổ đại còn cống hiến cho nhân loại nhiều nhà bác học mà đóng góp của họ
tới nay vẫn cịn giá trị như: Ơclit (Euclide), người đưa ra các tiên đề hình học đặt cơ sở cho mơn
hình học sơ cấp. Pitago (Pythagoras), ơng đã chứng minh định lí mang tên ông và ngay từ thế kỉ
V TCN ông đã đưa ra giả thuyết trái đất hình cầu. Talét (Thales), người đã đưa ra tỉ lệ thức (Định
lí Talét). Đặc biệt là Acsimet (Archimede), người đã đề ra nguyên lí đòn bẩy, chế ra gương cầu
lõm, máy bắn đá và phát hiện ra lực đẩy tác động lên một vật nếu vật đó trong lịng chất lỏng (lực
đẩy Acsimet).
- Triết học:
Hy Lạp cổ đại là quê hương của triết học phương Tây, ở đây có cả hai trường phái triết học
duy vật và duy tâm. Đại diện cho trường phái duy vật là các nhà triết học nổi tiếng như: Talét
(Thales), Hêraclit (Heracleitus), Đêmôcrit (Democritus)... Đại diện cho trường phái duy tâm là các
nhà triết học: Platôn, Arixtôt.
- Luật pháp và tổ chức nhà nước:

Các quốc gia ở phương Tây chịu ảnh hưởng nhiều về hệ thống pháp luật và cách tổ chức nhà
nước từ Hy Lạp cổ đại. Nhà nước ở Hy Lạp cổ đại hình thành trên cơ sở sự tan rã của xã hội thị
tộc. Nhà nước dân chủ chủ nô ở Hy Lạp ngày càng được hồn thiện qua những cải cách của Xơlơng
(Solon), Clisten (Clisthenes) và Pêliclêt (Pericles).
Về luật pháp, bộ luật cổ nhất của Hy Lạp là bộ luật Đracông (Dracon), bộ luật này có những
hình phạt rất khắc nghiệt, có khi chỉ ăn cắp cũng bị xử tử. Sau này, nhờ những cải cách của Xôlông,
Clisten, luật pháp Hy Lạp ngày càng mang tính dân chủ hơn (nhưng cũng chỉ cơng dân tự do mới
được hưởng, nơ lệ thì khơng).
* Giới thiệu về 1 kỳ quan của Hy Lạp cổ đại:
Vườn Treo Babylon là một trong 7 kỳ quan thế giới cố đại được nhắc đến trong văn hóa Hy
Lạp cổ đại. Nó được ca ngợi là một thành tựu nổi bật về kỹ thuật xây dựng với một chuỗi vườn
12


bậc thang, có đủ các loại cây, cây bụi và cây leo đa dạng, tạo nên một ngọn núi xanh lớn được đắp
bởi gạch bùn. Vườn treo được cho là được xây dựng tại thành phố cổ đại Babylon, gần thành phố
Hillah tỉnh Babil, Iraq ngày nay. Tên của nó được lấy nguồn gốc từ chữ Hy Lạp dùng để chỉ những
cây cối được trồng trên một cấu trúc trên cao như là ban công hay sân thượng.
Vườn treo là cơng trình duy nhất trong số Bảy kỳ quan thế giới cổ đại mà vị trí vẫn chưa
được xác định chính xác. Có ba giả thuyết được đưa ra để giải thích cho vấn đề này. Thứ nhất,
cơng trình chỉ là một huyền thoại, và các mô tả được nhắc đến trong ghi chép của các tác giả Hy
Lạp và La Mã cổ đại như Strabo, Diodorus Siculus và Quintus Curtius Rufus đã tơ vẽ một hình
ảnh lý tưởng hóa về một khu vườn phương Đông. Thứ hai, Vườn treo đã từng tồn tại tại Babylon,
nhưng đã bị phá hủy hoàn toàn trong khoảng thời gian thế kỷ 1 TCN. Thứ ba, khu vườn được nhắc
đến trong truyền thuyết thực chất là khu vườn treo do vua Sennacherib của Assyria (704–681
TCN) xây dựng tại thủ đô Nineveh bên bờ sông Tigris, gần thành phố Mosul thời hiện đại
Có một giả thuyết cho rằng khu vườn treo Babylon thật ra được xây dựng bởi vua
Sennacherib của Assyria (trị vì 704 – 681 TCN) trong cung điện tại Nineveh. Stephanie Dalley chỉ
ra rằng trong những thế kỷ sau này, hai địa điểm đã bị nhầm lẫn, và những khu vườn rộng lớn ở
cung điện Sennacherib đã bị gán cho Nebuchadnezzar II của Babylon. Các cuộc khai quật khảo cổ

cho thấy dấu tích của một hệ thống dẫn nước rộng lớn được cho là dưới thời Sennacherib, theo
như những dịng chữ được tìm thấy. Dalley cho rằng khu vườn là một phần của hệ thống kênh,
đập, và ống dẫn nước dài 80 km dùng để đưa nước tới Nineveh, và nước được đưa lên các tầng
cao khu vườn bằng bơm đinh vít.
=> Trải qua hàng thiên niên kỷ, vườn treo Babylon vẫn là biểu tượng của thế giới và là nguồn
cảm hứng cho các cơng trình xây dựng hiện đại sau này. Đó không chỉ là hiện thân cho cái đẹp,
cho đỉnh cao về kỹ thuật xây dựng mà chính là khát vọng xanh hóa các vùng đất bằng bàn tay và
trí tuệ của con người.
Câu 6: Trình bày về Kitơ giáo và vai trị của Kitơ giáo với văn minh phương Tây?
- Giới thiệu về Kitơ giáo:
Nói đến tơn giáo ở đế quốc La Mã phải nói đến đạo Kitơ, mặc dù đạo Kitô không phải ra đời
tại La Mã. Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Kitô là Jesus Crit, con của chúa Trời đầu thai
vào người con gái đồng trinh Maria. Jesus Crit ra đời vào khoảng thế kỉ IV TCN tại Béthleem
(Palestin ngày nay). Đến năm 30 tuổi, Jesus Crit bắt đầu đi truyền đạo. Đạo Kitô khuyên con người
nhẫn nhục chịu đựng đau khổ nơi trần gian để khi chết sẽ được hưởng hạnh phúc nơi thiên đàng.
Chúa Trời sáng tạo ra thế giới này. Chúa Trời, chúa Jesus, thành thần tuy ba mà là một (tam vị
nhất thể). Đạo Kitơ cũng có quan niệm thiên đường, địa ngục, thiên thần, ma quỉ... Giáo lí của đạo
Kitơ gồm có Kinh cựu ước (tiếp nhận của đạo Do Thái) và Kinh tân ước (kể từ khi chúa Jesus ra
đời). Luật lệ của đạo Kitô thể hiện trong 10 điều răn.
Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ đạo Kitơ tổ chức thành những cơng xã vừa mang tính chất tôn
giáo, vừa giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Đến thế kỉ II, các công xã Kitô dần phát triển thành
Giáo hội. Khi mới ra đời, đạo Kitô bị các hồng đế La Mã và bọn q tộc địa phương đàn áp rất
tàn bạo. Vụ đàn áp đẫm máu nhất là vụ đàn áp vào năm 64, dưới thời hồng đế Nêrơng, máu của
biết bao nhiêu tín đồ đã đổ. Nhưng số người theo đạo Kitô không những không giảm mà ngày càng
13


tăng lên. Về sau, Giáo hội đề ra nguyên tắc “vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc thì trả cho
Chúa trời” tức là tơn giáo khơng dính dáng đến chính trị. Thấy đàn áp mãi khơng có tác dụng, các
hoàng đế La Mã nghĩ tới biện pháp chung sống. Năm 311, một hoàng đế La Mã đã ra lệnh ngưng

