SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
HƯỚNG DẪN HỌC SINH CÁCH PHÂN
ĐOẠN PHẦN THÂN BÀI KHI LÀM BÀI
VĂN TỰ SỰ TRONG PHÂN MÔN TẬP
LÀM VĂN Ở LỚP 6
1. Tên sáng kiến kinh nghiệm: Hướng dẫn học sinh cách phân đoạn phần
Thân bài khi làm bài Văn tự sự trong phân môn Tập làm văn ở lớp 6
2. Mô tả ý tưởng
a. Hiện trạng và nguyên nhân chủ yếu của hiện trạng.
Môn Ngữ văn trong nhà trường THCS chia làm ba phân môn : Văn học,
Tiếng Việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn Tập làm văn là phân
môn học sinh ngại học nhất. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói : “Dạy làm
văn là chủ yếu dạy cho học sinh diễn tả cái gì mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ một
cách trung thành, sáng tỏ, chính xác, làm nổi bật điều mình muốn nói …”( Dạy văn là
một quá trình rèn luyện toàn diện, Nghiên cứu giáo dục, số 28, 11/1973 ).
Chúng ta đã biết môn Tập làm văn là một môn khó, muôn hình vạn trạng vì các
em học sinh không đủ vốn từ để làm một bài Tập làm văn, không biết là nó bắt đầu
từ đâu và kết thúc như thế nào, không nắm được đặc trưng của từng thể loại.
Tập làm văn là môn học thực hành tổng hợp ở trình độ cao của môn Văn- Tiếng
Việt. Tập làm văn được xem như vị trí cốt lõi trong mối tương quan chặt chẽ với
Văn và Tiếng Việt. Tiếng Việt dạy cho các em cách sử dụng từ ngữ, cách viết câu,
sử dụng các biện pháp tu từ. Văn học giúp các em có đủ khả năng hiểu, phân tích
một vấn đề, cảm nhận cái hay, cái đặc sắc của tác phẩm, rèn cho các em biết cảm
xúc rung động trước cái đẹp của ngôn từ. Vì vậy, phân môn Tập làm văn có tốt hay
không là cách sử dụng từ ngữ, cách viết câu, phân đoạn, chia bố cục. Nội dung có
cảm xúc hay không là kết quả học tập và rèn luyện của hai phân môn Văn học và
Tiếng Việt.
Nhưng học tốt Văn học và Tiếng Việt chưa chắc đã làm tốt một bài Tập làm
văn nếu các em không nắm được các bước cơ bản khi tiến hành một bài Tập làm văn
đó là những bước gì. Mỗi bước có điểm gì cần lưu ý. Đặc biệt hơn, cái sai lớn nhất
của các em là không biết phân đoạn, cách trình bày đoạn văn như thế nào cho phù
hợp. Đó là vấn đề mà các em chưa thực sự quan tâm lắm.
Trong chương trình Ngữ văn THCS ở lớp 6 học sinh được học văn tự sự trong
cả Học kì I. Tuy học sinh đã học văn tự sự ở lớp 4 Tiểu học gần như hết một học kì
nhưng nhiều lí do các em làm loại văn này chưa tốt nhất là phần Thân bài, thường
các em chỉ viết có một đoạn văn. Không chỉ ở học sinh lớp 6 mà ngay cả học sinh
lớp 7,8,9 khi làm một bài Tập làm văn khi viết phần Thân bài các em thường chỉ viết
có một đoạn văn. Đó là điều mà tôi trăn trở trong quá trình dạy học nhất là dạy học
sinh làm một bài Tập làm văn.
Người giáo viên bao giờ cũng muốn học trò của mình làm được những bài văn
hay nhưng đó không phải là việc dễ. Bài văn hay trước hết phải là viết đúng (đúng
theo nghĩa tương đối, nghĩa là trong khuôn khổ nhà trường).Hay và đúng có quan hệ
mật thiết với nhau. Bài văn hay trước hết phải viết đúng theo yêu cầu của đề bài,
đúng những kiến thức cơ bản, hình thức trình bày đúng quy cách,…
Hình thức trình bày là sự thể hiện hình thức bố cục của bài văn trên trang giấy.
Một bài văn đúng quy cách là bài văn mà khi nhìn vào tờ giấy, chưa cần đọc đã thấy
rõ ba phần : Mở bài, Thân bài và Kết bài. Muốn thế người viết không phải chỉ chú ý
đến nội dung mà cả hình thức cũng phải rõ.
Yêu cầu là vậy nhưng trong thực tế dạy - học tôi thấy bài văn của học sinh chưa
đáp ứng được yêu cầu đó là bao. Bài làm của các em vẫn còn hiện tượng, đoạn văn
còn sai quy cách, giữa các đoạn chưa có sự liên kết.Từ thực tế giảng dạy, tôi thấy các
em chưa biết lập dàn bài, chia bố cục, dựng đoạn ( ở phần Thân bài trong các kiểu
văn bản thường chỉ có một đoạn văn ) trước khi bước vào khâu viết văn bản. Thế là
nhớ đâu viết đó, viết lan man không chủ đích dẫn đến quên ý, ý nọ xọ ý kia, bài văn
không nhất quán, không làm nổi bật một nội dung nào đó.
Với Tập làm văn cái đích đó là kĩ năng nói, viết theo chuẩn văn hóa trung bình
từng cấp về từng kiểu loại văn bản. Ở Tiểu học, có thể chỉ là tập nói đúng, viết đúng
những câu, những bài nói, bài viết ngắn gọn phù hợp ở mức ban đầu. Ở cấp THCS,
ngôn ngữ, vốn sống, tư duy đã phát triển, việc tập nói, tập viết đã có thể hướng tới
văn bản tương đối hoàn chỉnh với tính cách thể loại tương đối rõ để đáp ứng nhu cầu
giao tiếp trong đời sống sẽ hòa nhập trong tương lai gần ( ở độ tuổi trưởng thành ).
