Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tập hợp các nhà Triết Học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.57 KB, 34 trang )

Nhà triết học Xôcrát (469- 399 TCN)
Khái quát về cuộc đời, những đóng góp về khoa học và tư tưởng
triết học trường phái triết học Xocrat.
Xôcrat (469-399 TCN) là một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng thời
cổ đại. Theo nhân xét của Hêghen “là một bước ngoặt lịch sử vĩ đại” trong
triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại.
Cuộc đời sự nghiệp:
Ông sinh ra ở Aten xuất thân trong gia đình cha làm
điêu khắc, mẹ làm hộ lý. Ông là người con thứ hai
trong gia đình. Giống như những đứa trẻ ở Aten
Xôcrat đã được học phổ thông cơ sở nhằm hình thành
thể chất và tinh thần cho thành viên tương lai của nhà
nước – thị thành.
Khi ông 18 tuổi, ông phải giải quyết một vấn đề rất
quan trọng là làm sao có quyền công dân và chính
thức được thừa nhận là công dân của nhà nước Aten.
Xôcrat có một hình thức không bình thường, quen
đi chân đất, ăn mặc tuềnh toàng nhưng lại là người có trí nhớ tuyệt vời (ông
là người phản đối chữ viết vì theo ông chữ viết làm cho con người ỷ lại
không chịu tư duy) và sức mạnh vô song.
Năm 399 TCN tòa án Aten đã khẳng định ông là người có chủ trương
thay tôn giáo hiện thời bằng một thứ tôn giáo mới làm giảm uy lực của nhà
nước, hư hỏng đồi bại thanh niên, bằng tội danh này ông đã bị kết án tử hình
với số phiếu áp đảo của hội đồng nghị án 200/220. Lời nói cuối cùng của
ông ở phiên tòa là “Đã tới lúc chúng ta phải rời khỏi đây. Tôi thì để chết,
còn các anh thì để sống, điều nào tốt hơn, không ai biết cả, ngoài Thượng
đế”. Cái chết đau thương của ông ở tòa án đã góp phần tôn vinh phẩm giá
của ông như một nhà triết học có nhân cách vĩ đại nhất trong lịch sử triết
học.
Cái chết bi thảm của Xôcrat đã đi vào lịch sử như một sự kiện quan
trọng, nó chứng tỏ rằng chân lý có thể có được bằng cái giá của sự hy sinh.


Hay, trong mọi trường hợp tính đích thực của học thuyết được kiểm tra bằng
thái độ sẵn sàng của tác giả trải qua những thử thách, đôi khi là bằng cái giá
mạng sống của bản thân. Điều đó lại càng xác đáng với Xôcrat vì sau phán
xét của tòa án, ông có cơ hội chạy trốn mà bạn ông tổ chức cho nhưng ông
đã không sử dụng nó. Như nhiều người giả định sự khước từ thực hiện bản
án đối với Xôcrat có nghĩa là khước từ các quan điểm của bản thân mình.
Ông là nhà triết gia nhưng lại không viết một tác phẩm nào. Ông
thường trình bày các quan điểm của mình bằng lời nói dưới hình thức hội
thoại hay tranh luận. Vì vậy những gì chúng ta biết về ông chủ yếu qua ghi
chép và bình luận của các học trò của ông như Platon, Xenophon,
Aristophan.
Giai thoại về Xôcrat:
Trong các câu chuyện về những xích mích gia đình thì Xôcrat luôn
hiện ra là người rất biết kiềm chế và ưa hòa mình. Ông đáp lại tính khí khó
chịu hay đay nghiến của vợ bằng hài hước và giễu cợt. Một hôm, sau khi
chửi bới xong, Cơsantipơ – vợ ông, hất nước vào chồng mình. Ông chỉ nhận
xét: “Lẽ nào tôi đã không bảo rằng sau cơn sấm sét Cơsantipơ sẽ là mưa?!”.
Chính vì vậy mà sự nỏng nảy vô lý của vợ ông đã ngay lập tức tan biến.
Nhiều khi người ta hỏi Xôcrat là tại sao ông lại chọn một người vợ
tính khí khó chịu như vậy, ông đáp lại: “Đối xử với một người vợ ngang
ngạnh như vậy là giống như thuần phục một con ngựa háu đá. Và giống như
sau khi đã thuần phục được con ngựa như vậy thì sẽ dễ dàng thuần phục
những con ngựa khác, sau khi học được cách đối xử với Cơsantipơ thì tôi
cũng dễ dàng tiếp xúc với những người khác”.
Một giai thoại khác như sau: theo tiêu chí của người Aten, gia đình
Xôcrat là một gia đình rất nghèo. Được kế thừa từ người cha một ngôi nhà
không lớn và một chút tài sản. Xôcrat hoàn toàn thờ ơ với ý nghĩ cải thiện
điều kiện vật chất của mình. Nhà ngụy biện Antiphôn đã xúc phạm Xôcrat:
“Ngài sống không giống như bất kỳ một nô lệ nào sống ở chủ nhân của
mình; ngài sử dụng đồ ăn và đồ uống nghèo nàn, mặc quần áo không những

nghèo nàn mà còn mặc cùng một thứ quần áo cả mùa đông lẫn mùa hè, ngài
luôn không đi giày”.
Xôcrat đã phản ứng lại những lời đả kích như vậy bằng cách chỉ ra
rằng: hạnh phúc không phải là tiền bạc và sự xa hoa, rằng khát vọng kiếm
lợi và làm giàu sẽ bị đẩy con người ra khỏi con đường đức hạnh và làm cho
nó bị suy đồi đạo đức. Theo ông, con người phải học được cách thỏa mãn
với điều tối thiểu, cần ít nhất, bắt chước tấm giương cao cả của thần linh vốn
dường như không cần tới thứ gì cả…
Những vấn đề chính trong quan niệm triết học Xôcrat:
1. Vấn đề về con người:
Nếu các nhà triết học trước ông chủ yếu bàn tới vấn đề về khởi
nguyên thế giới, về nhận thức luận thì ông lại cho rằng triết học không có gì
khác hơn là sự nhận thức của con người về chính bản thân mình, “hình học –
theo lời của ông – chỉ cần thiết đối với con người trong chừng mực làm cho
con người biết đo đạc ruộng đất mà họ đang sử dụng, hay đem bán”. Luận
điểm nổi tiếng “Con người, hãy nhận thức chính mình” trở thành câu cửa
miệng trong các buổi đàm thoại triết học của ông. Tư tưởng của ông thực sự
là một bước tiến mới trong sự phát triển triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại.
Bắt đầu từ Xôcrat, đề tài con người trở thành một trong những vấn đề trọng
tâm nghiên cứu của triết học phương Tây. Đối với ông, nhận thức chính
mình – tức là nhận thức bản thân mình – không chỉ như một nhân cách mà
còn như một con người nói chung. Luận điểm nổi tiếng hãy nhận thức chính
mình còn có ý nghĩa là xây dựng những khái niệm về chuẩn mực đạo đức
chung của con người.
Đạo đức đòi hỏi biết ý thức về cái thiện về đức hạnh nói chung. Nó
phải trở thành khoa học về sự hoàn thiện phẩm chất con người. Xôcrat nhấn
mạnh đến 4 đức hạnh chính:
+ Khôn ngoan: Biết mình, cư xử đúng, chủ động trong mọi tình
huống.
+ Tiết độ: Tiết chế dục vọng, biết chịu đựng, giữ trạng thái cân bằng.

+ Can đảm: Chống lại các ham muốn thái quá, không sợ chết. Con
người không chỉ biết sống mà còn biết chết. Nếu chết là sự tiêu diệt mọi ham
muốn, là sự yên tĩnh vĩnh hằng, tuyệt đối thì đó là điều hay. Nếu chết là linh
hồn sẽ phiêu diêu đây đó và sẽ gặp gỡ các linh hồn của những người quá cố
thì chính cái chết sửa soạn cho ta những thú vui bất tận.
+ Khiêm tốn: Luôn nhớ rằng mình còn dốt, đặt mình ở điểm xuất phát
để đi từng bước một, thận trọng vững chắc trên con đường hướng tới chân
lý.
Theo lời Điôgien Laécxơ, “Xôcrat nói rằng, chỉ mỗi điều thiện đó là
tri thức, và mỗi điều ác đó là sự dốt nát. Của cải và danh tiếng chẳng mang
lại phẩm giá gì, ngược lại, chỉ đem đến những điều ngu xuẩn”. Mọi hành vi
vô đạo đức đều là kết quả của sự dốt nát, kém hiểu biết, bởi lẽ nếu người nào
biết thế nào là tốt thì anh ta không bao giờ làm điều xấu. Vì vậy con đường
đi đến tri thức cũng chính là con đường hoàn thiện nhân cách đạo đức của
con người, con đường hướng con người tới cái thiện và hạnh phúc.
Xuất phát từ việc thừa nhận tri thức khách quan, ông đi đến khẳng
định tính khách quan của các chuẩn mực đạo đức. Khác với các nhà ngụy
biện, ông coi cái thiện và cái ác là hoàn toàn khác biệt nhau, cũng như không
đồng nhất hạnh phúc với cái lợi, mà coi hạnh phúc là đức hạnh. Chỉ có
người nào biết đức hạnh là gì mới thực sự được hạnh phúc. Cái ác và bất
hạnh là kết quả của sự không hiểu biết cái thiện.
Như vậy, triết học của Xôcrat chủ yếu bàn về con người dưới khía
cạnh đạo đức. Nhận thức chân lý, tri thức là nền tảng đạo đức học của ông.
Công lao của ông là đã bước đầu nhận thấy mối quan hệ giữa lý luận và thực
tiễn trong hoạt động đạo đức của con người. Nhưng ngoài khía cạnh nhận
thức luận, vấn đề còn liên quan đến các hoàn cảnh xã hội nữa. Đạo đức học
duy lý của ông sau này bị Arixtot phản đối, cho rằng việc hiểu biết về cái
thiện cái ác cũng như việc vận dụng chúng trong từng tình huống cụ thể là
hai việc khác nhau. Mặc dầu vậy, triết học Xôcrat vẫn là một bước ngoặt
trong lịch sử phát triển tư tưởng triết học phương Tây cổ đại với việc coi con