đàn áp các tín đồ Kitơ. Năm 313, đạo Kitơ được hồng đế La Mã cơng nhận là hợp pháp. Năm
337, một hồng đế La Mã lúc đó là Cơnxtantinut đã gia nhập đạo Kitơ. Hồng đế theo đạo Kitơ
thì đương nhiên các quan lại đua nhau theo Đạo. Ngân quĩ quốc gia cũng được chi ra để đóng góp
cho Nhà thờ. Đạo Kitô được truyền bá rộng khắp trong vùng đất quanh Địa Trung Hải. Sau này,
khi đế quốc La Mã tan vỡ thì đạo Kitơ đã ăn sâu, lan rộng khắp châu Âu.
- Vai trị của Kitơ giáo với văn minh phương Tây:
Nó đan xen với lịch sử và sự hình thành của xã hội phương Tây, và nó đã đóng một vai trị
quan trọng trong việc hình thành nền tảng và các thuộc tính của xã hội phương Tây. Trong suốt
lịch sử lâu dài của nó, Giáo hội Kitơ giáo đã là một nguồn tài trợ chính của các dịch vụ xã hội như
học hành và chăm sóc y tế; và là nguồn cảm hứng cho nghệ thuật, văn hóa và triết học; và có ảnh
hưởng trong chính trị và tơn giáo .Vì Cơng giáo có ảnh hưởng rõ ràng trong kiến trúc đã tạo ra các
nhà thờ, một số vẫn còn là kiệt tác vĩ đại nhất của nền văn minh phương Tây. Theo nhiều cách
khác nhau, nó đã tìm cách ảnh hưởng đến thái độ của phương Tây đối với đức hạnh trong các lĩnh
vực khác nhau. Qua nhiều thế kỉ, Công giáo truyền bá các giáo lý của Chúa Giêsu vào thế giới
phương Tây cũng như trên khắp các quốc gia khác. Các lễ hội như Phục sinh và Giáng sinh được
đánh dấu là ngày nghỉ lễ; Lịch Gregorius đã được áp dụng quốc tế như lịch trình dân dụng; và bản
thân lịch được tính từ ngày sinh của Chúa Giêsu.
Kitơ giáo có cùng gốc rễ chung với Do Thái giáo và lúc đầu chịu sự bức hại của đế chế La
Mã, nhưng đã trở thành tơn giáo chính thức của đế chế La Mã. Hơn nữa, điểm chung của Do Thái
giáo và Công giáo là Cựu Ước. Kitơ giáo cũng đã có những ảnh hưởng về quan niệm hơn nhân.
Ảnh hưởng văn hóa của Giáo hội là rất lớn. Các học giả Giáo hội vẫn bảo tồn văn hóa ở Tây
Âu sau sự sụp đổ của Đế quốc La Mã phương Tây. Trong thời Trung cổ, Giáo hội đã trỗi dậy và
để thay thế Đế chế La Mã thành lực lượng thống nhất ở châu Âu. Các nhà thờ của thời đại đó vẫn
là một trong những kỳ cơng mang tính biểu tượng của kiến trúc được tạo ra bởi nền văn minh
phương Tây. Phần lớn lịch sử của Giáo hội liên quan đến phương Tây. Nhiều trường đại học của
châu Âu cũng được thành lập bởi nhà thờ vào thời điểm đó. Nhiều sử gia nói rằng các trường đại
học và các trường nhà thờ là một sự tiếp nối của sự quan tâm đến việc học tập được thúc đẩy bởi
các tu viện. Trường đại học thường được coi là một tổ chức có nguồn gốc của nó trong bối cảnh
Kitơ giáo thời trung cổ , sinh ra từ các trường nhà thờ. Sự cải cách đã kết thúc sự thống nhất tôn
giáo ở phương Tây, nhưng những kiệt tác thời Phục hưng được tạo ra bởi các họa sĩ Công giáo

như Michelangelo, Leonardo da Vinci và Raphael vào thời đó vẫn là một trong những tác phẩm
nghệ thuật nổi tiếng nhất mọi thời đại. Tương tự như vậy, các thánh ca của các nhà soạn nhạc như
Pachelbel, Vivaldi, Bach, Handel, Mozart, Haydn, Beethoven, Schubert, Mendelssohn, Liszt, và
Verdi nằm trong những bản nhạc cổ điển được ngưỡng mộ nhất trong lịch sử phương Tây. Ảnh
hưởng của Kitô giáo không chỉ dừng lại ở nền văn minh phương Tây mà nó cũng góp phần phát
triển nền văn minh Hồi giáo và phương Đơng. Và thậm chí ngày nay, nó cũng có vai trị tích cực
trong thế giới Ả rập và Hồi giáo ở nhiều khía cạnh xã hội, kinh tế và chính trị khác nhau. Ở Viễn
14


Đơng và Ấn Độ, Kitơ giáo cũng có một di sản vĩ đại và vẫn còn tồn tại trong mọi lĩnh vực, đặc
biệt trong các lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe.
Kinh Thánh và thần học Kitơ giáo cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nhà triết học phương
Tây và các nhà hoạt động chính trị. Các giáo lý của Chúa Giêsu, chẳng hạn như Dụ ngôn Người
Samari nhân lành, là một trong những ví dụ quan trọng cho các quan niệm hiện đại về Nhân quyền
và các biện pháp phúc lợi thường được cung cấp bởi các chính phủ ở phương Tây. Giáo lý Kitơ
giáo có được ảnh hưởng lâu dài về xu hướng đời sống, hôn nhân và cuộc sống gia đình và cũng có
cả ảnh hưởng (trong thời gian gần đây) gây tranh cãi. Kitô giáo đóng một vai trị trong việc chống
lại những hành vi lạc hậu như sự hy sinh của con người, chế độ nô lệ, tội giết trẻ con và Đa phu
thê. Kitơ giáo nói chung ảnh hưởng đến tình trạng của phụ nữ bằng cách lên án ngoại tình hơn
nhân, ly hơn, loạn ln, Đa phu thê, kiểm sốt sinh sản, tội giết trẻ con (trẻ sơ sinh nữ có nhiều
khả năng bị giết), và phá thai. Trong khi giáo huấn chính thức của Giáo hội coi phụ nữ và nam
giới là sự bổ sung cho nhau (bình đẳng và khác biệt), một số người ủng hộ "phong trào phụ nữ và
nữ quyền khác" hiện đại cho rằng giáo lý do Thánh Phao Lô và những người Cha của Giáo hội và
Chủ nghĩa Kinh viện nâng cao ý niệm về sự trinh tiết của nữ tu được phong chức thiêng liêng. Tuy
nhiên, phụ nữ đã đóng vai trị nổi bật trong lịch sử phương Tây như là một phần của nhà thờ, đặc
biệt là trong giáo dục và chăm sóc sức khỏe, nhưng cũng như các nhà thần học có ảnh hưởng và
thần bí.
Các Ki Tơ hữu đã có nhiều đóng góp cho sự tiến bộ của lồi người trong nhiều lĩnh vực rộng
lớn, cả xưa và nay, bao gồm khoa học và công nghệ y học, nghệ thuật và kiến trúc, chính trị, văn

