SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC ĐỔI MỚI QUẢN LÝ VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
I - Phần mở đầu
I.1. Lý do chọn đề tài:
Năm học 2009- 2010 với chủ đề: “Năm học đổi mới quản lý và nâng cao
chất lượng giáo dục”. Với nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành là tiếp tục thực
hiện các cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”; “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo
dục”; “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo”; “Xây
dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”. Phòng giáo dục và Đào tạo
Huyện Đông Triều cũng phát động phong trào thi đua: “Xây dựng trường học
thân thiện học sinh tích cực trong toàn ngành nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục đặc biệt là giáo dục đạo đức, nhân cách và kỹ năng cho học sinh”.
Hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng và nhà nước ta cũng đánh
giá cao về giáo dục và đào tạo. Nghị quyết trung ương II khóa VIII có nêu quan
điểm: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” và “Con người” được coi
là mục tiêu, là động lực quan trọng trong sự nghiệp phát triển của toàn xã hội.
Sinh thời Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” theo Bác thì việc “Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần
thiết”. Chính vì thế Bác nói “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm thì phải trồng người”. Trong lĩch vực giáo dục Bác cũng yêu cầu phải
chú trọng đủ các mặt: Đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa
kỹ thuật lao động và sản xuất, đào tạo thế hệ trẻ thành người thừa kế xây dựng
xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”. Như vậy, đạo đức và tài năng là cả
hai nội dung không thể thiếu được đối với nhiệm vụ bồi dưỡng giáo dục trong
đó đạo đức là gốc.
Người nói: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức”. Điều 23-
Luật giáo dục cũng đã nêu rõ:
“Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân
cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Vậy mà thực tế mấy năm trở lại đây tình trạng xuống cấp trong đạo đức, lối
sống của một bộ phận học sinh, sinh viên (lớp người đang giữ vai trò là chủ
nhân tương lai của thế kỷ XXI) lại đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng và
chưa có những dấu hiệu về một sự thay đổi theo hướng tích cực. Vấn đề này đã
được cảnh báo từ lâu và gần đây lại được dư luận quan tâm thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng. Trong văn kiện hội nghị lần thứ IX Ban chấp
hành TW khóa X cũng đã đánh giá một trong những mặt hạn chế yếu kém
trong lĩnh vực giáo dục như sau: “Trong sự nghiệp giáo dục toàn diện dạy làm
người và dạy nghề là yếu kém nhất, giáo dục về lý tưởng sống, phẩm chất đạo
đức yếu. Học sinh thiếu hiểu biết về truyền thống văn hóa, lịch sử dân tộc của
Đảng về quyền lợi nghĩa vụ công dân, chất lượng giáo dục còn buông lỏng,
nhất là giáo dục đạo đức lối sống của học sinh, sinh viên có nhiều biểu hiện rất
đáng lo ngại”.
Qua đó ta thấy rằng vấn đề xuống cấp trong đạo đức của học sinh, sinh viên
đã đến lúc báo động. Nói như tiến sĩ tâm lý học Vũ Kim Thanh: “Nếu không có
sự quan tâm đúng mức chúng ta sẽ mất cả một thế hệ”. Như vậy việc giáo dục
đạo đức cho học sinh trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề “Nóng” không chỉ
của ngành giáo dục mà còn là của toàn xã hội.
Bản thân tôi là một giáo viên đang trực tiếp làm công việc “Trồng người”
tôi không thể thờ ơ trước một vấn đề mang tính xã hội như vậy. Chính vì thế
năm học 2009- 2010 này tôi tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu đề tài:
“Giáo dục tình cảm đạo đức học sinh thông qua bộ môn Ngữ Văn”
Một vấn đề không phải là mới trong mục tiêu, phương pháp giáo dục nhưng
nó cũng không bao giờ cũ đối với mỗi người giáo viên dạy văn.
I.2. Mục đích nghiên cứu đề tài:
Nghiên cứu đề tài này là tôi muốn nắm được thực trạng của công tác giáo
dục tình cảm đạo đức học sinh trong nhà trường nói chung. Đề xuất một số biện
pháp phối hợp giáo dục tình cảm đạo đức học sinh trong việc giảng dạy bộ môn
Ngữ Văn ở cấp THCS một cách có hiệu quả giúp thế hệ trẻ các em trở thành
những người công dân có ích trong thế kỷ XXI, đáp ứng được mục tiêu của
ngành giáo dục nói chung và bộ môn Ngữ văn nói riêng.