người là trung tâm của các vấn đề thế giới quan.
2. Về nhận thức chân lý:
Là học trò của các nhà ngụy biện nhưng Xôcrat không nhất trí với họ
coi ý kiến chủ quan của mỗi người là tiêu chuẩn của chân lý. Để có thể đàm
thoại được thì giữa những người tham gia đàm thoại phải có một “tiếng nói
chung” một “ngôn ngữ chung” nhất định. “Ngôn ngữ chung” đó mang tính
khách quan, là nền tảng khách quan, nhờ đó con người khám phá ra chân lý
một cách đích thực mà ai cũng phải thừa nhận. Ông dường như tìm thấy các
tầng khác nhau trong ý thức con người. Ngoài những yếu tố chủ quan, thì
trong ý thức con người còn có một nội dung khách quan, ông tìm cách
chứng minh rằng chính nội dung khách quan đó là cái cơ bản trong ý thức.
Phần này của ý thức được coi là lý tính. Nó không chỉ có khả năng đưa lại ý
kiến cá nhân mà cả những tri thức phổ biến mang tính tổng quát. Nhưng mỗi
người chỉ có được tri thức chung đó bằng nỗ lực của mình. Và ông khẳng
định đó là cơ sở chung, là chân lý khách quan trong các cuộc đàm thoại mà
ai cũng phải thừa nhận. Do vậy, mỗi người không phải hoàn toàn tự do và
tùy tiện trong việc lựa chọn các ý kiến trái ngược nhau về sự vật, mà phải
dựa vào nền tảng chung khách quan đó.
Xuất phát từ quan niệm trên, ông tìm cách khám phá những chân lý
chung trong các cuộc đàm thoại phê phán những ý kiến dù được nhiều người
chấp nhận nhưng theo ông vẫn chưa được khách quan, và như vậy thì chưa
gọi là tri thức đúng đắn. Ông là người khởi xướng ra phép biện chứng theo
cách hiểu thời cổ đại, nghĩa là nghệ thuật tranh luận. Ở Xôcrat nó thể hiện
dưới dạng mỉa mai. Tài hùng biện kết hợp với sự mỉa mai sâu cay – đó là
công cụ chính của ông trong các cuộc diễn thuyết, tranh luận dùng để chỉ ra
mâu thuẫn của đối phương theo quan niệm của mình.
Khám phá chân lý – theo Xôcrat – nghĩa là định nghĩa sự vật một cách
chặt chẽ, xây dựng khái niệm về nó. Nếu như các nhà triết học trước kia về
cơ bản sử dụng các khái niệm một cách tự phát thì Xôcrat là người đầu tiên
nhấn mạnh vai trò đặc biệt của tri thức khái niệm trong nhận thức. Theo ông,

nhận thức sự vật nghĩa là phải biết nó là cái gì. Khám phá ra chân lý đích
thực về bản chất sự vật tức là phải hiểu nó ở mức độ khái niệm. Tuy vậy ông
cũng nhận thấy rằng đây là một việc không đơn giản và bản thân ông vẫn
thường khiêm tốn nói “Tôi biết rằng tôi không biết gì cả”.
3. Học thuyết về phương pháp:
Theo Xôcrat cần xây dựng phương pháp đối thoại tích cực, giúp con
người tránh mọi ngộ nhận, vượt qua sai lầm, xác định đúng bản chất sự vật.
Phương pháp ấy theo ông trải qua 4 bước:
Thứ nhất: Mỉa mai là thủ pháp phản biện bằng cách nêu hàng loạt câu
hỏi (có tính chất mải mai) nhằm dồn người đối thoại vào thế mâu thuẫn thừa
nhận những khuyết điểm trong lập luận của mình, từ đó thừa nhận chân lý.
Thứ hai: Đỡ đẻ ngụ ý về trách nhiệm của người thầy – người dẫn dắt,
không bỏ mặc người đang đối thoại với mình ở tình trạng không lối thoát,
mà chủ động nêu ra những vấn đề mới, giúp họ đạt tới chân lý.
Thứ ba: Quy nạp là quá trình đi từ phân tích những hành vi riêng lẻ
đến khái quát để nắm bắt bản chất con người và đời sống xã hội.
Thứ tư: Xác định hay định nghĩa là bước cuối cùng của phương pháp
tiếp cận chân lý, gọi đúng tên sự vật, chỉ ra đúng bản chất của nó, xác định
đúng những chuẩn mực của hành vi đạo đức, tiến tới xây dựng một khoa học
về cái thiện phổ quát, giúp con người sống hạnh phúc, hợp lý trí.
4. Thế giới quan:
Ở phương diện thế giới quan triết học, Xôcrat đánh dấu bước ngoặt từ
chủ nghĩa duy vật (trong quan niệm về tự nhiên) sang chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy tâm Xôcrat thể hiện trước hết việc tách các khái niệm
ra khỏi chủ thể nhận thức. Khái niệm trong cách hiểu của ông chỉ là kết quả
của những nổ lực tinh thần, không đơn giản là hiện tượng chủ quan, mà là
một hiện thể khách quan siêu thoát nào đó của lý tính. Khái niệm tồn tại tự
thân, không lệ thuộc tồn tại của sự vật, con người.
Chủ nghĩa duy tâm xen lẫn mục đích luận thể hiện trong học thuyết về
quan hệ giữa linh hồn và thể xác. Ông né tránh những vấn đề tự nhiên vì sợ

“xúc phạm đến thần linh”. Thần linh là linh hồn bất tử, là linh hồn chi phối
thể xác. Thần linh là hiện thân của lý trí và lý trí tức là thần linh. Thần linh ở
trong ta, hiện hữu ở chính những hành vi cao cả, do linh hồn dẫn dắt. Làm
điều tốt là làm điều thiêng liêng.
Chủ nghĩa duy tâm, một mặt là sự ngạc nhiên thú vị trước năng lực
nhận thức của con người và thần thánh hóa nó, mặt khác là “sự phát triển
phiến diện thái quá của một trong những khía cạnh của nhận thức thành một
cái tuyết đối, tách khỏi vật chất, khỏi giới tự nhiên”. Ông đã phác thảo
những nét đầu tiên của chủ nghĩa duy tâm khách quan, Platon về sau đã đẩy
nó lên trình độ một hệ thống.
5. Quan điểm chính trị - xã hội.
Xôcrat là người ủng hộ nhiệt thành chế độ nhà nước – thị thành mà
trong đó các điều luật có bản chất chính nghĩa thống trị vô điều kiện. Kiên trì
truyền bá sự cần thiết phải tuân thủ pháp luật của nhà nước – thị thành.
Xôcrat gắn liền việc làm đó với sự đồng cảm công dân mà, theo ông, nếu
thiếu thì nhà nước không thể trụ vững, gia đinh không thể cai quản tốt. Hơn
nữa, ông hiểu sự đồng thuận là việc các thành viên nhà nước – thị thành
trung thành và tuân thủ pháp luật, chứ không phải là sự nhất thể hóa thị hiếu,
ý kiến và quan điểm của mọi người.
Việc kêu gọi phục tùng pháp luật của ông không có nghĩa dường như
ông coi mọi quy định và mệnh lệnh của nhà cầm quyền là luật pháp cần
được tuân thủ. Luận điểm của Xôcrat về sự trùng hợp giữa cái hợp pháp và
cái chính nghĩa, việc ông ca ngợi tính hợp pháp và tính hợp lý của chế độ
nhà nước – thị thành thực ra hàm ý chỉ một trạng thái lý tưởng, chứ không
phải trạng thái hiện có.
Quan điểm “nhà triết học ngồi trên ngai vàng” của Xôcrat là hệ quả tất
yếu của thuyết sùng bái giới quý tộc tri thức trong lĩnh vực chính trị, học
thuyết này xuyên suốt toàn bộ triết học đạo đức của ông. Một điều nổi bật là
các lý tưởng chính trị của ông đều vượt lên trên như nhau đối với chế độ dân
chủ, chế độ đầu xỏ, chế độ quý tộc dòng họ và chế độ cầm quyền truyền