học, Âm nhạc, từ thiện, triết học,:15 đạo đức, nhà hát và kinh doanh. Theo 100 Năm Giải Nobel một
số đánh giá về giải thưởng Nobel từ năm 1901 đến năm 2000 cho thấy rằng (65,4%) người đoạt
giải Nobel, đã xác định Ki Tô giáo là tôn giáo của họ. Ki Tô giáo phương Đông (đặc biệt là các
người theo chủ nghĩa Nhiếp Tư Thốt Lí) cũng đã đóng góp cho nền văn minh Hồi giáo Ả Rập
trong thời kỳ Nhà Omeyyad và Nhà Abbas bằng cách dịch các tác phẩm của các triết gia Hy Lạp
sang tiếng Syria và sau đó sang tiếng Ả Rập. Họ cũng xuất sắc trong các lĩnh vực về: triết học,
khoa học, thần học và y học.
Một số điều mà Kitơ giáo thường bị chỉ trích vì bao gồm , lên án hơn nhân đồng tính luyến
ái, Chủ nghĩa thực dân, và các trường hợp bạo lực khác (như các cuộc Thập Tự Chinh và các chiến
tranh tôn giáo ở châu Âu), và cũng có nhiều tổ chức Giáo hội đã hỗ trợ cho các chế độ độc tài và
chế độ toàn trị trong thế kỉ XX, Ngoài ra, Ki tơ giáo cũng góp phần ủng hộ chủ nghĩa bài Do Thái
ở các tín hữu. Ý tưởng Kitơ giáo đã được sử dụng để hỗ trợ và chấm dứt chế độ nơ lệ. Những lời
chỉ trích về Kitơ giáo đã đến từ các nhóm tơn giáo và phi tơn giáo khác nhau trên khắp thế giới,
một số người trong số họ là Kitô hữu.
Ki Tô giáo là tôn giáo lớn nhất thế giới với 2,2 tỉ tín đồ. Trong danh sách 100 người có ảnh
hưởng nhất đến lịch sử nhân loại, có đến 75 người theo đạo Ki Tơ giáo. Ki Tơ giáo rõ có ảnh
hưởng đến nền văn minh nhân loại và lịch sử thế giới ở các cấp độ khác nhau. Các vấn đề như lý
thuyết sáng tạo, tiến hóa, tế bào gốc gây ra nhiều tranh cãi và phê bình trong mối quan hệ giữa Ki
Tơ giáo và khoa học.
Câu 7: Trình bày về nguyên nhân, các cuộc phát kiến lớn, hệ quả và đánh giá ý nghĩa
15


của phong trào phát kiến địa lý thế kỷ XV – XVI?
- Nguyên nhân: Thế kỉ XV, kinh tế hàng hoá ở Tây Âu đã khá phát triển, nhu cầu về thị
trường tăng cao. Giai cấp tư sản Tây Âu muốn mở rộng thị trường sang phương Đông, mơ ước tới
những nguồn vàng bạc từ phương Đông. Tại Tây Âu, tầng lớp giàu có cũng tăng lên do đó nhu
cầu về các mặt hàng đặc sản, cao cấp có nguồn gốc từ phương Đông như tiêu, quế, trầm hương,
lụa tơ tằm, ngà voi... tăng vọt hẳn lên. Trong khi đó, con đường tơ lụa mà người phương Tây đã
biết từ thời cổ đại lúc đó lại đang bị đế quốc Thổ Nhĩ Kì theo đạo Hồi chiếm giữ, đi qua chỉ có

mất mạng, vì vậy chỉ có cách tìm một con đường đi mới trên biển. Lúc đó người Tây Âu đã có
nhiều người tin vào giả thuyết Trái đất hình cầu. Họ cũng đã đóng được những con tàu buồm đáy
nhọn, thành cao, có khả năng vượt đại dương, mỗi tàu lại đều có la bàn và thước phương vị, điều
đó đã tăng thêm sự quyết tâm cho những thuỷ thủ dũng cảm.
- Những cuộc phát kiến địa lí lớn thế kỉ XV-XVI: Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là hai nước
đi đầu trong phong trào phát kiến địa lí. Năm 1415 một trường hàng hải do hồng tử Henri của Bồ
Đào Nha sáng lập và bảo trợ. Từ đó, hàng năm người Bồ Đào Nha tổ chức những cuộc thám hiểm
men theo bờ biển phía tây Châu Phi. Năm 1486, đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha do B. Dias chỉ huy
đã tới được cực nam Châu Phi, họ đặt tên mũi đất này là mũi Hy Vọng. Năm 1497, Vascô đơ
Gama (Vasco de Gama ) đã cầm đầu đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha tới được Ấn Độ. Người Tây
Ban Nha lại đi tìm Ấn Độ theo hướng Mặt trời lặn. Năm 1492, một đoàn thám hiểm do C. Côlông
(C. Colombus) chỉ huy đã tới được quần đảo miền trung Châu Mĩ, nhưng ông lại tưởng là đã tới
được Ấn Độ. Ông gọi những người thổ dân ở đây là Indians. Sau này, một nhà hàng hải
người Ý là Amerigo Vespucci mới phát hiện ra Ấn Độ của Côlông không phải là Ấn Độ mà là một
vùng đất hoàn toàn mới đối với người Châu Âu. Amerigo đã viết một cuốn sách để chứng minh
điều đó. Vùng đất mới đó sau này mang tên America. Thật đáng tiếc cho C. Côlông. Năm 1519 1522, F. Magienlan đã cầm đầu đoàn thám hiểm Tây Ban Nha lần đầu tiên đi vòng quanh thế giới.
Một hạm đội gồm 5 tàu với 265 người đã vượt Đại Tây Dương tới bờ biển phía đơng của Nam Mĩ.
Họ đã đi theo một eo biển hẹp gần cực nam Châu Mĩ và sang được một đại dương mênh mơng ở
phía bên kia. Suốt q trình vượt đại dương mênh mơng đó, đồn tàu buồm của Magienlan hầu
như không gặp một cơn bão đáng kể nào. Ông đặt tên cho đại dương mới đó là Thái Bình Dương.
F.Magienlan đã bỏ mạng ở Philippin do trúng tên độc của thổ dân. Đoàn thám hiểm của ơng cũng
chỉ có 18 người sống sót trở về được tới quê hương. 247 người bỏ mạng trên tất cả các vùng biển
và các hòn đảo trên thế giới vì những ngun nhân khác nhau. Nhưng thành cơng lớn nhất mà
chuyến đi đạt được là lần đầu tiên con người đã đi vòng quanh thế giới.
- Hệ quả của cuộc phát kiến địa lý:
Các cuộc phát kiến địa lí đã mở ra một trang mới trong tiến trình phát triển của lịch sử loài
người:
+ Đem lại những hiểu biết mới về Trái Đất, những con đường, vùng đất, dân tộc mới; tăng
cường giao lưu văn hóa giữa các châu lục.
+ Thị trường thế giới được mở rộng, hàng hải quốc tế phát triển.