Nghiên cứu đề tài này là tôi mong muốn sẽ cùng với các bạn đồng nghiệp
cùng nhau đưa ra những giải pháp thiết thực góp phần nhỏ bé của mình vào
việc giáo dục tình cảm đạo đức cho học sinh ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà
trường.
I.3. Thời gian và địa điểm thực hiện đề tài:
- Thời gian: 2 năm (Từ tháng 09/2008 đến tháng 04/2010)
- Đối tượng thực nghiệm là chương trình ngữ văn lớp 8, 9
- Địa điểm thực nghiệm: Học sinh Lớp 8A, 9A- Trường THCS Tràng An.
I.4. Đóng góp mới về phần lý luận và thực tiễn:
I.4.1. Về lý luận:
Thông qua nội dung bài viết này tôi muốn đóng góp thêm với các bạn đồng
nghiệp dạy bộ môn Ngữ văn lớp 8, 9 nói riêng và bộ môn Ngữ văn cấp THCS
nói chung về thực trạng vấn đề giáo dục đạo đức học sinh trong tình trạng hiện
nay. Một vấn đề mà toàn xã hội đang quan tâm và đề cập đến rất nhiều những
vấn đề về phạm trù đạo đức, vấn đề giáo dục đạo đức trong trường học và giáo
dục tình cảm đạo đức cho học sinh thông qua bộ môn văn hóa.
I.4.2. Về thực tiễn:
Trường THCS Tràng An nằm trên địa bàn vùng nông thôn, là một xã thuần
nông. Vì điều kiện cuộc sống nên thường thì gia đình phó mặc việc giáo dục
con em họ cho nhà trường. Trong mấy năm gần đây hành vi đạo đức của học
sinh trong trường đã có những biểu hiện không tốt. Hiện tượng học sinh vô lễ
với thầy cô giáo hoặc gây gổ đánh nhau, phá hoại cơ sở vật chất của nhà trường
có dấu hiệu gia tăng. Đi sâu vào chuyên đề giáo dục đạo đức học sinh thông
qua giảng dạy bộ môn mình phụ trách là tôi muốn đưa ra một số biện pháp mà
bản thân tôi đã làm, trường THCS Tràng An đã làm để đóng góp một phần nhỏ
bé của mình vào việc thực hiện mục tiêu của ngành giáo dục là đào tạo các em
trở thành con người toàn diện. Qua việc thực hiện đề tài này tôi nhận thấy có
nhiều kết quả khả quan, vấn đề đạo đức của học sinh trường THCS Tràng An
có những biến chuyển rõ rệt. Tôi thiết nghĩ nếu giáo viên chúng ta ai cũng có
nhận thức đúng đắn và kết hợp một cách có hiệu quả trong các môn học của
mình và các hoạt động trong nhà trường thì hiệu quả giáo dục đạo đức học sinh
của trường THCS Tràng An chắc chắn sẽ tốt hơn rất nhiều.
II. Phần nội dung:
II.1. Chương I: Tổng quan của vấn đề:
Chúng ta vẫn biết rằng đạo đức là một hình thái xã hội bao gồm những
nguyên tắc và chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi
cho phù hợp với lợi ích hạnh phúc của mình, sự tiến bộ của xã hội trong mối
quan hệ con người với con người, con người với tự nhiên. Giáo dục đạo đức là
quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh nhằm giúp nhân cách
mỗi học sinh được phát triển đúng đắn, giúp học sinh có những hành vi ứng xử
đúng mực trong các mối quan hệ của cá nhân với xã hội. Trong tất cả các mặt
giáo dục thì giáo dục đạo đức giữ một vị trí hết sức quan trọng vì Hồ Chủ Tịch
cũng đã nêu “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức, đức là đạo
đức cách mạng đó là cái gốc rất quan trọng, nếu không có đạo đức cách mạng
thì có tài cũng vô dụng”.
Như vậy vấn đề thứ nhất tôi đặt ra trong đề tài này là: giáo viên phải nhận
thức rõ trong nhà trường THCS giáo dục đạo đức là mặt giáo dục phải được đặc
biệt coi trọng vì nếu công tác này được coi trọng thì chất lượng toàn diện sẽ
được nâng lên vì đạo đức có mối quan hệ mật thiết với các mặt giáo dục khác,
mà để thực hiện những yêu cầu về nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh thì
vai trò của tập thể sư phạm lại giữ một vị trí quan trọng và có tính quyết định.