thống của vua chúa. Xét về mặt lý luận, lý tưởng của ông là thử nghiệm tạo
lập bản chất hợp lý hoàn toàn của nhà nước, còn về mặt thực tiễn chính trị là
để khẳng định nguyên tắc hiểu biết trong quản lý nhà nước – thị thành.
Khi đánh giá các hình thái chế độ nhà nước và quản lý khác nhau,
Xôcrat cố tách biệt những điểm đặc trưng của chúng, các nguyên tắc tạo
thành hình thái của chúng. Bản thân việc phân loại các hình thái cầm quyền
khác nhau việc có tính đến luật pháp để đánh giá các hình thái cầm quyền…
đã có ảnh hưởng đáng kể tới các học thuyết sau này về hình thái nhà nước.
Sự trung thành tuyệt đối của công dân đối với nhà nước – thị thành và
luật pháp của mình là xuất phát điểm trong toàn bộ quan điểm chính trị - xã
hội của Xôcrat. Khi nhất trí trở thành thành viên của một nhà nước, theo
ông, công dân mới thực tham gia khế ước với nhà nước và có nghĩa vụ phải
tôn trọng các trật tự và quy định của nó. Như vậy, Xôcrat là người đầu tiên
trong lịch sử tư tưởng chính trị châu Âu đã hình thành quan điểm về quan hệ
khế ước giữa nhà nước và công dân của mình.
Với đạo đức học duy lý đặc trưng đã tạo ra bước ngoặt trong triết học
Hy Lạp cổ đại, đưa nó từ trên trời xuống dưới đất. Bên cạnh đó Xôcrat đã
nâng sự lý giải vấn đề đạo đức – chính trị lên trình độ khái niệm, chứng
minh về mặt triết học tính chất khách quan của đức hạnh, chính trị, pháp
quyền đối lập với chủ nghĩa tương đối và chủ nghĩa của phái biện thuyết.
Xôcrat có lẽ là người đầu tiên trong lịch sử triết học phương Tây đã phân
biệt quyền tự nhiên, khẳng định sự thống nhất chúng chứ không tách rời như
suy nghĩ của Protagoras. Phương pháp tiếp cận chân lý do ông xây dựng
cũng có giá trị biện chứng sâu sắc theo cả nghĩa củ và nghĩa mới. Theo
nghĩa cũ đó là nghệ thuật tranh luận để đạt tới chân lý, theo nghĩa hiện đại
đó là mầm mống của phép biện chứng chủ quan, biện chứng của các khái
niệm.
Platon
Plato
Tên: Plato

Sinh: khoảng 427–428 trước Công nguyên
Mất: 347 trước Công nguyên
Trường
phái:
Chủ nghĩa Platon
Quan tâm Siêu hình học, Nhận thức luận, Luân lý
chính:
học, Mỹ học, Chính trị, Giáo dục, Triết
học về Toán học
Tư tưởng
đáng lưu ý:
Chủ nghĩa hiện thực Platon
Ảnh hưởng
bởi:
Socrates, Archytas, Democritus,
Parmenides
Ảnh hưởng
tới:
Hầu hết các triết gia và các nhà thần học
sau ông
Platon (tiếng Hy Lạp: Πλάτων, Platōn, "Vai Rộng"), khoảng 427-347
TCN, là một nhà triết học cổ đại Hy Lạp được xem là thiên tài trên nhiều
lĩnh vực, có nhiều người coi ông là triết gia vĩ đại nhất mọi thời đại cùng với
Socrates (Σωκράτης) là thầy ông.
Sinh ra ở Athena, ông được hấp thụ một nền giáo dục tuyệt vời từ gia
đình, ông tỏ ra nổi bật trên mọi lĩnh vực nghệ thuật và đặc biệt là triết học,
ngành học mà ông chuyên tâm theo đuổi từ khi gặp Socrates.
Ông đã từng bị bán làm nô lệ và được giải thoát bởi một người bạn,
sau đó, ông đã trở về Athena khoảng năm 387 TCN và sáng lập ra Viện hàn
lâm - (tên lấy theo khu vườn nơi ông ở). Đây có thể được coi là trường đại

học đầu tiên trong lịch sử nhân loại, nơi dành cho nghiên cứu, giảng dạy
khoa học và triết học. Aristoteles (Αριστοτέλης) đã theo học tại đây khi 20
tuổi và sau này lập ra một trường khác là Lyceum.
Khi Socrates chết vào năm 399 TCN thì Platon mới khoảng 31 tuổi.
Trong suốt phiên tòa xử thầy mình, ông ngồi dự ở phòng xử án. Toàn bộ
chuỗi biến cố đó dường như đã ăn sâu vào tâm hồn ông thành một kinh
nghiệm chấn động, vì ông đánh giá Socrates là người giỏi nhất, minh triết
nhất và chính trực nhất trong tất cả mọi người.
Từ đó Platon bắt đầu cho phổ biến một loạt các đối thoại triết học
trong đó nhân vật chính luôn luôn là Socrates, căn vặn những kẻ đối thoại
của ông về những khái niệm căn bản về đạo đức và chính trị, làm cho họ
mắc mâu thuẫn trước những câu hỏi của ông.
Có lẽ Platon có hai động cơ chính để làm việc này. Một là để thách
thức và tái khẳng định những lời giáo huấn của Socrates bất chấp chúng đã
bị kết án một cách công khai; hai là để phục hồi danh dự người thầy yêu quí
của mình, cho mọi người thấy ông không phải là một kẻ hủy hoại giới trẻ mà
là một bậc thầy danh giá nhất của họ.
Triết học Platon
Platon là nhà triết học duy tâm khách quan. Điểm nổi bật trong hệ
thống triết học duy tâm của Platon là học thuyết về ý niệm. Trong học thuyết
này ông đưa ra hai quan niệm về thế giới các sự vật cảm biết và thế giới các
ý niệm. Trong đó thế giới các sự vật cảm biết là không chân thực, không
đúng đắn vì các sự vật không ngừng sinh ra và mất đi, thay đổi và vận động,
không ổn định, bền vững, hoàn thiện; còn thế giới ý niệm là thế giới phi cảm
tính phi vật thể, là thế giới đúng đắn, chân thực, các sự vật cảm biết chỉ là
cái bóng của ý niệm. Nhận thức của con người không phải là phản ánh các
sự vật cảm biết của thế giới khách quan mà là nhận thức về ý niệm. Thế giới
ý niệm có trước thế giới cảm biết, sinh ra thế giới cảm biết. Từ quan niệm
trên Platon đã đưa ra khái niệm "tồn tại" và "không tồn tại". "Tồn tại" theo
ông là cái phi vật chất, cái nhận biết được bằng trí tuệ siêu tự nhiên là cái có

tính thứ nhất. Còn "không tồn tại" là vật chất, cái có tính thứ hai so với cái
tồn tại phi vật chất. Về mặt nhận thức luận Platon cũng mang tính duy tâm.
Theo ông tri thức là cái có trước các sự vật chứ không phải là sự khái quát
kinh nghiệm trong quá trình nhận thức các sự vật đó. Nhận thức con người
không phản ánh các sự vật của thế giới khách quan mà chỉ là nhớ lại, hồi
tưởng lại của linh hồn những cái đã quên trong quá khứ. Theo Platon tri thức
đuợc phân làm hai loại: Tri thức hoàn toàn đúng đắn và tri thức mờ nhạt.
Loại thứ nhất là tri thức ý niệm có đựơc nhờ hồi tưởng. Loại thứ hai là tri
thức nhận được nhờ vào nhận thức cảm tính, lẫn lộn đúng sai không có chân
lí. Về xã hội, Platon đưa ra quan niệm về nhà nước lí tưởng trong đó sự tồn
tại và phát triển của nhà nước lí tưởng dựa trên sự phát triển của sản xuất vật
chất, sự phân công hài hoà các ngành nghề và giải quyết các mâu thuẫn xã
hội.
Những môn đệ của Platon
Nổi tiếng nhất trong số những người môn đệ của ông là Aristoteles.
Ngoài ra, sau này có Plotinus (Πλωτίνος), một triết học gia người Ai Cập
(với cái tên La Mã) có thể được coi là một triết gia Hy Lạp vĩ đại cuối cùng
cũng là một người chịu ảnh hưởng của Platon. Tư tưởng của ông phát triển
khuynh hướng thần bí của Platon và sau đó được biết tới như học thuyết Tân
Platon (Neo-Platonism).
Mahatma Gandhi
Ảnh Mahatma Gandhi năm 1931
Sinh
2 tháng 10, 1869
Porbandar, Kathiawar Agency, Ấn Độ
Mất
30 tháng 1, 1948
New Delhi, Ấn Độ
An táng Mohandas Karamchand Gandhi
Quốc tịch Ấn Độ