+ Thúc đẩy quá trình khủng hoảng, tan rã của quan hệ phong kiến và sự ra đời của chủ nghĩa
tư bản ở châu Âu.
16


Tuy nhiên, cũng nảy sinh q trình cướp bóc thuộc địa và buôn bán nô lệ.
- Ảnh hưởng đến văn minh thế giới:
Các nhà thám hiểm bằng những chuyến đi thực tế đầy dũng cảm của mình đã chứng minh
cho giả thuyết Trái đất hình cầu. Họ cịn cung cấp cho các nhà khoa học rất nhiều hiểu biết mới về
địa lí, thiên văn, hàng hải, sinh vật học...
Sau những cuộc phát kiến này, một sự tiếp xúc giữa các nền văn hoá trên thế giới diễn ra do
các cá nhân có ngn gốc văn hố khác nhau như các giáo sĩ, nhà buôn, những người khai phá
vùng đất mới, những quân nhân...
Một làn sóng di chuyển dân cư lớn trên thế giới trong thế kỉ XVI-XVIII với những dòng
người Châu Âu di chuyển sang Châu Mĩ, Châu Úc. Nhiều nô lệ da đen cũng bị cưỡng bức rời khỏi
quê hương xứ sở sang Châu Mĩ .
Hoạt đông buôn bán trên thế giới trở nên sôi nổi, nhiều công ti buôn bán tầm cỡ quốc tế được
thành lập.
Sau phát kiến địa lí, các thế kỉ XVI – XVII thuyền bn của các thương nhân châu Âu (Bồ
Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp,…) đến buôn bán với nước ta ngày càng nhiều, bước đầu đưa nước
ta tiếp xúc với luồng thương mại quốc tế đang phát triển, góp phần mở rộng thị trường trong nước,
thúc đẩy sự hứng khởi của các đô thị.
Các giáo sĩ đạo thiên Chúa đến truyền đạo ở nước ta góp phần tạo ra chữ quốc ngữ. Tuy
nhiên nó cũng dẫn đến những hệ quả là nước ta bị tư bản phương Tây, nhất là thực dân Pháp dịm
ngó và xâm lược.
Những cuộc phát kiến địa lí này cũng gây ra khơng ít hậu quả tiêu cực như nạn cướp bóc
thuộc địa, bn bán nơ lệ da đen và sau này là chế độ thực dân.
Câu 8: Trình bày hiểu biết về nguyên nhân, các thành tựu lớn, nội dung tư tưởng và ý
nghĩa của phong trào Văn hóa Phục Hưng?
* Hồn cảnh ra đời, ngun nhân:

Văn hoá Tây Âu thế kỉ V - X dựa trên nền tảng nền kinh tế tự cung tự cấp, sự giao lưu trao
đổi rất hạn chế, văn hố vì vậy cũng phát triển không đáng kể.
Tới thế kỉ XIV, với sự phát triển kinh tế công thương ở các thành thị, quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa dần dần hình thành và ngày càng lớn mạnh. Các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản
khơng cịn chịu chấp nhận những giáo lí phong kiến lỗi thời, họ vận động khơi phục lại sự huy
hồng của văn hố Tây Âu thời cổ đại. Họ tìm thấy trong nền văn hố cổ đại những yếu tố phù
hợp với mình, có lợi cho mình để đấu tranh chống lại những trói buộc của nền văn hoá trung cổ.
Phong trào Văn hoá Phục hưng xuất hiện đầu tiên ở Ý, vì ở đây thế kỉ XIV đã xuất hiện các
thành thị tự do như những quốc gia nhỏ. Quan hệ sản xuất tư bản đã chiếm địa vị chi phối đời sống
văn hoá. Ý lại là trung tâm của đế quốc Rôma cổ đại, vì vậy ở đây cịn giữ lại nhiều di sản văn hố
cổ đại của Hy Lạp - Rơma. Hơn ai hết, các nhà văn hố Ý có điều kiện khơi phục lại nền văn hố
trước tiên khi có điều kiện. Từ Ý, phong trào lan sang Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Đức...
Tầng lớp giàu có ở các thành thị muốn thể hiện sự giàu sang của mình qua các dinh thự và
các tác phẩm nghệ thuật, điều đó cũng tạo điều kiện cho các nhà văn hoá thể hiện tài năng
* Những thành tựu, nội dung nổi bật:
17


- Về văn học:
Cả ba thể loại, thơ, kịch, tiểu thuyết trong nền văn học Phục hưng đều có những thành tựu
quan trọng.
Về thơ, có hai đại biểu là Đantê (1265-1324) và Pêtracca (1304 - 1374). Đantê là người mở
đầu phong trào Văn hố Phục hưng ở Ý. Ơng xuất thân trong một gia đình kị sĩ suy tàn ở Plorencia.
Ơng đả kích các thầy tu lúc đó và cổ vũ cho sự thống nhất của đất nước Ý. Tác phẩm tiêu biểu của
ông là: Thần khúc và Cuộc đời mới. Pêtracca là một nhà thơ trữ tình Ý. Trong tác phẩm của mình,
ơng ca ngợi tình u lí tưởng, ca ngợi sắc đẹp, ca ngợi sự tự do tư tưởng và chống lại sự gị bó
kinh điển.
Về tiểu thuyết, có hai nhà văn nổi bật là Bơcaxiơ (Boccacio), Rabơle (F. Rabelais) và
Xecvantec (Cervantes). Boccacio là một nhà văn Ý, tác phẩm nổi tiếng của ông là tập truyện Mười
ngày. Qua tác phẩm Mười ngày, ơng chế diễu thói đạo đức giả, cơng kích cuộc sống khổ hạnh,

cấm dục vì cho đó là trái tự nhiên. Ơng cổ vũ cho cuộc sống vui vẻ, biết tận hưởng mọi lạc thú của
cuộc sống. F. Rabơle là một nhà văn Pháp, ông có hiểu biết rộng rãi cả về khoa học tự nhiên, văn
học, triết học và luật pháp. Tác phẩm trào phúng nổi tiếng của ông là cuộc đời không giá trị của
Gargantua và Pantagruen. Migel de Cervantes là một nhà văn lớn của Tây Ban Nha. Tác phẩm
nổi tiếng của ông là Don Quyjote. Thông qua hình ảnh chàng hiệp sĩ lỗi thời Don Quyjote,
Cervantes ám chỉ tấng lớp quí tộc Tây Ban Nha với những quan niệm danh dự cổ hủ và vẽ nên
bức tranh một nước Tây Ban Nha quân chủ đang bị chìm đắm trong vũng lầy phong kiến lạc hậu.
Về kịch, Nhà viết kịch vĩ đại thời phục hưng là một người Anh có tên là W. Sếchpia. (William
Shakespeare). Ông đã viết tới 36 vở bi, hài kịch. Những vở kịch nổi tiếng ảnh hưởng tới nhiều
nước trên thế giới như Rômêô và Giuyliet, Hamlet, Vua Lia, Ơtenlơ...
- Hội hoạ, điêu khắc:
Nhà danh hoạ khổng lồ thời Phục hưng là Lêôna đơ Vanhxi (Leonardo da Vinci), ông là một
người Ý. Ông không những là một hoạ sĩ thiên tài mà cịn là một con người thơng thái trên nhiều
lĩnh vực. Ông đã để lại những bức hoạ nổi tiếng như Bữa tiệc cuối cùng, Nàng Giôcôngđơ (La
Joconde), Đức mẹ đồng trinh trong hang đá. Từ thế kỉ XV, ông đã đưa ra ý tưởng sử dụng cánh
quạt đẩy nước cho thuyền thay mái chèo; vẽ ra nguyên tắc hoạt động của máy bay trực thăng, dù
thoát hiểm... nhưng những kĩ thuật hồi đó khơng cho phép ông thực hiện những ý tưởng của mình.
Mikenlăngiơ (Michelangelo) ra đời ở Ý (1475-1564). Ông là một danh hoạ, một nhà điêu khắc nổi
tiếng, đồng thời còn là một kiến trúc sư, một thi sĩ. Tác phẩm tiêu biểu của ông là bức hoạ Sáng
tạo thế giới vẽ trên trần nhà thờ Xixtin gồm có 343 nhân vật. Cịn bức Cuộc phán xét cuối cùng
thì được vẽ trên tường nhà thờ Xixtin. Về điêu khắc, ông để lại nhiều bức tượng tiêu biểu như pho
tượng Mơidơ, Ngưịi nơ lệ bị trói, đặc biệt là pho tượng Đavid. Pho tượng Đavid của Mikenlăngiơ
được tạc trên đá cẩm thạch cao tới 5,3 mét. Đavid ở đây không phải là chú bé chăn cừu mà là
chàng thanh niên đang độ tuổi mười tám đôi mươi, đang độ tuổi sung sức, với cơ bắp khoẻ mạnh,
vầng trán thông minh, ánh mắt tự tin, sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn thử thách. Mượn hình
tượng Đavid, Mikenlăngiơ thể hiện sức sống đang lên của một lớp người đại diện cho một thời đại
mới, thời đại cần những con người khổng lồ và đã sản sinh ra những con người khổng lồ.
Nghệ thuật thời Phục hưng cịn có sự đóng góp của những nghệ sĩ nổi tiếng khác như
18