Như vậy chúng ta dạy Tập làm văn cho học sinh là dạy cho các em nắm vững
văn bản. Rèn luyện cho học sinh là rèn luyện cho các em các thao tác, những cách
thức, những bước đi trong quá trình tạo lập văn bản.
Về phía giáo viên, trước đây khi dạy văn tự sự cho các em, tôi mới chỉ giúp các
em nắm bắt những nội dung cơ bản trong sách giáo khoa. Trong quá trình dạy chỉ
dạy văn tự sự ở những tiết học Tập làm văn, chưa tận dụng được thời gian ở phân
môn Văn học, Tiếng Việt để tích hợp với phần Tập làm văn. Đặc biệt chưa chú trọng
luyện tập và ra bài tập về nhà cho các em để từ đó hình thành kĩ năng làm bài.
Về phía học sinh, do đời sống còn nhiều khó khăn, một số em ngoài giờ học
còn phải phụ gia đình nên ít có thời gian để đọc các tài liệu tham khảo, mở rộng hiểu
biết, ít có điều kiện cũng như thời gian luyện tập.
Do đó, tôi thấy cần phải tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra giải pháp tốt nhất giúp học
sinh làm tốt bài văn tự sự ngay từ những ngày đầu tiếp cận với chương trình Ngữ văn
cấp THCS, nhất là biết cách phân đoạn phần Thân bài. Qua thời gian tìm tòi và vận
dụng, cho đến nay tôi đã tìm cho mình một số cách làm mang lại hiệu quả cao.
Trong cách làm đó vấn đề tích hợp có vai trò rất quan trọng. Đó cũng là yêu cầu của
dạy học Ngữ văn hiện nay.
Đó là tất cả những điều mà tôi thật sự quan tâm trước thực trạng dạy và học
phân môn Tập làm văn hiện nay.Vì thế, tôi quyết định chọn giải pháp : Kinh nghiệm
hướng dẫn học sinh cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự trong
phân môn Tập làm văn ở lớp 6 trường THCS.
b) Ý tưởng
- Được nhà trường phân công giảng dạy lớp 6A, 6B từ đầu năm học, tôi nhận
thấy tình hình viết bài Tập làm văn của các em còn hạn chế về cách phân đoạn phần
Thân bài khi làm bài văn tự sự, nên tôi tìm cách nghiên cứu giải pháp Hướng dẫn
học sinh cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự trong phân môn
Tập làm văn lớp 6.
- Trong phạm vi sáng kiến, tôi chỉ đề cập đến các tiết Tập làm văn ở kiểu văn
bản tự sự của sách giáo khoa Ngữ văn 6.
3. Nội dung công việc
- Tiến hành bằng các phương pháp sau:
* Phương pháp đọc tài liệu :
- Sách giáo khoa Ngữ văn 6 tập 1, tập 2
- Sách giáo viên Ngữ văn 6 tập 1, tập 2
-Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn THCS
- Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS môn Ngữ văn –
Nhà xuất bản Giáo dục
- Các dạng bài Tập làm văn và cảm thụ thơ văn lớp 6 –Cao Bích Xuân – Nhà
xuất bản Giáo dục.
* Phương pháp đàm thoại:
- Tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của học sinh về việc học, về sự yêu thích bộ
môn, về hoàn cảnh gia đình, … qua việc gần gũi, thăm hỏi trong 15 phút đầu giờ, giờ
giải lao, sinh hoạt chủ nhiệm.
- Kiểm tra việc học Tập làm văn của học sinh ở đầu năm, thống kê kết quả .
* Phương pháp thăm lớp dự giờ đồng nghiệp:
- Dự giờ các bạn đồng nghiệp trong tổ, xem xét tình hình học tập của học
sinh về cách thực hành viết bài văn tự sự để bản thân rút ra ưu, khuyết điểm của việc
dạy học sinh cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự ở lớp 6.
4. Triển khai thực hiện
* Quy trình:
- Đối với giáo viên :
Người giáo viên phải nắm lấy ưu thế của học sinh như những tri thức, vốn
sống, tư tưởng, tình cảm để phát huy những khả năng cao hơn. Đồng thời, qua đó
uốn nắn, điều chỉnh, hạn chế những lệch lạc trong nhận thức, vốn sống, tư tưởng của
các em.
Giáo viên không chỉ đóng vai trò là người truyền đạt tri thức mà phải là
người tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, gợi mở, cố vấn, trọng tài cho các hoạt động tìm
tòi, khám phá, giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới. Giáo viên phải có năng lực
đổi mới phương pháp dạy học, chuyển từ kiểu dạy tập trung vào vai trò của học sinh
và hoạt động học, từ cách dạy thông báo - giải thích - minh họa sang cách dạy hoạt
động tìm tòi khám phá.
Việc luyện viết đoạn văn tự sự là rất cần thiết, học sinh viết tốt đoạn văn tự
sự có nghĩa là học sinh đã nắm được những yêu cầu của đoạn văn.
Trong thực tế giảng dạy môn Tập làm văn lớp 6 ở trường THCS hiện nay đặt
trọng tâm ở thực hành : xây dựng bài qua thực hành, thực hành nhận biết và thực
hành làm văn bản. Do đó điểm mới và khó trong chương trình là phương pháp dạy
thực hành.
Củng cố kiến thức Tiếng Việt và Văn học góp phần bồi dưỡng tâm hồn, trí
tuệ để học sinh biết rung động trước cái hay, cái đẹp, hướng các em tới nhu cầu thẩm
mỹ, sáng tạo và biết tôn trọng những giá trị thẩm mỹ khi làm một bài văn tự sự.
Tập làm văn là một phân môn khó, đặc biệt yêu cầu về kĩ năng càng khó hơn,
đòi hỏi chúng ta phải dày công, kiên trì dạy các em. Là phân môn có tính thực hành
cao nên giáo viên cần rèn cho học sinh nắm vững lí thuyết để vận dụng vào thực
hành đạt kết quả.
- Đối với học sinh :
Để việc làm một bài Tập làm văn đạt chất lượng, bản thân học sinh cũng cần
phải :
- Tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia vào các hoạt động học tập để tự
khám phá và lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ năng, xây dựng thái độ và hành vi đúng
đắn.
- Mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến, quan điểm cá nhân ; tích cực thảo
luận, tranh luận, đặt câu hỏi cho bản thân, cho thầy, cho bạn.
- Biết tự đánh giá và đánh giá các ý kiến, quan điểm, các sản phẩm học tập
của bản thân và bạn bè.
Để trở thành người thợ giỏi ở bất cứ một ngành nghề nào người thợ cũng
phải trải qua quá trình học tập và rèn luyện lâu dài. Để viết tốt một bài văn tự sự, học
sinh phải trải qua quá trình rèn luyện nghiêm túc có sự hướng dẫn của giáo viên.
* Cách thức:
- Các bước chuẩn bị :
Để tiết dạy thành công thì khâu chuẩn bị bài là hết sức quan trọng.
Trước khi lên lớp, giáo viên cần làm các việc sau :
+ Bước 1: Làm tốt khâu soạn giảng : Đối với bài học môn Tập làm văn lớp 6 đặt
trọng tâm là thực hành : xây dựng bài qua thực hành, thực hành nhận biết, thực hành
làm văn bản. Với từng kiểu bài, giáo viên phải định hướng mục đích yêu cầu của bài,
nghiên cứu từng phần cụ thể để đưa vào những bài tập rèn viết văn tự sự thích hợp.
+ Bước 2: Xây dựng hệ thống câu hỏi và bài tập : Phải chú ý hệ thống câu hỏi – bài
tập nhằm tạo điều kiện tốt nhất để học sinh không chỉ trả lời, tranh luận với giáo
viên mà còn được trao đổi, tranh luận với bạn học để tìm ra chân lí ( không gò
ép). Điều quan trọng là xây dựng kế hoạch hoạt động của giờ học, hệ thống câu hỏi –
bài tập và lựa chọn cách kiểm tra, đánh giá kết quả học sinh nhằm kích thích tính chủ
động, sáng tạo.
+ Bước 3: Chuẩn bị tốt đồ dùng, thiết bị : Chú ý lựa chọn những đồ dùng, thiết bị
cần thiết phù hợp với từng tiết dạy. Việc sử dụng đồ dùng, thiết bị thích hợp sẽ làm
cho giờ học sinh động, học sinh hứng thú hơn khi tiếp xúc với những kiến thức bổ
trợ trực quan, tích cực khai thác nội dung học tập, làm
cho lao động của giáo viên trên lớp nhẹ nhàng hơn, tập trung hơn và hiệu quả hơn.
- Phương pháp giảng dạy :
Như chúng ta đã biết, thông qua môn Tập làm văn, qua bài làm văn của mình,
các em bộc lộ những tri thức, vốn sống tư tưởng, tình cảm của cá nhân. Vì thế người
giáo viên phải biết nắm lấy ưu thế này để phát huy những khả năng của các em, đồng
thời thông qua các bài tập để rèn cho học sinh kĩ năng viết bài văn tự sự được tốt
hơn. Để đạt được hiệu quả mong muốn người giáo viên không chỉ truyền thụ kiến
thức có sẵn trong giáo án mà còn phải có sự sáng tạo khi lên lớp, phải giữ chuẩn mực
đúng phong cách sư phạm.
Trong phân môn Tập làm văn lớp 6 ở Học kì I tập trung vào các kiến thức văn
bản tự sự :
1. Giao tiếp, văn bản và phương thức biểu đạt
2. Tìm hiểu chung về văn tự sự
3. Sự việc và nhân vật trong văn tự sự
4. Chủ đề và dàn bài văn tự sự
5. Tìm hiểu đề và cách làm bài văn tự sự
6. Lời văn, đoạn văn tự sự
7. Thứ tự kể trong văn tự sự
8. Ngôi kể và lời kể trong văn tự sự
9. Luyện tập xây dựng bài tự sự - Kể chuyện đời thường
10. Kể chuyện tưởng tượng
- Hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh tri thức :
Để hoàn thành những định hướng đã đặt ra, dựa trên thực tế đã làm, tôi
xin trình bày những biện pháp chính đã áp dụng như sau :
a/ Hình thành những chuẩn mực cần phải đạt đến khi viết một đoạn văn tự sự.
Khi viết bài Tập làm văn học sinh phải biết lập dàn ý, mỗi ý lớn trong dàn ý sẽ
viết ít nhất là một đoạn văn.
Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chữ viết hoa lùi đầu
dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn
chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo nên.
Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ
được lặp lại nhiều lần ( thường là chỉ từ, đại từ, các từ đồng nghĩa ) nhằm duy trì đối
tượng được biểu đạt. Câu chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường
đủ hai thành phần chính và đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn.
Các câu còn lại trong đoạn văn ( không phải là câu chủ đề ) là câu triển khai
có nhiệm vụ triển khai và làm sáng tỏ câu chủ đề của đoạn văn bằng các cách diễn
đạt : diễn dịch, quy nạp, song hành, móc xích, tổng-phân-hợp.
Khi viết đoạn văn phải chú ý đến câu chủ đề. Mỗi ý trong bố cục lớn sẽ được
triển khai thành một đoạn theo nhiều cách (diễn dịch, quy nạp, song hành, móc xích,
tổng-phân-hợp ).Sử dụng từ ngữ gợi tả, biện pháp tu từ hợp lí, câu đủ chủ-vị, các câu
liên kết chặt chẽ với nhau. Đoạn văn trình bày đúng quy cách.
Nội dung của các đoạn phần Thân bài đều phải hướng vào một mục đích cần
làm sáng rõ được nêu ra ở Mở bài, phải có sự liên kết chặt chẽ với nhau qua các từ
ngữ, câu liên kết.
Những căn cứ để phân đoạn :
Có hai căn cứ để tách đoạn văn :
- Bố cục của văn bản : Thường chia làm ba đoạn :
+ Đoạn văn làm phần Mở bài : Nêu đối tượng được nói đến, nhiệm vụ của đề tài. Đó
cũng chính là cơ sở và phương hướng để triển khai đề tài và qua đó mà xác lập mục
tiêu cần đạt được đến của văn bản.