Tên khác Cam Địa
Vai trò Đấu tranh dành độc lập cho Ấn Độ
Chính đảng Quốc dân Đại hội Ấn Độ
Tôn giáo Ấn Độ giáo
Vợ Kasturba Gandhi
Con cái
Harilal
Manilal
Ramdas
Devdas
Chữ ký
Nguyên nhân cái chết Ám sát
Mahātmā Gāndhī (2 tháng 10 năm 1869 – 30 tháng 1 năm 1948),
nguyên tên đầy đủ là Mohandas Karamchand Gandhi (Devanagari;
Gujarati, là anh hùng dân tộc Ấn Độ, đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế
độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ
nhiệt liệt của hàng triệu người dân. Trong suốt cuộc đời, ông phản đối tất cả
các hình thức khủng bố bạo lực và thay vào đó, chỉ áp dụng những tiêu
chuẩn đạo đức tối cao. Nguyên lí bất bạo lực (còn gọi là bất hại) được ông
đề xướng với tên Chấp trì chân lí (sa. satyāgraha) đã ảnh hưởng đến các
phong trào đấu tranh bất bạo động trong và ngoài nước cho đến ngày nay,
bao gồm phong trào Vận động Quyền công dân tại Hoa Kỳ (American Civil
Rights Movement) được dẫn đầu bởi Martin Luther King, Jr
Từ lúc lãnh đạo cuộc đấu tranh giành tự do và đứng đầu đảng Quốc
dân Đại hội Ấn Độ (Indian National Congress) năm 1918, ông được hàng
triệu dân Ấn Độ gọi một cách tôn kính là Mahātmā, nghĩa là "Linh hồn lớn",
"Vĩ nhân" hoặc "Đại nhân". Danh hiệu có gốc tiếng Phạn này được triết gia
và người đoạt giải Nobel văn chương Rabindranath Tagore dùng lần đầu khi
đón chào Gandhi tại Mumbai (hay Bombay) ngày 9 tháng 1 năm 1915. Mặc
dù Gandhi không hài lòng với những cách gọi tôn vinh nhưng đến ngày nay,

danh hiệu Mahātmā Gāndhī vẫn thường được dùng hơn tên Mohandas
Gāndhī trên thế giới. Ngoài việc được xem là một trong những môn đồ Ấn
Độ giáo và những nhà lĩnh đạo Ấn Độ vĩ đại nhất, ông còn được nhiều người
Ấn tôn kính như một Quốc phụ (gọi theo tiếng Hindi là Bapu). Ngày sinh
của ông, 2 tháng 10, là ngày lễ quốc gia của Ấn Độ. Năm 2007, Liên Hiệp
Quốc ra nghị quyết lấy ngày 2 tháng 10 là Ngày Quốc tế Bất Bạo động."
Bằng phương tiện bất hợp tác, Gandhi đã dẫn khởi nền độc lập Ấn
Độ, đưa nước mình thoát sự đô hộ của Anh, khích lệ những người dân bị đô
hộ khác phấn đấu cho nền độc lập của nước nhà và đả đảo triệt để Đế quốc
Anh. Nguyên lí Chấp trì chân lí của Gandhi (có gốc tiếng Phạn: satya là
"chân lí" và ā-graha là "nắm lấy", "nắm chặt"), cũng thường được dịch là
"con đường chân thật", "truy tầm chân lí", đã cảm kích những người chủ
trương hành động giành tự do như Đạt-lại Lạt-ma Đăng-châu Gia-mục-thố
(Tenzin Gyatso), Lech Wałęsa, Stephen Biko, Aung San Suu Kyi và Nelson
Mandela. Tuy nhiên, không phải tất cả những nhà lĩnh đạo nêu trên đều theo
nguyên tắc bất bạo lực và bất kháng cự khắt khe của Gandhi.
Gandhi thường nói là nguyên tắc của ông đơn giản, lấy từ niềm tin
truyền thống của Ấn Độ giáo: Chân lí (satya) và bất bạo lực (ahi

sā). Chính
ông nói rằng: "Tôi chẳng có gì mới mẻ để dạy đời. Chân lí và bất bạo lực
đều có từ xưa nay".
Thời niên thiếu
Gandi, bên trái, năm 13 tuổi
Mohandas Karamchand Gandhi sinh trong một gia đình Ấn Độ giáo
thuộc cộng đồng Modh (một nhóm thương gia ở Gujarat), tại Porbandar,
bang Gujarat, Ấn Độ vào năm 1869. Ông là con của Karamchand Gandhi,
một người giữ chức "diwan" (có thể gọi là "Tổng bộ trưởng") của Porbandar,
và bà Putlibai, người vợ thứ tư của Karamchand, theo Ấn Độ giáo phái thờ
thần Tì-thấp-nô (sa. vai

ṣṇ
ava). Nữ thủ tướng Ấn Độ sau này, Indira Gandhi,
và con trai của bà, Rajiv Gandhi, không bà con gì với Gandhi.
Lớn lên với một bà mẹ sùng tín Tì-thấp-nô trong một môi trường được
ảnh hưởng bởi những người theo Kì-na giáo tại Gujarat, Gandhi sớm cảm
nhận nguyên tắc bất hại, ăn chay, phương pháp nhịn ăn để thanh lọc tâm
thức cũng như sự khoan dung lẫn nhau của các tín đồ và tông phái. Ông sinh
ra trong giai cấp thứ ba của xã hội Ấn là Phệ-xá (sa. vaiśya, giai cấp thương
gia). Tháng 5 năm 1882, vào tuổi 15, ông cưới cô Kasturba Makharji, 13
tuổi, qua một sự mai mối. Hai ông bà sau có bốn con trai: Harilal Gandhi,
sinh năm 1888; Manilal Gandhi, sinh năm 1892; Ramdas Gandhi; sinh năm
1897 và Devdas Gandhi, sinh năm 1900.
Gandhi là một sinh viên trung bình tại Porbandar và sau đó là tại
Rajkot. Ông đậu khoá thi vào Đại học Mumbai năm 1887 với số điểm vừa
đủ, và vào học viện Samaldas tại Bhavnagar. Tuy nhiên, ông không lưu ở
đây lâu vì gia đình muốn ông trở thành luật sư để giữ truyền thống nắm
quyền cao tại Gujarat. Không cảm thấy thú vị tại học viện Samaldas, Gandhi
liền nắm thời cơ du học nước Anh, một nước được ông xem là "quốc gia của
những triết gia và thi nhân, trung tâm đích thật của nền văn minh".
Gandi khi còn là sinh viên ở London
Vào tuổi 19, Gandhi vào Đại học College London (một trường thuộc
Đại học London) học ngành luật. Trong thời gian tại London, thủ đô của đế
quốc, ông chịu ảnh hưởng của lời nguyện với bà mẹ trước mặt một vị tăng
Kì-na giáo là Becharji, đó là giữ giới luật Ấn Độ giáo không ăn thịt và uống
rượu sau khi rời Ấn Độ. Mặc dù đã thử bắt chước văn minh người Anh, ví
dụ như học nhảy, nhưng Gandhi không ăn được thịt cừu và cải bắp bà chủ
nhà trọ nấu cho mình. Bà chỉ ông đến một trong những tiệm chay hiếm hoi
tại London thời đó.
Nhưng thay vì đơn thuần làm toại nguyện bà mẹ, ông đọc sách và đổi
sang ăn chay ngay trên phương diện tri thức. Ông vào "Hội người ăn chay",

được cử làm uỷ viên ban chấp hành và lập ra một nhánh địa phương của nó.
Về sau, ông cho rằng công việc này đã giúp ông thu thập những kinh nghiệm
giá trị trong việc quản lí và duy trì một tổ chức. Một số người ăn chay ông
đã gặp là thành viên của hiệp hội Thần Trí học (hoặc Thông Thiên học),
được bà Helena Petrovna Blavatsky thành lập vào năm 1875 để hỗ trợ tình
người năm châu. Những nhà Thần Trí học này chuyên tâm nghiên cứu kinh
điển Phật giáo và Ấn Độ giáo. Họ khuyến khích Gandhi đọc Chí Tôn ca.
Mặc dù từ trước đây không tỏ vẻ hứng thú về tôn giáo, ông bắt đầu đọc
những tác phẩm nói về Ấn Độ giáo, Kitô giáo, Phật giáo và các tôn giáo
khác.
Ông trở về Ấn Độ sau khi được phép làm luật sư. Thành tựu của ông
trong việc mở văn phòng luật sư tại Mumbai chỉ hạn chế vì thời đó có rất
nhiều người làm nghề này và Gandhi không phải là một luật sư năng nổ tại
pháp tòa. Ông nộp đơn xin dạy bán thời gian tại trường trung học Mumbai,
nhưng bị từ chối. Cuối cùng, ông trở về Rajkot sống một cuộc sống khiêm
tốn bằng cách soạn lời thỉnh nguyện cho những người tố tụng, nhưng rồi
cũng phải đình chỉ công việc này vì xung đột với một quan viên người Anh.
Trong tự truyện của mình, Gandhi miêu tả sự kiện này như một sự cố gắng
du thuyết không kết quả vì lợi ích của người anh trai. Dưới bầu không khí
này (1893), ông chấp nhận một hợp đồng lâu dài của một công ty Ấn Độ,
nhậm chức tại Natal, Nam Phi.
Phong trào vận động quyền công dân tại Nam Phi
Gandhi tại Cộng hòa Nam Phi năm 1895
Gandhi và vợ, Kasturba, năm 1902
Vào thời điểm này, Gandhi là một người trầm tính, khiêm cung không
chú tâm về chính trị. Ông đọc báo lần đầu tiên năm lên 18 và thường run sợ
khi bước ra tòa thuyết trình. Nam Phi đã biến đổi ông một cách sâu sắc khi
ông chứng kiến sự hạ nhục và đàn áp mà cộng đồng Ấn Độ thường phải chịu
đựng nơi đây. Vào một ngày, khi quan tòa thành phố Durban yêu cầu
Gandhi gỡ khăn xếp (turban) trên đầu, ông từ chối và hùng hồn bước ra khỏi