Raphaen (Raffaello), Giôtô (Giott), Bôtixeli (Botticelli)...
- Khoa học tự nhiên:
Thời Phục hưng cịn có sự đóng góp của nhiều nhà khoa học dũng cảm, dám chống lại những
suy nghĩ sai lầm nghìn đời đã được giới quyền lực đảm bảo, thừa nhận. N. Côpecnic (Nikolai
Kopernik, 1473 - 1543) là một giáo sĩ người Ba Lan. Qua nhiều năm nghiên cứu, ông đã đi tới một
kết luận đáng sợ hồi đó là: Trái đất quay xung quanh Mặt trời chứ không phải là Mặt trời quay
xung quanh Trái đất. Thuyết Mặt trời là trung tâm đó của ơng vậy là trái hẳn với thuyết Trái đất
là trung tâm đã được nhà thờ cơng nhận hàng nghìn năm. Điều phát hiện này được ơng trình bày
trong tác phẩm Bàn về sự vận hành của các thiên thể. Nhưng sợ bị kết tội, ông chưa dám công bố.
Mãi tới khi cảm thấy sắp từ giã cõi đời ông mới công bố. Gioocđanô Brunô (Giordano Bruno 1548-1600), là một giáo sĩ trẻ người Ý. Ơng tích cực hưởng ứng học thuyết của Cơpecnic khi giáo
hội cấm lưu hành. Khơng những thế, ơng cịn phát triển thêm tư tưởng của Cơpecnic. Ơng cho
rằng Mặt trời không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là trung tâm của Thái dương hệ. Trong vũ
trụ, bên cạnh Mặt trời cịn có nhiều hệ mặt trời khác. Đương nhiên thời đó, ơng bị đưa ra tồ án
tơn giáo. Tồ án hồi đó buộc ơng phải cơng bố lại là đã bị quỉ ám thì sẽ tha tội chết nhưng ơng thà
chết chứ khơng chịu nói trái với niềm tin của mình. Cuối cùng, ơng đã bị thiêu trên dàn lửa. Một
nhà thiên văn học người Ý khác là Galilê (Gallileo Gallilei, 1564 - 1642) tiếp tục phát triển quan
điểm của Cơpecnic và Brunơ. Ơng là người đầu tiên dùng kính viễn vọng phóng to gấp 30 lần để
quan sát bầu trời. Ông đã chững minh là Mặt trăng có bề mặt gồ ghề chứ khơng phải là nhẵn bóng;
Thiên hà là do vơ số vì sao tạo thành. Ơng đã giải thích hiện tượng sao chổi. Ơng là cha đẻ của
khoa học thực nghiêm, phát hiện ra định luật rơi tự do và dao động con lắc. Tiến xa hơn, nhà thiên
văn học người Đức là Kêplơ (Kepler, 1571 - 1630) đã phát minh ra ba qui luật quan trọng về sự
vận hành của các hành tinh xung quanh Mặt trời. Ông đã chứng minh rằng quĩ đạo chuyển động
của các hành tinh khơng phải là hình trịn mà là hình elíp, càng đến gần Mặt trời, vận tốc chuyển
động càng tăng lên và càng xa Mặt trời thì vận tốc chuyển động càng chậm lại.
Triết học cũng có những bước phát triển mới. Người mở đầu cho trường phái triết học duy
vật thời Phục hưng là một người Anh, F. Baicơn (Francis Bacon, 1561 - 1626). Ông đề cao triết
học duy vật Hy Lạp cổ đại, phê phán triết học duy tâm và triết học kinh viện.
- Những đóng góp, ý nghĩa đối với nền văn minh thế giới:
Phong trào Văn hoá Phục hưng tuy danh nghĩa là phục hưng lại sự huy hoàng của văn hố

Hy-La cổ đại, nó có tiếp thu những yếu tố từ nền văn hoá Hy-La cổ đại, nhưng thực chất đây là
một nền văn hố hồn tồn mới, dựa trên nền tảng kinh tế-xã hội mới và hệ tư tưởng của giai cấp
tư sản đang lên. Qua các tác phẩm của mình, các nhà văn hố thời Phục hưng đã thể hiện những
tư tưởng chính sau:
+ Phong trào văn hố Phục hưng chống lại những quan niệm không hợp thời của giáo hội
lúc bấy giờ cùng tầng lớp quí tộc phong kiến. Nhiều tác phẩm văn hố đã cơng khai đả kích, châm
biếm thói đạo đức giả, dốt nát của tầng lớp q tộc, phong kiến. Các nhà văn hố thời Phục hưng
đấu tranh địi văn hố phải khơng bị kiểm sốt bởi nhà thờ.
+ Nhiều tác phẩm cơng khai ca ngợi quyền được sống tự do phóng khống, quyền được
hưởng thụ. Họ chủ trương văn hoá phát triển phải lấy mục đích vì hạnh phúc con người; đối tượng
19


ca ngợi phải là con người... Có thể nói tư tưởng chủ đạo là chủ nghĩa nhân văn (humannisme).
+ Phong trào Văn hố Phục hưng cịn ca ngợi tình u tổ quốc, tinh thần dân tộc và ý thức
các tác phẩm văn hoá phải hướng về phục vụ tầng lớp bình dân. Vì vậy các tác phẩm văn hố giai
đoạn này phần nhiều khơng cịn sử dụng chữ Latin mà sử dụng chữ viết riêng của mỗi dân tộc.
+ Nhiều nhà văn hoá thời Phục hưng đã dũng cảm chống lại những quan điểm phản khoa
học của những thế lực cầm quyền đương thời, bất chấp sự đe doạ của những hình phạt, kể cả dàn
thiêu. Các tác phẩm của họ đã giáng những đòn quyết liệt vào triết học kinh viện và chủ nghĩa duy
tâm đương thời, làm lung lay quyền uy của các tăng lữ.
+ Phong trào Văn hoá Phục hưng là tấm gương phản chiếu sức sống mãnh liệt của xã hội
phương Tây lúc đó và đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ.
+ Phong trào Văn hoá Phục hưng là một cuộc cách mạng trên mặt trận văn hoá, tư tưởng của
giai cấp tư sản đang lên chống lại xã hội phong kiến, để chuẩn bị mở đường cho một cuộc cách
mạng xã hội.
+ Phong trào này đã đặt cơ sở, mở đường cho văn hoá Tây Âu phát triển trong những thế kỉ
tiếp theo sau.
+ Phong trào Văn hố Phục hưng cịn có nhiều đóng góp quan trọng vào kho tàng văn hố
nhân loại.