+ Đoạn văn ( hay nhiều đoạn văn ) làm phần Thân bài : Trình bày, giải thích, … nội
dung của đề tài, theo hướng nhiệm vụ đã đề ra. Thân bài phải thực hiện vừa đủ (
không thiếu, không thừa ) những nhiệm vụ đề ra ở phần Mở bài, hướng vào mục
đích cần đạt đến của văn bản.
+ Đoạn văn làm phần Kết bài : Nhận xét chung về đề tài hoặc nhiệm vụ của đề tài (
như giá trị, công dụng, ảnh hưởng, tầm quan trọng,…), đánh giá kết quả đạt được,
gợi mở những hướng xem xét khác, …
- Những biến đổi trong quan hệ nội dung giữa các đoạn văn :
- Sau đây là bốn nội dung quan hệ thường gặp :
+ Đề tài : Quan hệ giữa các vật, việc, hiện tượng khác nhau : mỗi vật, việc, hiện
tượng đó được tách thành một đoạn văn.
+ Không gian : Quan hệ giữa các điểm, hướng không gian của một vật, việc, hiện
tượng. Mỗi điểm, hướng không gian của nó được tách thành một đoạn văn.
+ Thời gian : Quan hệ giữa các thời điểm, thời hạn của một vật, việc, hiện tượng.
Mỗi thời điểm, thời hạn của nó được tách thành một đoạn văn.
+ Phương diện của đề tài : Quan hệ giữa các mặt, các đặc điểm, các tác dụng khác
nhau của một vật, việc, hiện tượng. Mỗi mặt, mỗi đặc điểm, mỗi tác dụng của một đề
tài được tách thành một đoạn văn.
- Ở bài văn tự sự phần Thân bài ít nhất từ hai đến ba đoạn.
- Văn tự sự ở lớp 6, học sinh chỉ được học một tiết về đoạn văn :
Tiết 19- Lời văn, đoạn văn tự sự.
- Để học sinh có được những chuẩn mực về đoạn văn vừa nêu trên tôi mạnh dạn đầu
tư vào tiết 19. Ở tiết này, học sinh :
- Hiểu đoạn văn tự sự : gồm một số câu, được xác định giữa hai dấu chấm xuống
dòng.
- Biết viết đoạn văn, bài văn tự sự.
Tôi đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu về đoạn văn bằng Hoạt động 3 khi dạy trên lớp
và chú ý phần Luyện tập ở bài tập 1.
Minh họa :
*Tiết 19 – Lời văn, đoạn văn tự sự
*
Hoạt động 3:Hướng dẫn HS tìm hiểu đoạn văn tự sự .
GV .Cho HS đọc lại ba đoạn văn( máy chiếu )
3.Đoạn văn
(1) Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị
Nương, người đẹp như hoa, tính nết hiền dịu. Vua cha yêu thương
nàng hết mực, muốn kén cho con một người chồng thật xứng đáng.
(2) Một hôm có hai chàng trai đến cầu hôn.Một người ở vùng núi
Tản Viên có tài lạ […].Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Một người
ở miền biển, tài năng cũng không kém […].Người ta gọi chàng là
Thủy Tinh.[…],cả hai đều xứng đáng làm rể vua Hùng.
(3) Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận,
đem quân đuổi theo đòi cướp Mị Nương. Thần hô mưa, gọi gió làm
thành dông bão rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên cuồn
cuộn đánh Sơn Tinh.Nước ngập ruộng đồng, nước ngập nhà cửa,
nước dâng lên lưng đồi, sườn núi, thành Phong Châu như nổi
lềnh bềnh trên một biển nước.
? Hãy cho biết mỗi đoạn văn biểu đạt ý chính nào?Gạch dưới
câu biểu đạt ý chính? Tại sao người ta gọi đó là câu chủ đề ?
HS: Thảo luận theo nhóm cùng bàn (2 phút) và trình bày :
- Đoạn 1 : Vua Hùng kén rể
- Đoạn 2 : Hai thần đến cầu hôn
- Đoạn 3 : Thuỷ Tinh dâng nước đánh Sơn Tinh .
- Câu chủ đề : diễn đạt ý chính của đoạn văn .
HS: Nhận xét, góp ý .
GV: Chốt ý.
Gọi HS đọc Ghi nhớ SGK/59
GV: 2 em đọc Ghi nhớ
*Hoạt động 4:Hướng dẫn HS luyện tập
GV: Cho HS đọc bài tập 1
3.
Đo
ạn
văn :
Mỗi
đoạn văn
thường có
một ý
chính,
diễn đạt
thành một
câu gọi là
câu chủ
đề.
Các
câu khác
diễn đạt
những ý
phụ dẫn
đến ý
chính đó
hoặc giải
thích cho
ý chính,
HS
:
Đ
ọc v
à x
ác đ
ịnh y
êu c
ầu
GV: Cho HS thảo luận theo 6 nhóm (3 phút) và cử đại diện
trình bày :
- Nhóm 1,2 : đoạn a.
- Nhóm 3,4 : đoạn b.
- Nhóm 5,6 : đoạn c.
HS: Nhận xét, bổ sung
Chốt ý.(máy chiếu)
a)Thế là Sọ Dừa đến ở nhà phú ông.(1)Cậu chăn bò
rất giỏi.(2) Hằng ngày, Sọ Dừa lăn sau đàn bò ra đồng,
tối đến lại lăn sau đàn bò về chuồng.(3)Ngày nắng cũng
như ngày mưa, bò con nào con nấy bụng no căng(4).
Phú ông mừng lắm.(5)
-> Sọ Dừa chăn bò rất giỏi.
+ Câu 1 : Hành động bắt đầu.
+ Câu 2 : Nhận xét chung về hành động.
+ Câu 3,4,5 : Hành động cụ thể.
làm cho ý
chính nổi
lên.