tòa. Một móc ngoặc trong cuộc đời thường được các truyện kí thừa nhận - có
thể xem là chất xúc tác cho chủ nghĩa hành động của ông - xảy ra ít lâu sau,
khi ông bắt đầu một cuộc hành trình đến Pretoria. Ông bị vất ra khỏi xe lửa
tại Pietermaritzburg sau khi từ chối chuyển từ toa xe hạng nhất đến toa hạng
ba, vốn thường được những người da mầu sử dụng mặc dù đã mua vé hạng
nhất. Không lâu sau, trong cuộc hành trình bằng xe ngựa, ông bị người lái xe
đánh vì từ khước nhường chỗ cho một du khách châu Âu. Ông cũng kham
chịu nhiều khổ đau khác như bị loại ra nhiều khách sạn vì chỉ mầu da của
mình. Kinh nghiệm này khiến Gandhi quan sát kĩ hơn những thống khổ
người đồng hương phải chịu đựng tại Nam Phi trong thời gian ông làm việc
tại Pretoria. Chính trong thời gian tại Nam Phi, qua sự chứng kiến tận mắt
chế độ kì thị chủng tộc, thành kiến và bất công, Gandhi bắt đầu thám vấn địa
vị trong xã hội của những người đồng hương và của chính mình.
Khi hợp đồng làm việc chấm dứt, Gandhi thu xếp trở về Ấn Độ. Tuy
nhiên, trong buổi tiệc tiễn đưa tại Durban, ông tình cờ đọc một bài báo nói
về một dự thảo pháp luật được Hội đồng lập pháp Natal đề nghị nhằm loại
bỏ quyền bầu cử của người di dân Ấn Độ. Khi đưa việc này ra thảo luận với
những người đồng hương, họ than không đủ kiến thức để phản đối dự thảo
và khẩn khoản yêu cầu Gandhi ở lại giúp họ. Ông phổ biến một số kiến nghị
đến cả hai, Viện Lập Pháp Natal và chính quyền Anh để phản đối dự thảo.
Mặc dù không ngăn được việc dự thảo này được duyệt, cuộc đấu tranh của
ông đã thành công trong việc soi rọi những điểm bất bình của người Ấn tại
Nam Phi. Những người hỗ trợ thuyết phục ông lưu lại Durban để tiếp tục
đấu tranh chống sự bất công được áp dụng đối với người Ấn tại đây. Ông lập
Hội nghị Ấn Độ tại Natal năm 1894 và chính mình giữ vai bí thư. Qua tổ
chức này, ông đã chuyển hóa cộng đồng người Ấn tại Nam Phi thành một
lực lượng chính trị hỗn tạp, làm tràn ngập chính quyền cũng như báo chí với
những lời trần thuật về sự bất mãn của người Ấn và những bằng chứng của
sự kì thị nơi người Anh tại Nam Phi.
Năm 1896, Gandhi trở về Ấn Độ với mục đích mang vợ con sang

Nam Phi. Năm 1897, khi trở lại Nam Phi, ông bị một nhóm bạo lực da trắng
tấn công và tìm cách sát hại bằng tư hình. Như một dấu hiệu đầu tiên của
thước đo nội tâm ảnh hưởng đến những cuộc đấu tranh sau này, Gandhi
khước từ việc tố cáo bất cứ cá nhân nào của nhóm bạo lực, nói rằng việc
không tìm sự bồi thường tại tòa án dựa trên cơ sở lỗi lầm cá nhân là một
trong những nguyên tắc chính của ông.
Khi Chiến tranh Nam Phi bắt đầu, Gandhi chủ trương là người Ấn
phải hỗ trợ chiến tranh để hợp pháp hóa yêu cầu trở thành công dân chính
thức. Ông tổ chức một nhóm tình nguyện cứu thương gồm 300 người Ấn Độ
và 800 người làm mướn. Tuy nhiên, sau khi chiến tranh kết thúc, tình trạng
của người Ấn tại Nam Phi không khả quan hơn, vẫn tiếp tục sa đoạ. Năm
1906, chính quyền Transvaal công bố một pháp án mới, bắt người Ấn Độ
của thuộc địa phải kí chứng. Tại một cuộc biểu tình lớn được tổ chức tại
Johannesburg vào tháng 9 ngay trong năm đó, Gandhi lần đầu áp dụng
nguyên tắc Chấp trì chân lí và đấu tranh bất bạo lực, khuyên các người đồng
hương phản bác luật mới và chịu đựng hình phạt để thực hiện việc này thay
vì phản kháng bằng phương tiện bạo lực. Dự án này được áp dụng, dẫn đến
một cuộc tranh đấu kéo dài 7 năm với hơn 7000 người Ấn bị bắt giam (trong
đó có Gandhi, bị bắt bỏ tù nhiều lần), đánh đập, thậm chí bị bắn vì đình
công, từ chối không kí chứng, đốt giấy kí chứng hoặc tham gia những cuộc
kháng cự bất bạo động khác. Mặc dù chính quyền thành công trong việc đàn
áp những người Ấn phản đối, tiếng thét gào của công chúng trước những
phương pháp tàn bạo được áp dụng bởi chính quyền Nam Phi cho những
người phản đối yên lặng hòa bình này cuối cùng đã bắt buộc tướng Jan
Christian Smuts luận bàn một phương án thoả hiệp với Gandhi.
Trong những năm sống tại Nam Phi, Gandhi đã lấy cảm hứng từ
quyển Chí Tôn ca cũng như những tác phẩm của Leo Tolstoi (đặc biệt là
quyển "Thiên đường nằm trong Bạn"), người đã trải qua một sự chuyển biến
tôn giáo sâu sắc với niềm tin vào một dạng "chủ nghĩa vô chính phủ" của
Kitô giáo. Gandhi dịch bài "Thư gửi đến một môn đồ Ấn Độ giáo" (A Letter

to a Hindu) của Tolstoi, được viết vào năm 1908 để phản ứng những đồng
hương Ấn Độ theo chủ nghĩa dân tộc một cách hung bạo. Hai người viết thư
cho nhau cho đến khi Tolstoi mất vào năm 1910. Bức thư của Tolstoi dùng
triết học Ấn Độ có nguồn từ các Phệ-đà và những lời khuyên của Hắc thiên
để hướng đến phong trào chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ đang tiến triển. Gandhi
cũng bị ảnh hưởng lớn qua tiểu luận nổi danh của Henry David Thoreau là
"Sự không phục tòng của công chúng". Những năm lưu trú tại Nam Phi với
tư cách một người chủ trương hành động chuyên về xã hội chính trị chính là
thời kì những khái niệm và kĩ thuật của phương pháp bất hợp tác và phản đối
bất bạo lực được phát triển. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu, ông
quyết định trở về Ấn Độ, mang theo tất cả những gì ông đã học được từ
những kinh nghiệm tại Nam Phi.
Phong trào đấu tranh giành độc lập Ấn Độ
Như đã thực hiện trong cuộc chiến Nam Phi, Gandhi khuyến khích
việc ủng hộ người Anh trong cuộc chiến (Thế chiến thứ nhất) và chủ động
khích lệ người Ấn tham gia quân đội. Khác với quan niệm của nhiều người
khác, cách biện luận duy lí của ông cho trường hợp này là quyền công dân
đầy đủ, tự do và quyền lợi trong Đế quốc Anh, và như vậy thì việc giúp nó
phòng vệ không có gì sai. Ông thuyết trình trước Quốc dân Đại hội Ấn Độ,
nhưng phần lớn là chính ông được hướng dẫn vào những chủ đề Ấn Độ,
chính trị và công chúng Ấn qua Gopal Krishna Gokhale, nhà lĩnh đạo được
tôn trọng nhất của đảng Quốc dân Đại hội bấy giờ.
Champaran và Kheda
Gandi năm 1918
Những thành tích lớn đầu tiên của Gandhi xảy ra vào năm 1918 với
cuộc kích động tại Champaran và phong trào Chấp trì chân lí tại Kheda mặc
dù ông chỉ thực hiện trên mặt danh nghĩa trong trường hợp thứ hai và người
chính chủ đạo là Sardar Vallabhbhai Patel, cánh tay phải của Gandhi. Tại
Champaran, một khu vực nằm trong tiểu bang Bihar, ông tổ chức cuộc
kháng cự cùng với hơn 10.000 nông dân không có đất, nông nô và những