Câu 9: Nêu những chuyển biến kinh tế - xã hội trong thời đại văn minh công nghiệp?
Nêu hiểu biết về James Watt và phát minh máy hơi nước của ông?
* Những chuyển biến kinh tế - xã hội trong thời đại văn minh công nghiệp:
Nền văn minh công nghiệp ra đời ở các nước Tây Âu dựa trên những điều kiện sau đây:
- Truyền thống thủ công nghiệp – thương nghiệp của các nước Tây Âu
- Những kết quả của công cuộc phát kiến địa lí (đối với sự phát triển văn minh):
+ Phát triển giao lưu, tiếp xúc giữa các nền văn minh, giao lưu kinh tế - văn hóa Đơng – Tây
+ Tìm ra những vùng đất mới, mở rộng phạm vi sinh sống, buôn bán của người châu Âu
+ Phát triển khoa học
+ Thúc đẩy thương mại phát triển (đây là kết quả quan trọng nhất): chuyển trung tâm thương
mại từ Địa Trung Hải sang Đại Tây Dương, xuất hiện những quốc gia phát triển mới bên bờ Đại
Tây Dương (việc thay đổi trung tâm thương mại của phương Tây không chỉ mở rộng phạm vi, quy
mô của việc bn bán mà cịn mở rộng phạm vi, quy mô của nền văn minh phương Tây tương lai);
Tạo động lực thúc đẩy kinh tế Tây Âu phát triển theo hướng Tư bản chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa tư bản ra đời và thắng lợi của phong trào cách mạng tư sản: Kinh tế hàng
hóa TBCN có điều kiện phát triển mạnh mẽ, tạo tiền đề cho cuộc cách mạng công nghiệp (và tiếp
đó, những thành tựu của cách mạng cơng nghiệp lại khẳng định cho sự thắng thế hoàn toàn của
chủ nghĩa tư bản trước chủ nghĩa phong kiến trong cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa hai chế độ
này cuối thế kỉ XIX).
- Cuộc cách mạng công nghiệp là điều kiện quyết định cuối cùng dẫn đến sự ra đời của
nền văn minh cơng nghiệp. Nó đã trang bị các cơng cụ máy móc hiện đại để xây dựng nền đại
công nghiệp cho xã hội tư bản và rõ ràng cuộc cách mạng này đã khiến cho cuộc sống con người
tiện nghi, thoải mái hơn (văn minh hơn) và biểu hiện trước tiên là sự tiện nghi trong sản xuất.
20


VD: Những tiến bộ kĩ thuật trong ngành dệt ở nước Anh cuối thế kỉ XVIII
Ngoài ý nghĩa là điều kiện ra đời, bản thân diễn biến của cách mạng cơng nghiệp cũng chính
là biểu hiện cho sự phát triển đầu tiên của nền văn minh công nghiệp.
Các thành tựu văn minh thời kì CMCN

+ Các phát minh kĩ thuật
^ Máy hơi nước
^ Động cơ đốt trong
^ Động cơ điêzen.
+ Những phát minh về điện:
^ Pin Volta (người Italia): 1800 – sử dụng dòng điện một chiều
^ Điện phát sáng: Bóng đèn điện Edison (1879) và xây dựng nhà máy điện
^ Máy phát điện: dựa trên phát minh của Faraday (1831) về từ trường qua ống dây; máy
tuốc-bin phát điện (1880s)
^ Lị luyện kim
+ Giao thơng vận tải:
^ Đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước 1804
^ Tàu thủy: 1807, Fulton
^ Xe hơi: Đức phát minh, Mĩ phát triển nhất (1914, Ford sản xuất oto hàng loạt, công nghiệp
oto Mĩ đứng đầu thế giới)
^ Máy bay: 1903, anh em nhà Wright (thực ra ý tưởng có từ trước: Leonar de Vinci, khinh
khí cầu)
+ Phương tiện liên lạc:
^ Điện báo Mooc-xơ (Morse – người Mĩ)
^ Máy điện thoại: Graham Bell (Mĩ) 1876
+ Khoa học tự nhiên

Vật lí:
^ Isaac Newton: Định luật vạn vật hấp dẫn (quả táo)----nhà vật lí vĩ đại nhất của thế kỉ XVIII
^ Phát minh ra tia X: 1895, Rơn-ghen (Wilhelm Roentgen) người Đức.
^ “X”: yếu tố ảnh hưởng khơng lường được
Tia X có khả năng đâm xun qua các vật thể rắn mà ánh sáng không xuyên qua được. Có ý
nghĩa rất to lớn trong y học.
^ Thuyết tương đối của Albert Einsetein: Tạo bước chuyển quan trọng trong ngành vật lí học
– Nhà khoa học lớn của thời đại (thế kỉ XX)


Hóa học:
1869, Bảng hệ thống tuần hồn các ngun tố hóa học của Dmitri Mendeleep: sắp xếp nhóm
các ngun tố với khối lượng, tính chất riêng đồng thời dự đốn chính xác những ngun tố mới,
chưa được tìm thấy lúc bấy giờ

Sinh học:
^ Charles Darwin: 1859, tác phẩm “Nguồn gốc các loài” --- thuyết tiến hóa tự nhiên (cổ
điển): đấu tranh sinh tồn, chọn lọc tự nhiên và thích nghi
^ Mendel (Áo): di truyền học, gen (ruồi dấm, đậu Hà Lan)

Y học:
21


^ Adreas Vesalius (Bỉ): cuốn sách về cấu trúc cơ thể người
^ Louis Pasteur (thế kỉ XIX): Sử dụng Vacxin

Tâm lí học:
^ Ivan Pavlov: Phản xạ có điều kiện (phản xạ máy móc – kích thích: tập tính)
^ Sigmund Freud: Những hành động xuất phát từ những nhu cầu, ước muốn tiềm ẩn – giấc
mơ ----- sáng lập Ngành Phân tâm học
+ Triết học và các học thuyết kinh tế - xã hội

Triết học Ánh sáng thế kỉ XVIII: Đại diện là các nhà Khai sáng Pháp
^ Mongteskio: Lĩnh vực tư pháp – nguyên tắc tam quyền phân lập – nhà nước quân chủ lập
hiến
^ Vonte: Chế độ quân chủ với minh quân – chống chế độ quân chủ chuyên chế. Là con người
tồn diện, có ảnh hưởng to lớn trên nhiều lĩnh vực ------ Thế kỉ XVIII: Thế kỉ Vonte
^ Rut-xô: Thay chế độ tư hữu lớn bằng chế độ tư hữu nhỏ - Thiết lập chế độ Cộng hịa, quyền

tự do, bình đẳng ---- Có ảnh hưởng to lớn đến Cách mạng Pháp (nhất là thời Gia-cơ-banh)

Nhóm Bách khoa toàn thư
^ Các học thuyết kinh tế: Chế độ kinh tế, kinh doanh tự do. Đại diện: Adam Xmit, Ri-cácđô… coi mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư sản là quy luật tự nhiên
^ Các học thuyết xã hội thế kỉ XIX:
Học thuyết về quyền tự do cá nhân và quốc gia dân tộc: John Stuart Mill (Anh),
Tocqueville (Pháp), phái Hiến chương
Chủ nghĩa xã hội không tưởng: Xanh Xi-mông, Phu-ri-ê, Owen
Chủ nghĩa xã hội khoa học
+ Văn học – nghệ thuật