Thế nhưng điều quan trọng là giáo dục như thế nào bởi vì giáo dục đạo đức
không chỉ là việc truyền thụ khái niệm tri thức đạo đức mà quan trọng hơn là
kết quả giáo dục phải được thể hiện thành tình cảm, niềm tin, hành động thực tế
của học sinh. Giáo dục đạo đức nó là cả một quá trình lâu dài phức tạp đòi hỏi
phải có công phu kiên trì liên tục. Muốn làm được điều này người giáo viên dạy
văn phải nắm được đặc trưng của bộ môn mình phụ trách. Ai cũng biết rằng
môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt ngoài việc giúp các em bước đầu có năng lực
cảm thụ các giá trị chân, thiện, mỹ trong nghệ thuật, năng lực sử dụng Tiếng
Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp thì việc bồi dưỡng tâm hồn, tình
cảm cho học sinh góp phần hình thành ở học sinh biết thương yêu, quý trọng
gia đình, bạn bè, có lòng yêu quê hương đất nước, lòng nhân ái bao dung, tinh
thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Mà điều này
người giáo viên văn lại có cơ hội hơn các bộ môn khoa học khác.
Chính vì vậy, trong đề tài này tôi muốn đưa ra một số thực nghiệm về vấn
đề kết hợp giáo dục tình cảm đạo đức cho học sinh thông qua:
- Giờ đọc hiểu văn bản
- Giờ tập làm văn
- Hoạt động ngoại khóa văn học
II.2. Chương II: Nội dung vấn đề nghiên cứu:
Đạo đức là một hiện tượng xã hội, là sản phẩm quan hệ giữa con người với
con người, giữa cá nhân con người với tập thể, với cộng đồng xã hội. Đạo đức
là yếu tố cơ bản của nhân cách, là nền tảng của bản chất con người. Để vươn
tới sự hoàn thiện trước hết con người phải vươn lên về đạo đức. Vậy mà trong
xã hội hiện nay lại còn không ít những hiện tượng tiêu cực, những hành vi xấu
thiếu nhân cách đã và đang từng bước làm tổn hại đạo đức truyền thống của thế
hệ trẻ chúng ta. Vì vậy việc giáo dục đạo đức học sinh thông qua các môn học
trong nhà trường là hết sức cần thiết và cấp bách. Người giáo viên lên lớp ngoài
nhiệm vụ là hướng dẫn các em tiếp nhận kiến thức văn hóa mà còn phải hình
thành cho các em những khái niệm về nhân cách đạo đức. Vì xưa nay trong
việc đào tạo con người, văn chương vẫn được sử dụng như một công cụ đắc
hiệu. Không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của văn chương trong việc xây
dựng và giữ gìn đạo đức xã hội, đúng như vai trò xã hội- nhân văn của nó. Nếu
nói người giáo viên là những kỹ sư tâm hồn thì điều đó đúng nhất đối với các
thầy cô giáo dạy văn. Vì văn học chính là bộ môn dễ gây xúc động vui buồn,
tác động nhiều nhất đến thế giới nội tâm của con người. Hơn nữa việc bồi đắp
tâm hồn dân tộc cho thế hệ trẻ lại càng cần thiết trong xu thế hội nhập thế giới
hiện nay để họ không tự đánh mất mình mà phát huy đầy đủ năng lực nội sinh
của dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy vậy trên thực tế giảng dạy, nhiều giáo viên còn coi nhẹ điều này mà họ
cho rằng dạy đạo đức trong nhà trường là việc của giáo viên chủ nhiệm và giáo
viên giảng dạy bộ môn giáo dục công dân. Trong mục tiêu bài dạy có mục giáo
dục tình cảm, thái độ cho học sinh thế nhưng khi lên lớp giáo viên lại chỉ lo làm
sao truyền thụ được hết được đầy đủ kiến thức sách giáo khoa là tốt lắm rồi, mà
không chú ý đến việc giáo dục tình cảm thái độ cho học sinh. Nói về sự xuống
cấp của đạo đức học sinh có nhiều nguyên nhân, gia đình thì chỉ quan tâm đến
việc con học được mấy điểm chứ đâu có quan tâm đến việc con chơi thế nào?
chơi với ai? còn nhà trường thì chú trọng nhiều đến dạy kiến thức hơn là dạy
đạo đức. Chính vì vậy mới dẫn đến tình trạng học sinh thiếu tinh thần ý thức
trong học tập, lười học các giờ học nói tự do, nói leo cô giáo, về nói dối cha
mẹ. Kỹ năng ứng xử trong giao tiếp hạn chế, tình trạng học sinh nói trống
không với thầy cô, với bố mẹ không phải là ít. Trong cuộc sống thì tỏ ra ích kỷ,
không biết quan tâm chia sẻ với những người xung quanh, ham chơi đua đòi
Như vậy để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thì người giáo viên phải
có những nhận thức đúng đắn và đưa vấn đề giáo dục đạo đức vào trong giảng
dạy của mình. Đó là nội dung mà tôi muốn đặt ra trong bài viết này.