nông gia nghèo khổ có số lượng đất không đáng kể. Họ bị ép buộc phải
trồng indigo và những nông sản bán được trên thị trường thay vì gieo trồng
những loại cung cấp thực phẩm cần thiết cho sự sinh tồn của họ. Bị đàn áp
bởi dân binh của điền chủ (phần lớn là người Anh), họ được trả công rất ít
nên cuộc sống rất vất vả cơ hàn. Thôn làng của họ rất dơ bẩn, thiếu vệ sinh.
Những vấn đề như uống rượu, kì thị dân ti tiện (untouchable) và khăn che
(purdah) ngày càng lan tràn. Giờ đây, ngay trước một cuộc chống đói kinh
hoàng, thực dân Anh lại đưa ra một loại thuế tàn ác, cứ y vào sự gia tăng
theo chu kì mà thu thuế. Tình thế rất tuyệt vọng và tại Kheda, bang Gujarat
thì sự việc nhìn chung cũng không khác.
Gandhi lập một Già-lam tại đó, tổ chức một nhóm người bao gồm
người giúp cố cựu và người mới từ địa phương. Ông tổ chức một công trình
nghiên cứu để có được một tổng quan về các thôn làng, xem xét những sự
tàn bạo và những tình tiết thống khổ bao gồm những trạng thái thoái hóa của
cuộc sống nói chung. Lập cơ sở trên lòng tự tin của người làng, Gandhi bắt
đầu chỉnh lí các thôn xóm, lập trường học và bệnh viện, khuyến khích chủ
làng xoá bỏ những việc hủ nát như phân biệt tiện dân, bắt phụ nữ mang khăn
che và áp chế họ.
Nhưng cuộc phát động có tổ chức đầu tiên của Gandhi xảy ra khi ông
bị cảnh sát bắt giam với lí do gây bạo động và được yêu cầu rời địa phương
này. Hàng trăm nghìn người biểu tình chống đối, vây quanh nhà giam, các
trạm cảnh sát và quan tòa đòi trả tự do lại cho ông, một sự việc pháp tòa
không muốn nhưng sau cũng phải thực hiện. Gandhi đứng đầu những cuộc
biểu tình có tổ chức chống lại điền chủ, và họ, dưới sự lĩnh đạo của chính
quyền Anh, đã kí một hiệp định đảm bảo trả lương cao hơn và kiểm soát
việc cho nông dân nghèo địa phương thuê đất, xoá bỏ việc tăng thuế cũng
như việc thu thuế đến khi nạn đói chấm dứt. Chính trong thời gian kích động
này, Gandhi được quần chúng tôn xưng là Bapu (quốc phụ) và Mahātmā. Tại
Kheda, Patel đại diện các nông gia trong những cuộc thương lượng với
chính quyền Anh với kết quả là họ tạm dừng thu thuế, đảm bảo trợ cấp. Tất

cả những người bị tù đều được thả ra. Danh tiếng Gandhi từ đây như một
ngọn lửa lan truyền khắp nước và ông đã trở thành năng lực ảnh hưởng nhất
định trong phong trào chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ.
Phát động phong trào bất hợp tác
Mahatma Gandhi (phải) đang đứng cạnh Muhammad Ali Jinnah (trái).
Dự thảo pháp luật Rowlatt được duyệt năm 1919, cho phép chính phủ
bắt giam những người bị vu khống gây loạn mà không cần đưa ra tòa duyệt.
Gandhi và đảng Quốc dân Đại hội tổ chức những cuộc biểu tình lớn phản
đối và đình công, và tất cả những cuộc phản đối này đều được tổ chức rất
hòa bình trên khắp nước. Tất cả những thành phố và thị xã lớn đều đóng
cửa; các hoạt động cơ quan chính phủ đều phải được quân đội đảm nhiệm.
Hàng nghìn người bị bắt giam, lệnh giới nghiêm được áp dụng ở nhiều vùng
của Ấn Độ. Tại Punjab, cuộc đại tàn sát ở Amritsar với 379 người dân bị giết
bởi quân đội Anh và Ấn Độ đã gây chấn thương nặng nề cho đất nước, gia
tăng phẫn oán nơi quần chúng cũng như những hành vi bạo lực.
Gandhi phê bình cả hai, hành vi của người Anh và bạo lực phục thù
của người Ấn. Ông viết một bài phân ưu cùng với những nạn nhân Anh và
lên án những cuộc bạo động. Bài này ban đầu bị phản đối trong đảng, nhưng
được chấp thuận sau một bài thuyết giảng của Gandhi mà trong đó, ông đề
cao nguyên tắc là tất cả những hành vi bạo lực đều có hại, không thể được
biện minh. Người Ấn không mang tội vì sự kì thị của người Anh, và không
nên trừng phạt công dân Anh vô tội.
Nhưng sau cuộc tàn sát lớn và bạo lực này, Gandhi nhận thức được là
không chỉ người Ấn chưa được chuẩn bị cho việc kháng cự số đông, mà sự
cai trị của người Anh đích thật tàn ác và nó có bản chất là đàn áp. Gandhi
giờ đây chú tâm đến việc giành quyền tự trị và quyền quản lí tất cả những cơ
quan chính quyền Ấn Độ, vươn đến trạng thái tự chủ (svarāj), nghĩa là sự tự
chủ toàn vẹn về mặt cá nhân, tâm linh và chính trị.
Tháng 4 năm 1920, Gandhi được bầu làm chủ tịch hội Liên hiệp Tự trị Toàn
Ấn Độ (All India Home Rule League). Ông được trao uy quyền chấp hành

trong đảng Quốc dân Đại hội tháng 12 năm 1921. Dưới sự lĩnh đạo của
Gandhi, Quốc dân Đại hội được tổ chức lại với một hiến pháp mới có mục
đích là tự chủ. Ai cũng có thể trở thành đảng viên sau khi đóng một lệ phí
trên danh nghĩa. Một tổ chức có giai cấp của các uỷ ban được thành lập
nhằm cải thiện kỉ luật và kiểm soát những phong trào từ trước đến giờ không
có định hình và khuếch tán, chuyển biến đảng từ một tổ chức tinh duệ số ít
thành một đảng lớn với sức lôi cuốn toàn quốc. Gandhi mở rộng mặt trận bất
bạo lực, bao gồm chính sách "bản quốc" (svadeshi) - nghĩa là tẩy chay
những sản phẩm ngoại lai, đặc biệt là những sản phẩm Anh. Liên hệ với
chính sách này là sự ủng hộ việc mang y phục tự dệt ở nhà, được gọi là
khadi, của ông, khuyên tất cả các người Ấn ăn mặc như vậy thay vì dùng đồ
vải của người Anh. Gandhi khuyến cáo toàn dân, nam cũng như nữ, mỗi
ngày dành chút thời gian để dệt vải ủng hộ phong trào đấu tranh giành độc
lập. Đây là chiến thuật nhằm khắc sâu kỉ luật và sự cống hiến để loại trừ
những người không có thiện ý và những người hoài bão, và bao gồm phụ nữ
vào phong trào ở một thời điểm mà nhiều người cho rằng, những việc làm
như vậy không đáng trọng cho phụ nữ.
Thêm vào việc tẩy chay các sản phẩm Anh, Gandhi cũng khuyến
khích dân chúng tẩy chay các cơ quan giáo dục và pháp tòa Anh, từ chức
không làm cho chính quyền, từ chối không đóng thuế và huỷ bỏ những danh
hiệu, huy chương Anh. Chương trình mới này đã đạt được sức lôi cuốn và
thành công rộng lớn, gia lực cho người Ấn chưa từng có từ xưa nay. Nhưng
khi phong trào vừa đạt đỉnh điểm thì đã chấm dứt một cách đột ngột vì một
cuộc xung đột bạo lực tại thị xã Chauri Chaura, bang Uttar Pradesh vào
tháng 2 năm 1922. Lo ngại phong trào sẽ quay về phương tiện bạo lực và tin
chắc rằng sự việc này có thể lật đổ tất cả những công trình của mình, Gandhi
liền huỷ bỏ chiến dịch bất phục tòng. Giờ đây, như một người đã phô bày
nhược điểm của mình, Gandhi bị bắt bỏ tù ngày 10 tháng 3 năm 1922, bị đưa
ra tòa vì lí do gây loạn và kết án sáu năm tù. Đây không phải lần đầu Gandhi
vị bỏ tù nhưng là lần bị giam cầm lâu nhất. Bắt đầu từ ngày 18 tháng 3 năm