Văn học:
^ Văn học Pháp: Lãng mạn (Bảo thủ; tiến bộ: Victo Huygo), Hiện thực (Ban-dắc, Mô-pátxăng, Êmin Dơ-la…)
^ Văn học Nga: Lep Tơn-xtơi, Đơx-tơ-exki, Tc-ghê-nhep…

Âm nhạc: Bách, Mơda, Xtrox. Thế kỉ XIX: Bet-thơ-ven, Chopin

Hội họa: Lãng mạn. Khác trường phái: Goya (Tây Ban Nha) với Chiến tranh chống
Napoleon

Điêu khắc: Khơng bằng thời kì phục hưng Bartholdi: Bức tượng Nữ thần Tự do

Kiến trúc: Đa dạng, giao lưu, rộng mở. Sử dụng vật liệu mới: Thép, bê tông, kính dày.
Tiêu biểu: tịa nhà Quốc hội Mĩ 1793-1851, Quốc hội Anh 1840-1865

Điện ảnh: Ngày 28/12/1895, anh em Lumiere chiếu thành cơng bộ phim ngắn:
“Chuyến xe lửa đến”

Nhiếp ảnh: 1888, máy ảnh đầu tiên hiệu Kodak được sản xuất – George Eastman (Mĩ)
– cuộn phim trong lõi kín


Nhận xét:
+ Những tiến bộ kĩ thuật (nhất là trong giao thông, liên lạc) đã khiến cho các thành tựu của
22


văn minh công nghiệp được phổ biến rộng rãi (mặc dù xét ở một khía cạnh nào đó, nó cịn giới
hạn chủ yếu trong tầng lớp thượng lưu)
+ Đời sống tinh thần được nâng cao
+ Cuối thế kỉ XIX, văn minh công nghiệp phát triển với tốc độ ngày càng tăng, Mĩ thay thế
châu Âu trong cuộc cách mạng giao thông vận tải – thông tin liên lạc
+ Bước đầu bộc lộ mặt trái của văn minh công nghiệp (mặt trái của chủ nhân của nó thời kì
này là chủ nghĩa tư bản phương Tây): được phản ánh thông qua các học thuyết chủ nghĩa xã hội
không tưởng, chủ nghĩa xã hội khoa học.
* Giới thiệu tiểu sử và phát minh máy hơi nước của James Watt:
James Watt (19/1/1736 – 25/8/1819) là nhà phát minh và là một kỹ sư người Scotland đã có
những cải tiến cho máy hơi nước mà nhờ đó đã làm nền tảng cho cuộc Cách mạng cơng nghiệp.
Ơng đưa ra khái niệm mã lực và đơn vị SI của năng lượng watt được đặt theo tên ông.
Ý tưởng muốn tạo ra một chiếc máy hơi nước đến với Watt từ khi cịn nhỏ, và ơng ln thơi
thúc mình làm được điều đó, cho đến một nhóm đã phát hiện hơi nước Newcomen (1705) tuy được
dùng rộng rãi nhưng nó có rất nhiều điểm cần được cải tiến. Vì vậy nó trở thành động lực để Watt
phải tạo ra một máy hơi nước hoàn thiện hơn.
Năm 1763 - 1764, tại Trường Đại học Glasgow, Watt bắt đầu đặc biệt chú ý tới máy hơi
nước. Watt xác định việc nghiên cứu nguyên lý và kết cấu của máy hơi nước là phương hướng chủ
yếu của mình. Chính vì điều này mà Watt đã mất ăn mất ngủ
Vào một buổi sáng nọ, Watt đi bách bộ ngoài sân golf, mặt trời rọi thẳng vào mặt ông. Bỗng
nhiên một đám mây đen che khuất mặt trời, trong phút chốc bầu trời như tối lại, một trận gió thổi
qua, mặt đất như xanh hơn,không gian như rộng hơn, cảm thấy dễ chịu lạ thường. Ơng nhìn lên
trời cao, nghĩ lại đám mây đen che kín mặt trời vừa rồi, một ý tưởng mới xuất hiện trong đầu
ông:Thiết kế bộ ngưng tụ hơi nước, làm cho hơi nước trực tiếp trở lại trạng thái nước ngay từ ngoài

xi-lanh, như vậy chẳng phải xi-lanh có thể duy trì được nhiệt độ tương đối cao sao?"
Năm 1769, một thực nghiệm viên của trường đại học ở Luân Đôn là Giêm Oát (James Watt)
đã sáng chế ra máy hơi nước, đến năm 1784 thì hoàn thiện trở thành động cơ nhiệt vạn năng chạy
bằng than và nước. Việc sử dụng máy hơi nước vào sản xuất gây nên một chuyển biến lớn.
Để chế tạo được máy hơi nước kiểu mới, Watt và các trợ lý của ông làm miệt mài không
quản ngày đêm nhưng kết quả chưa giành được thành cơng, hơn nữa cịn nợ nần chồng chất, cuộc
sống hết sức khó khăn, có lúc thậm chí khơng cịn tiền để ăn. Nhưng Watt khơng nản chí, ơng càng
nỗ lực hơn, cuối cùng ơng đã chế tạo thành công một chiếc máy hơi nước.
Loại máy hơi nước này giảm được 3-4 lượng than tiêu thụ so với máy hơi
nước Newcomen mà hiệu suất nâng cao lên rất nhiều. Thành công lần này là sự cổ vũ lớn đối với
Watt, ông vẫn muốn trực tiếp cải tiến một bước nữa để giảm lượng tiêu hao than xuống, hiệu suất
càng cao hơn
Năm 1782, ông cho ra đời chiếc máy hơi nước mới như ông đã suy nghĩ: Máy tiêu hao than
ít, hiệu suất làm việc cao. Thành công khi phát minh ra loại máy hơi nước này đã làm cho máy hơi
nước Newcomen trở nên lạc hậu khơng cịn chỗ đứng.
Năm 1788, Watt phát minh ra bộ phận ly tâm điều chỉnh tốc độ và bộ phận điều tiết hơi.
23


Năm 1790, Watt chế tạo thành công bộ phận biểu thị cơng năng của xi-lanh đầu tiên. Lúc này thì
Watt đã hồn thành tồn bộ q trình phát minh ra máy hơi nước của mình. Đây là một bước đại
nhảy vọt trong kỹ thuật sản xuất của loài người. Đây có thể được gọi là bản tun ngơn của nhân
loại đã bắt đầu tiến vào Thời đại máy hơi nước.
Máy hơi nước do Watt phát minh nhanh chóng được sử dụng rộng rãi. Tàu thuyền, tàu hỏa
dùng máy hơi nước đua nhau ra đời, cơng nghiệp tồn thế giới nhanh chóng bước vào thời đại máy
hơi nước".
Để tưởng nhớ cơng lao của Giêm Oát, người ta đã dựng bức tượng kỉ niệm tại Oetxmintơ
khi ông qua đời năm 1891, thọ 83 tuổi, với dòng chữ: "Người đã nhân lên gấp bội sức mạnh của
con người".
Câu 10: Trình bày những thành tựu chính của Cuộc cách mạng Khoa học kỹ thuật –