II.Luyện
tập:
Bài tập 1:
b)Ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm cả, phú ông có ba cô con
gái thay phiên nhau đưa cơm cho Sọ Dừa.(1) Hai cô chị
ác nghiệt, kiêu kì, thường hắt hủi Sọ Dừa ; còn cô em út
hiền lành, tính hay thương người, đối đãi với Sọ Dừa rất
tử tế.(2)
-> Hai cô chị ác, hay hắt hủi Sọ Dừa, cô út hiền lành,
đối xử tử tế với Sọ Dừa
+ Câu 1 : Dẫn dắt, giải thích.
+ Câu 2 : Nhận xét chung về hành động.
-> Tính cô còn trẻ con lắm.
c)Cô không đẹp, chỉ xinh thôi.(1) Và tính cô cũng như tuổi cô còn
trẻ con lắm. (2)Thấy khách hàng nói một câu bông đùa, cô đã tưởng
người ta chòng ghẹo mình, díu đôi lông mày lại và ngoe nguẩy cái
mình.(3) Khách trông thấy chỉ cười.(4) Nhưng cô cũng không giận
ai lâu, chỉ một lát cô lại vui tính ngay !(5)
+ Câu 1 : Giải thích.
+ Câu 2 : Nhận xét chung về tính tình.
+ Câu 3,4,5 : Biểu hiện tính trẻ con của cô Dần.
Qua tiết học, học sinh đã hiểu đoạn văn tự sự : gồm một số câu, được xác định giữa
hai dấu chấm xuống dòng; biết tìm ý chính của mỗi đoạn trong một văn bản tự sự đã
học, tìm đúng câu chủ đề và thứ tự triển khai các câu chủ đề trong một đoạn văn.
b. Chú trọng việc luyện viết đoạn văn phần Thân bài của học sinh ngay từ đầu
năm học trong tất cả các giờ dạy Tập làm văn.
Để giúp học sinh biết phân đoạn phần Thân bài khi làm bài văn tự sự, tôi đã
hướng dẫn cho các em trong một số tiết dạy Tập làm văn sau :
* Tiết 11, 12- Sự việc và nhân vật trong văn tự sự.
Khi dạy tiết này, ở Hoạt động 1: Tìm hiểu đặc điểm của sự việc trong văn tự
sự, sau khi học sinh từ văn bản mẫu “Sơn Tinh, Thủy Tinh” đã hiểu được vai trò của
sự việc trong văn tự sự, tôi đặt câu hỏi phát vấn học sinh:
GV: Ở từng sự việc khi kể lại em sẽ viết thành một đoạn văn như thế nào?
HS: có thể dựa vào văn bản “Sơn Tinh, Thủy Tinh” trình bày một vài đoạn văn thích
hợp với các sự việc được nêu.
Sau đó, tôi cho học sinh quan sát ví dụ minh họa ở bảng phụ (một vài sự việc cho
học sinh bước đầu hiểu được một sự việc có thể viết thành một đoạn văn)
S
ự việc
Đo
ạn
văn
(1) Vua Hùng kén r
ể
Hùng Vương th
ứ m
ư
ời tám có một ng
ư
ời con
gái tên là Mị Nương, người đẹp như hoa, tính nết
hiền dịu. vua cha yêu thương nàng hết mực, muốn
kén cho con một người chồng thật xứng đáng.
(2)Sơn Tinh, Th
ủy Tinh đến cầu
hôn.
M
ột
hôm có hai chàng trai đ
ến cầu hôn. Một
người ở vùng núi Tản Viên có tài lạ […]. Người ta
gọi chàng là Sơn Tinh. Một người ở miền biển, tài
năng cũng không kém […]. Người ta gọi chàng là
Thủy Tinh. […], cả hai đều xứng đáng làm rể vua
Hùng.
(3)Vua Hùng ra
đi
ều kiện chọn
rể.
Vua Hùng băn khoăn […].Vua phán : “Hai
chàng đều vừa ý ta […]. Hai chàng tâu hỏi đồ sính
lễ cần sắm những gì, vua bảo : “Một trăm ván
cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín
ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ
m
ột đô
i.”
GV: Các em cần chú ý trong văn bản tự sự phần Thân bài thường trình bày một sự
việc bằng một đoạn văn.
Xong, tôi chuyển sang các Hoạt động khác trong tiết dạy.
* Tiết 15,16- Tìm hiểu đề và cách làm bài văn tự sự.
Trong bài này, tôi gợi ý cách phân đoạn phần Thân bài ở Hoạt động 2:
Hướng dẫn học sinh cách làm bài văn tự sự.
Minh họa ( giáo án tiết 15 )
Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung
*
Hoạt đông2:Hướng dẫn HS cách làm
bài văn tự sự .
GV: Ghi đề bài lên bảng, cho HS đọc đề
và xác định yêu cầu của đề .
Gv?Việc trước nhất khi làm bài văn tự sự
là gì?
Tìm hiểu đề văn tự sự : là tìm hiểu kĩ lời
văn của đề để nắm vững yêu cầu của đề
bài .
Gọi HS nêu tên truyện mà em sẽ kể .
HS: Tên truyện : Thánh Gióng ; Sơn
Tinh, Thuỷ Tinh ; Bánh chưng, bánh giầy
GV: Cho HS chọn truyện Thánh Gióng để
thực hành .
Dựa vào gợi ý SGK/48, tiến hành lập ý
theo nhóm đôi ( 3 phút )
HS: Đại diện các nhóm
GV: Nhận xét, bổ sung
- Chốt ý .
GV: Lập ý là làm gì ?
2.
Cách làm bài văn t
ự sự
:
Đề bài : Kể một câu chuyện mà em
thích bằng lời văn của em .
a) Tìm hiểu đề .
b) Lập ý :
- Nhân vật chính : Thánh Gióng
Nhân vật phụ : cha mẹ Gióng, sứ
giả, dân làng
- Sự việc : Đánh đuổi giặc Ân
HS
:
Nêu ý 2
-
Ghi nh
ớ SGK
Cho HS xác định truyện bắt đầu từ
đâu, kết thúc ở chỗ nào .