1922, ông ngồi tù khoảng hai năm và được thả tháng 2 năm 1924 sau một ca
mổ viêm ruột thừa.
Không có nhân cách hùng mạnh của Gandhi để kiềm chế các người
đồng sự, đảng Quốc dân Đại hội bắt đầu tan vỡ, phân thành hai phái trong
thời gian ông ngồi tù. Một phái được dẫn đầu bởi Chitta Ranjan Das và
Motilal Nehru, ủng hộ việc đảng tham dự cơ quan lập pháp. Phái thứ hai
được dẫn đầu mởi Chakravarti Rajagopalachari và Sardar Vallabhbhai Patel,
phản đối việc này. Thêm vào đó là việc hợp tác giữa tín đồ Ấn Độ giáo và
Hồi giáo mạnh mẽ trong những chiến dịch bất bạo động giờ đây sa sút.
Gandhi tìm cách bắc cầu nối những điểm sai biệt này bằng nhiều phương
tiện, bao gồm một cuộc tuyệt thực ba tuần mùa thu năm 1924, nhưng chỉ với
kết quả hạn chế.
Những năm 1930: Hội đồng Simon, Chấp trì chân lí muối
Gandhi trong cuộc hành trình Chấp trì chân lí Muối năm 1930
Gandhi và Charlie Chaplin, chụp năm 1931
Trong hầu hết những năm thuộc thập niên 1920-30, Gandhi đứng bên
ngoài ánh đèn công chúng. Ông chú trọng đến việc giải quyết cái nêm giữa
đảng Swaraj và Quốc dân Đại hội, và khai mở các phương pháp chống kì thị
dân vô giai cấp, uống rượu, thiếu học và nghèo đói. Ông trở về địa vị hàng
đầu vào năm 1928. Một năm trước đó, chính quyền Anh đề cử một hội đồng
cải cách hiến pháp dưới sự lĩnh đạo của Sir John Simon mà không có tên
một người Ấn nào trong hội đồng. Kết quả của việc này là sự tẩy chay hội
đồng của các đảng Ấn Độ. Gandhi thúc đẩy một nghị quyết thông qua Quốc
dân Đại hội Calcutta vào tháng 12 năm 1928, kêu gọi chính quyền Anh đảm
bảo địa vị chủ quyền (dominion status) trong vòng một năm hoặc là sẽ đối
đầu một chiến dịch bất bạo lực mới với mục đích giành độc lập hoàn toàn
cho đất nước.
Ngày 26 tháng 1 năm 1930 được Quốc dân Đại hội Ấn Độ - lúc đó
đang hội họp tại Lahore - đề cao là ngày kỉ niệm độc lập Ấn Độ. Nó được
tưởng niệm bởi hầu hết tất cả những tổ chức chính trị Ấn Độ khác, những tổ

chức nỗ lực giành độc lập đất nước hoặc tiến đến việc trao quyền xã hội
chính trị cho những cộng đồng khác nhau.
Như đã tuyên bố trước đây, vào tháng ba năm 1930, ông phát động
một chiến dịch Chấp trì chân lí phản đối thuế muối, được nhấn mạnh bởi
cuộc Hành trình muối (Salt March) đến Dandi nổi tiếng kéo dài từ 21 tháng
3 đến 6 tháng 4 năm 1930. Ông đi bộ 400 km từ Ahmedabad đến Dandi để
lấy muối cho riêng mình. Hàng nghìn dân chúng Ấn Độ tham gia cuộc hành
trình đến bờ biển này. Hành trình muối này là một trong những chiến dịch
thành công nhất của ông với kết quả là hơn 60.000 người bị bắt giam. Chính
quyền, được đại diện qua Lord Irwin, quyết định thương lượng với Gandhi.
Hiệp ước Gandhi-Irwin được đóng dấu tháng 3 năm 1931. Trong đó,
chính quyền Anh đồng ý thả tất cả những tù nhân chính trị để bù cho việc
đình chỉ cuộc vận động bất phục tòng. Thêm vào đó, Gandhi được mời sang
Anh tham dự hội nghị bàn tròn (Round Table Conference) tại Luân Đôn với
tư cách người đại diện duy nhất của Quốc dân Đại hội Ấn Độ. Hội nghị này
là một thất vọng cho Gandhi cũng như những người theo chủ nghĩa dân tộc
bởi vì nó chỉ lưu ý đến những tiểu vương cũng như những nhóm thiểu số Ấn
Độ hơn là một sự phó truyền quyền lực (transfer of power). Ngoài ra, người
thừa kế Lord Irwin là Lord Willingdon đã bắt đầu một chiến dịch mới để đàn
áp những đại biểu chủ nghĩa dân tộc.
Một lần nữa, Gandhi bị bắt giam, và chính quyền tìm cách đập tan ảnh
hưởng của ông bằng cách cách li hoàn toàn ông và các người đi theo ủng hộ.
Chiến lược này không hiệu quả. Năm 1932, qua chiến dịch của B. R.
Ambedkar - lĩnh tụ của những người Dalit - chính quyền đảm bảo cho dân ti
tiện Dalit những khu bầu cử riêng trong hiến pháp mới. Để phản đối việc
này, Gandhi bắt đầu một cuộc tuyệt thực 6 ngày vào tháng 9 năm 1932,
thành công trong việc buộc chính quyền tiếp nhận một hệ thống công bằng
hơn qua sự thương lượng qua trung gian là ông Palwankar Baloo, vốn là một
người Dalit chơi ngoạn bản cầu (cricketer), sau trở thành nhà chính trị. Đây
cũng là khởi điểm của một chiến dịch mới của Gandhi với mục đích cải

thiện cuộc sống của dân ti tiện, những người được ông gọi là Harijan, "con
của trời Hari". Ngày 8 tháng 5 năm 1933, Gandhi bắt đầu một cuộc tuyệt
thực 21 ngày để phản đối sự đàn áp của người Anh tại Ấn Độ
[7]
. Mùa hè năm
1934, ông ba lần bị mưu hại không thành công.
Khi đảng Quốc dân Đại hội Ấn Độ tranh luận về tuyển cử và chấp
nhận quyền chính trị dưới kế hoạch liên bang, Gandhi quyết định rời đảng.
Ông hoàn toàn không chống đối phương án này của đảng nhưng cảm thấy
rằng nếu ông rút lui thì hình tượng của ông đối với thường dân Ấn Độ sẽ
ngưng đè nén toàn thể hội viên của đảng vốn có bản chất đa dạng: thành
viên theo chủ nghĩa cộng sản, xã hội, công đoàn, sinh viên, tôn giáo bảo thủ,
kinh doanh và quyền sở hữu. Gandhi cũng không muốn mình là mục tiêu
của sự tuyên truyền của chính quyền Anh khi lĩnh đạo một đảng đã có lần
tạm thời thừa nhận sự phù hợp chính trị với chính quyền Anh.
Gandhi trở về địa vị lĩnh đạo năm 1936 khi Jawaharlal Nehru nắm
chức chủ tịch và Quốc dân Đại hội đang họp tại Lucknow. Mặc dù Gandhi
mong muốn sự tập trung tuyệt đối vào việc giành độc lập, không chú tâm
vào việc suy đoán về chính quyền Ấn Độ tương lai, nhưng ông không ngăn
được việc Quốc dân Đại hội chọn chủ nghĩa xã hội là mục tiêu.
Gandhi cũng phê bình Subhas Chandra Bose và việc ông thăng tiến,
nhậm chức chủ tịch vào năm 1938. Trong khi một số sử gia cho rằng đây là
một cuộc tranh quyền giữa hai nhà lĩnh đạo lớn thì Gandhi cơ bản phản đối
việc Bose không thừa nhận nguyên tắc bất bạo lực cũng như dân quyền, hai
điểm được Gandhi xem là nền tảng cho cuộc đấu tranh. Nguyện vọng phát
động một cuộc khởi nghĩa khắp nơi chống chính quyền Anh của Bose không
hàm dung việc chuẩn bị không dùng bạo lực của những người tham gia và
trong năm đầu giữ quyền chủ tịch, Bose tập trung vào việc đưa những người
thân cận lên nắm những chức quan trọng.
Bose được nhậm chức lần thứ hai mặc dù bị Gandhi chỉ trích, nhưng

rời Quốc dân Đại hội khi tất cả những thành viên chức cao khác từ chức
hàng loạt để phản đối việc ông từ bỏ những nguyên tắc Gandhi đã đưa vào
trong những năm đầu thập niên 1920. Năm 1938-1939, tất cả những ứng cử
viên của Quốc dân Đại hội từ chức khi Quốc hội phản đối sự sáp nhập Ấn
Độ một mặt vào Thế chiến thứ hai mà không tham vấn những đại biểu được
bầu.
Gandhi tiếp tục cuộc đấu tranh chống sự kì thị dân Dalit, khuyến
khích việc dệt tay và các ngành kĩ nghệ tại gia khác. Ông cũng cố gắng kiến
lập một hệ thống giáo dục mới thích hợp cho những vùng thôn dã. Gandhi
sống giản dị trong những năm này trong một thôn làng trung tâm Ấn Độ với
tên Sevagram. Ngày 3 tháng 3 năm 1939, ông lại tuyệt thực một lần nữa.
"Làm hay chết": Thế chiến thứ hai và "Rời Ấn Độ"
Jawaharlal Nehru và Gandhi năm 1942
Thế chiến thứ hai bùng nổ năm 1939 khi Đức quốc xã xâm lấn Ba
Lan. Gandhi hoàn toàn đồng cảm với nạn nhân của sự xâm chiếm này. Sau
khi cân nhắc kĩ cùng những người đồng nghiệp trong Quốc hội, ông công bố
rằng Ấn Độ không thể tham gia một cuộc chiến với mục đích bề ngoài là
giành tự do dân chủ trong khi chính tự do dân chủ này bị phủ nhận tại Ấn
Độ. Gandhi nói rằng ông sẽ hỗ trợ người Anh nếu họ cho ông thấy cách áp
dụng mục đích của cuộc chiến tại Ấn Độ sau chiến tranh. Phản ứng của
chính quyền Anh hoàn toàn phủ định. Họ bắt đầu tạo sự căng thẳng giữa
môn đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Khi chiến tranh tiến hành, Gandhi nâng cao
yêu cầu, thảo một nghị quyết kêu gọi người Anh "Rời Ấn Độ" (Quit India).
Đây là sự phản đối quyết định nhất, cực lực nhất của Gandhi và đảng
Quốc dân Đại hội với mục tiêu xác nhận việc người Anh rời nước Ấn.
Gandhi bị một số người trong Quốc hội và một số nhóm chính trị khác -
thuộc cả hai mặt, theo Anh và chống Anh - chỉ trích. Một số người cho rằng,
đối lập người Anh trong thời đoạn chiến đấu sinh tử của họ là một việc phi
đạo đức trong khi một số người khác lại cho rằng Gandhi chưa thực hiện đủ
yêu cầu. Nhiều đảng chính trị phản đối lời kêu gọi của Gandhi. Ngoài sức