cơng nghệ thế kỉ XX? Phân tích ảnh hưởng của một số thành tựu văn minh tiêu biểu đối với
đời sống xã hội hiện nay?
* Những thành tựu chính của Cuộc cách mạng Khoa học kỹ thuật – công nghệ thế kỉ XX:
- Nửa đầu thế kỷ XX:
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, một cuộc cách mạng thực sự đã diễn ra trong ngành vật lí
đó là 3 phát minh quan trọng : điện tử (1896), tính phóng xạ (1898) và Thuyết tương đối.
Giữa thế kỉ XIX, con người vẫn còn quan niệm nguyên tử là phần tử nhỏ nhất của vật chất
không thể phân chia được nữa. Nhưng với những phát hiện về tia X, tính phóng xạ, làm người ta
phải có những cách nhìn khác. Năm 1911, một nhà bác học người Anh là E.Rơdơpho đã tiến hành
thí nghiệm bắn phá nguyên tử. Thí nghiệm của E.Rơdơpho đã chứng minh ngun tử khơng phải
đặc mà có rất nhiều khoảng trống. Từ kết quả của thí nghiệm đó, học trị của E.Rơdơpho là Ninxơ
Bo đã đưa ra lí thuyết về mẫu hành tinh nguyên tử. Theo Ninxơ Bo, các nguyên tử có một nhân ở
giữa, xung quanh có các điện tử chuyển động theo một quĩ đạo nhất định như các hành tinh chuyển
động quanh Mặt Trời. Một sự tương đồng giữa thế giới vi mô với thế giới vĩ mơ.
Năm 1932, con người cịn phát hiện ra hạt nhân nguyên tử cũng chưa phải là thành phần nhỏ
nhất của vật chất. Hạt nhân nguyên tử còn gồm có prơtơn và nơtrơn. Năm 1934, Phêđơric và Iren
Quyri (con rể và con gái của nhà bác học Mari Quyri) đã phát hiện ra hiện tượng phóng xạ nhân
tạo và chất đồng vị phóng xạ. Năm 1938-1939, các nhà bác học Ơttơ Han, Lida Metne (Đức),
Enricơ Phecmi (Ialia) và Giôliô Quyri (Pháp) đã cùng phát hiện ra hiện tượng phản ứng dây chuyền
phá vỡ hạt nhân urani. Từ đó, năm 1942 Enricơ Phecmi đã xây dựng được lị phản ứng hạt nhân
đầu tiên trên thế giới ngay dưới khán đài sân vận động của trường đại học Sicagô. Thuyết tương
đối của Anbe Anhxtanh đã làm một cuộc cách mạng thực sự của vật lí hiện đại. Khi mới được
cơng bố, nhiều người cho đây là một lí thuyết điên khùng. Ngay cả một số nhà bác học lớn tuổi
thời đó cũng khơng hiểu nổi lí thuyết của Anhxtanh. Nhưng với thời gian, nhiều sự kiện thực
nghiệm càng ngày càng chứng minh lí thuyết của Anhxtanh là đúng đắn . Lí thuyết này khơng thể
thiếu trong các lĩnh vực như vật lí hạt nhân, kĩ thuật máy gia tốc, vật lí thiên văn hiện đại. Có thể
nói rất nhiều các phát minh lớn về vật lí của thế kỉ XX đều có liên quan đến lí thuyết của Anhxtanh.
Trong lĩnh vực hố học, sinh học... cũng có nhiều thành tựu quan trọng. Những thành tựu đó
đã đưa và sử dụng vào thực tiễn như: điện tín, điện thoại, ra đa, máy bay, phim có âm thanh...
24



- Nửa sau thế kỷ XX:
Cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ đã đạt được những thành tựu kì diệu trong mọi ngành
khoa học cơ bản và trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, rõ nét nhất là trong các ngành điện tử-tin
học, năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học, kĩ thuật lade, khoa học vũ trụ.
Máy tính, rơbơt là các sản phẩm tiêu biểu của cơng nghệ điện tử-tin học. Từ chiếc máy vi
tính (compute) đầu tiên ra đời năm 1946 cho đến nay, nó đã trải qua bốn thế hệ. Từ những chiếc
máy tính điện tử đầu tiên sử dụng bóng đèn điện tử chân khơng, rồi chất bán dẫn, vi mạch (mạch
tích hợp IC - Integrated Circuit), vi mạch với độ tích hợp cao. Từ máy tính điện tử dẫn tới sự kết
nối Internet, tạo ra mạng thơng tin tồn cầu với khả năng trao đổi thông tin cực nhanh, giá rẻ.
Đội ngũ rôbôt công nghiệp ngày càng đông đảo, thông minh hơn và lĩnh vực tham gia hoạt
động đang ngày càng mở rộng.
Nhiều loại vật liệu mới ra đời trong hoàn cảnh vật liệu thiên nhiên ngày càng vơi cạn dần.
Những loại vật liệu mới này cịn có những tính năng hơn hẳn vật liệu tự nhiên như siêu bền, siêu
cứng, siêu nhẹ... Tên các loại vật liệu mới như composit, polyme, silic, sợi cáp quang... ngày càng
trở nên phổ biến. Nhiều loại năng lượng mới đã được con người sử dụng để biến thành điện năng
như năng lượng nguyên tử, năng lượng Mặt Trời, năng lượng gió...
Tia lade (laser) mới được phát minh ra từ những năm 60 của thế kỉ XX nhưng đến nay đã
được áp dụng trong nhiều lĩnh vực, từ quân sự, thiên văn, y học, công nghệ in, thông tin liên lạc...
Công nghệ sinh học đã đạt được nhiều thành tựu đáng kinh ngạc, thậm chí đáng sợ.
Cơng nghệ sinh học tập trung vào bốn lĩnh vực: công nghệ gen, công nghệ tế bào, công nghệ
vi sinh, công nghệ enzim. Nhờ công nghệ sinh học, người ta đã tạo ra nhiều giống cây, con mới
với những đặc tính ưu điểm khác hẳn các giống trong tự nhiên; nhiều loại dược phẩm mới ra đời,
nhiều loại chất xúc tác mới xuất hiện...
Trong nghiên cứu vũ trụ, con người đã tiến những bước dài mà đi đầu là hai nước Liên Xô
và Mĩ. Các tàu vũ trụ của Liên Xô và Mĩ đã đi thăm dò những hành tinh xa xơi ngồi Trái Đất.
Liên Xơ, Mĩ và giờ đây đang thêm nhiều nước khác đã phóng các vệ tinh nhân tạo đáp ứng nhu
cầu truyền hình, thơng tin tồn cầu, điều tra tài nguyên, dự báo thời tiết, mạng định vị qua vệ tinh...
* Ảnh hưởng của một số thành tựu văn minh tiêu biểu đối với đời sống xã hội hiện nay:

Những thành tựu khoa học vũ trụ ngày càng phục vụ đắc lực cho cuộc sống của con người
trên hành tinh. Các vệ tinh nhân tạo đã giúp ích to lớn và có hiệu quả cho ngành khí tượng dự báo
thời tiết dài ngày và chính xác hơn, cho việc truyền tin và truyền hình, sản xuất nơng nghiệp, điều
tra cơ bản và thăm dò tài nguyên cũng như lập bản đồ địa lí, địa chất và cơng tác trắc địa...
Mặt khác, việc thám hiểm Mặt Trăng, các hành tinh và các vì sao đã làm phong phú thêm,
sâu sắc thêm sự hiểu biết của con người về vũ trụ, đẩy mạnh hơn cuộc cách mạng khoa học – kĩ
thuật trên toàn thế giới.
Cũng như nhiều ngành khoa học khác, khoa học vũ trụ trở thành một bộ phận không thể
thiếu được của cách mạng khoa học - kĩ thuật và nền văn minh nhân loại thế kỉ XX và XXI.
Giảng viên giảng dạy môn học

Người soạn thảo tài liệu, tác giả

Lê Thị Khánh Ly

Nguyễn Linh – khóa 60
Hà Nội, ngày 29 tháng 12 năm 2023
25


×