HS: Bắt đầu : Đứa bé nghe sứ giả rao tìm
người đánh giặc …
Kết thúc : Vua nhớ công ơn … lập
đền thờ ngay ở quê nhà .
GV: Gợi ý cho HS lập dàn ý chung
HS: Thảo luận theo nhóm cùng bàn (5
phút) và trình bày .
GV: Nhận xét, bổ sung .
Kết luận ( bảng phụ - SGV/97)
GV: ? Em hiểu thế nào là viết “bằng lời
văn của em”?
HS: Có nghĩa là em tự chọn từ, đặt câu,
diễn ý theo dàn ý đã lập. Không sao chép
từ nguyên bản câu chuyện hoặc từ một tài
liệu có sẵn.
GV: Nêu câu hỏi gợi ý cho học sinh cách
c) Lập dàn ý :
* Mở bài : Giới thiệu sự ra đời kì lạ
của Gióng .
* Thân bài : Các sự việc chính :
- Gióng và sứ giả
- Gióng ăn khoẻ lớn nhanh như
thổi
- Gióng vươn vai thành tráng sĩ
- Gióng giết giặc
- Roi gãy, nhổ tre làm vũ khí
- Thắng giặc, Gióng cởi bỏ áo
giáp, cưỡi ngựa bay về trời
* Kết bài : Vua nhớ công ơn, phong
là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ
ngay ở quê nhà.
d) Viết thành văn
phân đo
ạn phần Thân b
ài Văn t
ự sự.
GV: ?.Em hãy chọn một sự việc trong
phần Thân bài để viết thành một đoạn văn
?
HS:Một vài em có thể nêu miệng một
đoạn văn thích hợp với một sự việc ở
phần Thân bài.
GV: Chốt ý : Thân bài của một bài văn
tự sự có thể viết thành nhiều đoạn văn
thích hợp với các sự việc đã diễn ra.
* Tiết 35, 36- Thứ tự kể trong văn tự sự.
Trong tiết này, tôi gợi ý cách phân đoạn phần Thân bài qua việc giải
quyết Bài tập 2 ở Hoạt động 3: Hướng dẫn học sinh luyện tập.
Minh họa ( giáo án tiết 36 )
Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung
*
Hoạt động 3:Hướng dẫn HS luyện
tập.
GV: Cho HS đọc bài tập 1.
HS: Đọc và xác định yêu cầu
HS: Thảo luận theo nhóm cùng bàn (3
phút) và cử đại diện trình bày
GV: Nhận xét, bổ sung
Chốt ý (bảng phụ )
II.
Luy
ện tập
:
Bài tập 1:SGK/98
- Tóm tắt các sự việc chính :
(1) Liên mới ở quê ra, sống cùng
khu tập thể với tôi .
(2) Tôi ghét Liên vì cô làm tôi kém
cạnh .
(3) Tôi nghĩ xấu về Liên và đã có
hành động không đẹp .
(4) Khi tôi vắng nhà, trời mưa, Liên
đã rút hộ quần áo vào và đem trả lại .
(5) Tôi và Liên trở thành đôi bạn
thân
GV: Cho HS đọc bài tập 2.
HS: Đọc, xác định yêu cầu
GV: Gợi ý ở SGK có thể hiểu :
- Ý 1 : Mở bài
- Ý 2,3 : Thân bài
- Ý 4 : Kết bài
HS: Khá, giỏi trình bày trên bảng lớp
dàn bài tương đối chi tiết.
Chốt ý .
GV: Nêu câu hỏi gợi ý cho học sinh
cách phân đoạn phần Thân bài Văn tự
sự.
GV?.Em sẽ viết phần Thân bài cho đề
văn này mấy đoạn văn ?
HS: Em có thể viết ít nhất là hai đoạn
văn tương ứng với hai sự việc.
GVChốt ý : Thân bài của đề văn này,
em có thể viết hai hoặc ba đoạn văn
thích hợp với các sự việc mà em đã sắp
xếp.
-
K
ể ng
ư
ợc : (5)
-
(1)
-
(2)
-
(3)
-
(4)
-
(5)
- Kể theo ngôi thứ nhất .
- Yếu tố hồi tưởng đóng vai trò cơ sở
cho việc kể ngược .
Bài tập 2 : SGK/98
Kể chuyện lần đầu em được đi chơi xa
* Tiết 48- Luyện tập xây dựng bài tự sự - Kể chuyện đời thường.
Trong tiết này, tôi gợi ý cách phân đoạn phần Thân bài ở Hoạt động 3:
Hướng dẫn học sinh theo dõi cách làm một đề Tập làm văn kể chuyện đời thường.
Minh họa ( giáo án tiết 48 )
Hoạt động của giáo viên và học
sinh
Nội dung
*
Hoạt đông3:Hướng dẫn HS theo
dõi cách làm một đề Tập làm văn kể
chuyện đời thường.
GV: Ghi đề lên bảng, gọi HS đọc đề .
GV. Em hãy trình bày phần Tìm hiểu
đề và Phương hướng làm bài ?
HS: Trình bày theo SGK/119,120
GV: Chốt ý : SGV/176
HS:Cho HS đọc dàn bài SGK/120
(bảng phụ)
GV? .Nhiệm vụ của phần Mở bài là
gì
HS: Mở bài : Giới thiệu người định
kể
GV?.Phần Thân bài nêu hai ý lớn : Ý
thích của ông em và ông yêu các cháu
đã đủ chưa ? Em nào có ý kiến gì
khác?
HS: Thảo luận theo nhóm đôi (2 phút)
và trình bày .
GV: Nhận xét, bổ sung .
Chốt ý : Có thể nêu hình dáng của ông
nhưng chỉ là giới thiệu để phân biệt
với người khác chứ không đi vào miêu
tả cụ thể .( Liên hệ văn miêu tả )
GV?.Nhắc đến một người thân mà
nhắc đến ý thích của người ấy có thích
II.Quá trình thực hiện một đề tự sự kể
chuyện đời thường :
Đề bài : Kể chuyện về người ông (hay
bà) của em .