khoẻ và tuổi tác ra, đây có lẽ là bước tiến dẫn cuối cùng của Gandhi.
Nó đã dẫn khởi một cuộc vận động đấu tranh giành độc lập Ấn Độ lớn
nhất cho đến bây giờ - với sự bắt giam số đông và bạo lực ở một mức độ
chưa từng có. Hàng nghìn người kháng cự bị sát hại hoặc bị thương dưới
nòng súng cảnh sát, và hàng trăm nghìn người đấu tranh giành độc lập bị bắt
giam. Gandhi và những người hỗ trợ ông nói rõ rằng họ sẽ không giúp người
Anh trong thế chiến nếu Ấn Độ không được đảm bảo tự do ngay lập tức.
Gandhi thậm chí nói rằng không thể đình chỉ cuộc vận động trong thời điểm
này ngay trong trường hợp những hành vi bạo lực cá nhân xảy ra. Ông cho
rằng, tình trạng "vô chính phủ có tổ chức" xung quanh ông "nguy hiểm hơn
là vô chính phủ thật sự". Ông yêu cầu tất cả những thành viên Quốc hội và
dân chúng duy trì kỉ luật hòa bình và "làm hay chết" vì tự do tuyệt đối.
Gandhi và toàn bộ ban chấp hành Quốc hội bị bắt giam ngày 9 tháng 8
năm 1942 tại Mumbai bởi lực lượng quân đội nước Anh. Gandhi bị giam hai
năm trong điện Aga Khan tại Pune. Tại đây, Gandhi trải qua những nỗi khổ
lớn nhất của cuộc đời, đó là cái chết của vợ Kasturbai chỉ vài tháng sau khi
Mahadev Desai - người thư kí được ông xem như con trai - chết vì bị nhồi
máu cơ tim vào tuổi 42. Gandhi được thả trước khi chiến tranh chấm dứt vì
sức khoẻ sa sút và một ca mổ cần thiết. Chính quyền Anh không muốn ông
chết trong tù vì đây là một sự kiện có thể làm lòng căm phẫn của công chúng
vượt khỏi tầm kiểm soát.
Mặc dù sự đàn áp tàn nhẫn này mang đến một trạng thái trật tự tương
đối tại Ấn Độ cuối năm 1943, nhưng phong trào "Rời Ấn Độ" đã thành công
với những mục tiêu của nó. Khi chiến tranh chấm dứt, người Anh đã đưa ra
những dấu hiệu rõ ràng là quyền cai trị sẽ được chuyển đến tay Ấn Độ.
Gandhi đình chỉ cuộc đấu tranh, những người lĩnh đạo Quốc hội và khoảng
100.000 người tù chính trị được thả. Sau 90 năm phấn đấu, tự do giờ đây
nằm trong tầm tay Ấn Độ
Tự do và sự phân chia Ấn Độ
Gandhi khuyên Quốc hội từ khước những đề nghị trong kế hoạch của

phái đoàn chính phủ Anh năm 1946 vì ông rất nghi ngờ việc chia quyền với
Liên minh Hồi giáo (Muslim League) cũng như sự phân chia và hạ giảm
chính quyền trung ương có thể xảy ra. Gandhi cảnh cáo sự tập hợp được đề
nghị dành cho những liên bang có số đông người Hồi. Tuy nhiên, đây là một
trong những lần ít ỏi mà Quốc hội không nghe lời Gandhi (nhưng không đặt
câu hỏi về quyền lĩnh đạo) vì những người cầm đầu không những muốn lập
chính quyền nhanh như có thể khi người Anh trao quyền lại, mà còn muốn
ngăn cản Mohammed Ali Jinnah và Liên minh Hồi giáo đạt vị trí ngang
hàng với đảng Quốc dân Đại hội, vốn có bản chất dân tộc và hiện thế hơn.
Trong thời gian 1946-1947, hơn 5000 dân bị sát hại. Liên minh được
ủng hộ mạnh ở những bang có nhiều người theo Hồi giáo như Punjab,
Bengal, Sindh, NWFP (North-West Frontier Province, Pakistan) và
Baluchistan. Kế hoạch phân chia được ban lĩnh đạo Quốc hội thừa nhận là
phương pháp duy nhất để ngăn cản một cuộc nội chiến lớn giữa môn đồ Ấn
Độ giáo và Hồi giáo.
Những nhà lĩnh đạo cố cựu của Quốc hội biết rõ Gandhi sẽ phản đối
cực lực sự phân chia, nhưng họ cũng thừa biết là Quốc hội không tiến bước
nếu không có sự thoả thuận của ông vì sự hỗ trợ trong đảng và toàn quốc
dành cho Gandhi rất sâu rộng. Những người bạn đồng nghiệp thân cận nhất
của ông đã chấp nhận việc phân chia như phương án giải đáp tốt nhất, và
Sardar Patel cố gắng thuyết phục Gandhi đây là con đường duy nhất để tránh
cuộc nội chiến. Gandhi cuối cùng xuôi lòng, tán đồng bước thực hiện này.
Gandhi có hảnh hưởng lớn trong các cộng đồng Ấn Độ giáo và Hồi
giáo tại Ấn Độ. Tương truyền chỉ sự hiện diện của ông thôi cũng đủ chấm
dứt các cuộc bạo động. Ông phản đối kịch liệt tất cả những kế hoạch phân
chia Ấn Độ thành hai quốc gia độc lập. Liên minh Hồi giáo luận cứ rằng
thiểu số người Hồi giáo sẽ bị bức áp một cách có hệ thống bởi phần lớn môn
đồ Ấn Độ giáo trong một quốc gia Ấn Độ thống nhất, và một quốc gia riêng
cho người theo Hồi giáo là một giải pháp hợp lí. Tuy nhiên, nhiều người Hồi
giáo ở trung tâm Ấn Độ - vốn chung sống với người Ấn giáo, đạo Sikhs,

Phật giáo, Kì-na giáo, đạo Parsi, Kitô giáo và đạo Do Thái - lại muốn một
quốc gia Ấn Độ thống nhất. Nhưng Jinnah ra lệnh hỗ trợ rộng rãi các vùng
Tây Punjab, Sindh, NWFP và Đông Bengal, tất cả những vùng đã hợp thành
dạng Pakistan và Bangladesh ngày nay. Xứ sở mới của người theo Hồi giáo
được kiến lập từ các vùng Đông và Tây Ấn Độ. Ban đầu nó được gọi là Tây
và Đông Pakistan, và giờ đây tương ưng với Pakistan và Bangladesh. Ngày
trao quyền chính trị, Gandhi không ăn mừng độc lập cùng với công chúng
Ấn Độ mà chỉ đơn độc tại Kolkata, đau buồn về sự phân chia và tiếp tục
công việc nhằm chấm dứt bạo lực
Đời sống cá nhân trong thời kì đấu tranh
Gandi cùng vợ tới thăm Rabindranath Tagore tai Shantiniketan năm 1940
Gandhi và vợ Kasturba đi khắp nước và lưu trú ở những Già-lam ở
Gujarat và Maharashtra hoặc tại nhà những người bạn và những người hâm
mộ. Những lần đến Delhi, họ ngụ tại tòa nhà Birla (Birla House) được cấp
bởi người bạn thân là Ghanshyamdas Birla. Một thời Gandhi trú tại chung
cư Bhangi (Bhangi Colony), trung tâm của sự việc chống kì thị giai cấp của
ông.
Gandhi là một người say mê viết thư, luôn thử nghiệm các cách điều
chế ăn uống, trau dồi nhận thức tôn giáo và triết học, nhưng chủ yếu là tư
duy về các sự kiện chính trị. Ông cũng đã chỉ đạo những công việc trong
một Già-lam và chỉ dẫn các môn đệ trong những vấn đề cá nhân.
Ám sát
Ngày 30 tháng 1 năm 1948, trên đường đến một nơi thờ tụng, Gandhi
bị bắn chết bởi Nathuram Godse tại tòa nhà Birla ở New Delhi. Godse là
một môn đồ Ấn giáo cực đoan được người đương thời cho là có mối quan hệ

×