- Tìm hiểu đề
- Phương hướng làm bài
- Dàn bài
- Viết thành văn
Kể chuyện về một nhân vật cần chú ý :
Kể được đặc điểm của nhân vật, hợp với lứa
tuổi, có tính khí, ý thích riêng, có chi tiết,
việc làm đáng nhớ, có ý nghĩa .
h
ợp không?V
ì sao?
GV: Bài làm nêu ý thích của ông em
là rất phù hợp. Vì ý thích của mỗi
người giúp ta phân biệt được người đó
với người khác .
GV: Gọi HS đọc bài tham khảo:
SGK/120
HS: Đọc bài, cả lớp theo dõi
GV?. Bài làm đã nêu chi tiết nào đáng
chú ý về người ông
HS:Thích trồng cây xương rồng,
thương cháu.
GV?.Những chi tiết ấy có vẽ ra được
một người già có tính khí riêng hay
không?
HS: Già, chăm chút cây hoa, ngăn
nắp. Tính khí riêng : thích trồng cây
xương rồng.
GV?Cách thương cháu của ông có gì
đáng chú ý ?
HS: Chăm chút đến việc học của
cháu, dạy cháu cách sắp xếp ngăn nắp,
dạy cháu đọc sách để mở rộng hiểu
biết.
GV?Tóm lại, kể chuyện về một nhân
vật cần chú ý đạt được những gì ?
HS:Nhiều em trình bày .
Chốt ý : SGV/176 – ghi bảng
GV?.PhầnThân bài nêu hai ý lớn : Ý
thích của ông em và ông yêu các
cháu. Mỗi ý lớn được viết thành mấy
đoạn văn ?
GVÝ thích của ông em : được viết
thành đoạn hai đoạn văn.
Ông yêu các cháu : được viết
thành ba đoạn văn
Chốt ý : Thân bài trong câu chuyện
đời thường cũng giống như truyện kể
dân gian, em có thể viết nhiều đoạn
văn thích hợp với các sự việc mà em
đã sắp xếp khi kể.
c/ Cho học sinh ý thức được cách phân đoạn phần Thân bài trong các giờ làm bài
Tập làm văn.
Song song với việc hình thành cho học sinh những chuẩn mực cần
phải đạt đến khi viết một đoạn văn tự sự là việc giúp cho học sinh ý thức được cách
phân đoạn phần Thân bài trong các giờ làm bài Tập làm văn.
- Để thực hiện việc làm kể trên tôi đã áp dụng trong các tiết dạy sau :
* Tiết 17,18- Viết bài Tập làm văn số 1
Đề bài : Hãy kể lại một truyền thuyết đã biết bằng lời văn của em .
Trong quá trình tìm hiểu đề, lập dàn ý tôi đặt câu hỏi :
? Truyền thuyết mà em định kể có mấy sự việc chính ?
HS : ( sẽ trả lời theo nội dung truyền thuyết đã chọn )
Và dựa vào câu trả lời của học sinh tôi chỉ nhắc nhở các em cách phân đoạn phần
Thân bài theo các sự việc được kể : mỗi sự việc có thể kể thành một đoạn văn.
* Tiết 24- Trả bài Tập làm văn số 1
- Quá trình chấm bài : tôi nhận xét cụ thể trong bài làm của học sinh ngoài các lỗi
sai thường gặp ở hình thức bài làm như :chính tả, ngữ pháp,… tôi còn nhận xét thêm
cho học sinh về cách phân đoạn phần Thân bài.
- Trả bài trên lớp : Sau khi lập xong dàn ý, tôi hỏi học sinh ( dựa vào bài làm của
một số học sinh ) :
? Em đã viết được mấy đoạn trong phần Thân bài ở bài làm của em?
Tất nhiên học sinh sẽ trả lời khác nhau, dựa vào đó mà tôi gợi ý, dẫn dắt cho các em
có thể viết nhiều đoạn ở phần Thân bài cho đề bài này vì truyền thuyết thường có
nhiều sự việc xảy ra trong diễn biến câu chuyện.
* Tiết 37,38- Viết bài Tập làm văn số 2
Thường khi cho học sinh làm bài viết số 2 ở những năm học trước tôi nêu một
vài câu hỏi về những lỗi sai mà học sinh vấp phải ở bài viết số 1 để các em tránh khi
làm bài số 2 như : chính tả, cách viết câu, cách trình bày bố cục, … Và năm học này
để thực hiện giải pháp đề ra tôi cho các em nêu lại lỗi sai ở bài trước là thiếu cách
phân đoạn ở Thân bài để các em định hướng cho bài làm của mình được tốt hơn.
Qua bài làm, học sinh hiểu được một bài văn tự sự kể chuyện đời thường khi viết
Thân bài cũng có nhiều đoạn tương ứng các sự việc mà các em kể ra.
* Tiết 47- Trả bài Tập làm văn số 2
- Quá trình chấm bài : tôi thực hiện như chấm bài Tập làm văn số 1 nhưng thêm lời
khen cho học sinh có tiến bộ khi phân đoạn ở phần Thân bài
Trả bài trên lớp : Sau khi lập xong dàn ý, tôi hỏi học sinh ( dựa vào bài làm của
một số học sinh ) :
? Em đã viết được mấy đoạn trong phần Thân bài ở bài làm của em?
Tất nhiên học sinh sẽ trả lời khác nhau, dựa vào đó mà tôi gợi ý, dẫn dắt cho các em
có thể viết nhiều đoạn ở phần Thân bài cho đề bài này vì cũng như truyền thuyết, kể
chuyện đời thường cũng có thể có nhiều sự việc xảy ra trong diễn biến câu chuyện.
Tiết 49,50 - Viết bài Tập làm văn số 3
Tiết này tôi thực hiện cũng giống như khi viết bài Tập làm văn số 2, và thêm một vài
lời khen những học sinh có tiến bộ ở bài viết số 2. Theo tôi khi được khen như thế
các em sẽ tự tin hơn và có quyết tâm sửa chữa những sai sót của bài làm trước để bài
viết số 3 này đạt yêu cầu cao hơn.
* Tiết 64- Trả bài Tập làm văn số 3
Thực hiện giống như tiết Trả bài Tập làm văn số 2 nhưng chú ý khen những học sinh
khác cũng đồng thời chỉ ra cách phân đoạn chưa thích hợp cho một số em có bài
điểm thấp vì chưa đạt yêu cầu khi phân đoạn phần Thân bài. Và nhắc nhở các em ghi
nhận những lỗi sai của mình để làm tốt bài Kiểm tra Học kì I.
Theo tôi với bài Tập làm văn nào của học sinh nếu chúng ta nhắc nhở một cách nhẹ
nhàng như thế thì học sinh của chúng ta sẽ ít sai hơn và dần dần hình thành cho các
em thói quen tự rèn khi viết một bài văn tự sự ở phần Thân bài. Cách dạy học sinh là
chúng ta xem các em như là những người bạn cùng trao đổi,bàn bạc để đi đến kết
quả tốt đẹp, tạo niềm tin cho các em trong giờ học.
*Thời gian:
Để giúp học sinh biết phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự tôi chỉ
hướng dẫn học sinh các thao tác, những cách thức, những bước đi trong quá trình tạo
lập một văn bản tự sự chủ yếu phần Thân bài như : kể chuyện dân gian, kể chuyện
đời thường, kể chuyện tưởng tượng. Cụ thể là đi sâu các kiến thức văn bản tự sự ở
Học kì I.
Bên cạnh đó phải tích hợp các kiến thức được học về truyện kể dân gian,
truyện trung đại phần Văn học và biết lựa chọn từ ngữ, sử dụng từ có chọn lọc phần
Tiếng Việt.
Tất nhiên các kiến thức thuộc văn bản tự sự được học trong Học kì I học sinh
cũng phải nắm được mới làm tốt một bài văn tự sự và sẽ được kiểm chứng qua tiết
luyện nói, tiết làm bài viết.
* Phương tiện:
- Sách giáo khoa Ngữ văn 6 tập 1, tập 2
- Sách giáo viên Ngữ văn 6 tập 1, tập 2
-Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn THCS
- Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS môn Ngữ văn –
Nhà xuất bản Giáo dục
- Các dạng bài Tập làm văn và cảm thụ thơ văn lớp 6 –Cao Bích Xuân – Nhà
xuất bản Giáo dục.
5. Kết quả đạt được
Sau khi áp dụng những biện pháp đã nêu trên thì học sinh có những chuyển
biến rõ rệt qua các bài viết, các em đã phân đoạn được phần Thân bài cho bài văn tự
sự một cách thích hợp.
6. Khả năng tiếp tục phát huy, mở rộng sáng kiến đã thực hiện
Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy kinh nghiệm hướng dẫn học sinh
cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài Văn tự sự ở lớp 6 là rất cần thiết. Có thể
nói rằng qua việc thực hiện giải pháp này tôi đã rút ra được cho mình rất nhiều bài
học từ việc xác định kiến thức bổ sung, soạn giáo án cho đến việc giảng dạy.
Nếu ngay từ học kì I của lớp 6 các em có thói quen phân đoạn phần Thân bài
một bài Tập làm văn tự sự đúng các thao tác, những cách thức, những bước đi trong
quá trình tạo lập một văn bản tự sự thì sang học kì II và lên các lớp 7,8,9 các em sẽ
tạo lập được các văn bản : miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh đạt yêu cầu.
Thực hiện việc hướng dẫn học sinh cách phân đoạn phần Thân bài khi làm bài
Văn tự sự trong phân môn Tập làm văn ở lớp 6 nhằm đạt hiệu quả giáo dục, giúp học
sinh tạo lập văn bản tự sự. Học sinh vận dụng sáng tạo, tổng hợp những kiến thức
của phân môn Văn học, Tiếng Việt để có thể nói hoặc viết theo những yêu cầu,
những đề tài khác nhau, những kiểu văn bản khác nhau mà cuộc sống đặt ra cho các
em.
K
ết quả
L
ớp
TSHS
Gi
ỏi
Khá
TBình
Y
ếu
Đ
ầu năm
6A
B
54
1
1
4
25
14
Bài vi
ết
số 1
6A
B
54
3
24
23
4
Giáo viên được tạo điều kiện để tăng sự chuẩn bị : nghiên cứu kĩ nội dung bài
dạy, tham khảo tài liệu, tự bồi dưõng về chuyên môn qua trao đổi, dự giờ đồng
nghiệp, chủ động, tự giác học bồi dưỡng thường xuyên.
Giáo viên có cơ hội gần gũi, hiểu biết học sinh hơn, tình cảm giữa thầy trò trở
nên thân thiết.
Tuy nhiên, giải pháp chỉ thực sự có kết quả khi :
- Giáo viên hiểu rõ năng lực viết một bài Tập làm văn của học sinh, nắm bắt
được từng đối tượng học sinh.
- Học sinh phải tích cực học tập, chủ động tham gia xây dựng bài học để tự
khám phá và lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng làm một bài Tập làm văn tự sự nói
riêng và các thể loại khác trong chương trình Tập làm văn ở trung học cơ sở nói
chung.
Dạy học nói chung và dạy Tập làm văn nói riêng vừa là một khoa học vừa là
một nghệ thuật. Khó có thể có khuôn mẫu cho mọi bài dạy. Trong khuôn khổ của
giải pháp này tôi có thể áp dụng giảng dạy cho học sinh các lớp 6 mà tôi đang dạy.
Tôi không có tham vọng là sẽ đưa ra một cẩm nang về phương pháp cho mọi giáo
viên, chỉ dám đưa ra một kinh nghiệm nhỏ mà tôi cố gắng tìm tòi và áp dụng có hiệu
quả khi học sinh làm bài Văn tự sự.
Đây là sáng kiến của bản thân được nghiên cứu trong quá trình giảng dạy,
chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong được sự góp ý chân tình
của Hội đồng khoa học các cấp, quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp giúp cho giải
pháp này được hoàn chỉnh hơn.