* Nội dung và biện pháp thực hiện:
Môn Văn là một môn có tầm quan trọng đặc biệt trong nhà trường, thế
nhưng dạy văn không giống như bất kỳ môn học nào khác. Giáo viên dạy Lịch
sử thì quan tâm đến sự kiện, giáo viên Địa lý quan tâm đến các yếu tố tự nhiên
và xã hội, dạy Toán chú ý đến các con số lạnh lùng. Dạy văn không chỉ cần đến
kiến thức là đủ mà thêm vào đó là cảm xúc, tình cảm sự rung động của con tim,
cái xuất thần của tâm hồn, cần đến cái không khí văn, chất văn trong lớp học
trong mỗi cá nhân thầy và trò. Trong bài viết này tôi chỉ xin nêu nội dung và
biện pháp thực hiện trong ba hoạt động của quá trình dạy học môn Ngữ Văn.
Thứ nhất: Giáo dục tình cảm đạo đức học sinh thông qua giờ đọc- hiểu văn
bản
Theo các nhà tâm lý học thì lứa tuổi học sinh cơ sở là lứa tuổi nằm trong
những năm tháng mà con người đang mở ra cho mình những cảm xúc và hứng
thú mới mẻ. Đây là lứa tuổi giàu cảm xúc nhất trong một đời người. Thế giới
nội tâm và quan hệ xã hội xung quanh của lứa tuổi này rất phức tạp về hành vi.
Các em còn mang tính trẻ con nhưng ý thức lại cho mình là người lớn. Các em
thường mâu thuẫn giữa hành động bên ngoài và nội tâm bên trong. Các em đã
có hứng thú và cảm xúc mới mẻ, phương pháp hiếu động, các em ngồi học
không yên, hay nói chuyện riêng, thiếu tập trung trong giờ học. Để ổn định do
làn sóng này là điều rất khó. Nhưng chính cái hiếu động cảm xúc ấy bản thân
nó lại bao hàm một năng lực sáng tạo to lớn, cụ thể là năng khiếu sáng tạo biểu
hiện rõ trong văn học. Các em dễ dàng đồng cảm với nhân vật, nhập cuộc sống
với tác giả, lứa tuổi các em đã xuất hiện một chuyển biến đáng kể về năng lực
cảm thụ văn học. Sự đánh giá nhìn nhận của các em đã có ý thức. Dựa vào đặc
điểm tâm lý này mà người giáo viên văn phải biết tạo hứng thú học, học sinh có
thích học bộ môn thì mới nói đến chuyện bồi dưỡng cho các em tình cảm, thái
độ sau giờ học được. Vì thế trong giờ hiểu văn bản bước đầu tiên tôi muốn tạo
hứng thú cho giờ học văn bằng cách dẫn dắt vào bài một cách hấp dẫn. Vào bài
mới là tạo tâm thế ban đầu, tạo không khí cho một giờ học văn, học sinh có
cảm giác tò mò muốn khám phá trước khi đến với một tác phẩm văn học. Việc
làm này có thể có giáo viên còn coi nhẹ, vào giờ văn sau khâu kiểm tra bài cũ,
giáo viên bị ức chế do học sinh không học bài, không soạn bài rồi thầy cô quát
mắng học sinh. Sau đó vào bài mới bằng một nhan đề trên bảng, như vậy thì
làm sao tâm hồn các em có thể rung động với cái hay, cái đẹp của văn chương.
Cho nên khâu kiểm tra bài cũ trong môn văn cũng nên nhẹ nhàng, thoải mái
không nên lạm dụng, ôm đồm bắt học sinh phải trả lời những câu hỏi quá khó
hoặc quá vụn vặt. Lời giới thiệu bài nhẹ nhàng, hấp dẫn của giáo viên ngay từ
giây phút đầu tiên đã đưa các em vào không khí văn chương.
Ví dụ: Dạy bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải- Ngữ văn 9 tập II. Tôi
vào bài như sau:
“ Mùa xuân- khoảnh khắc thiên nhiên tươi đẹp khởi đầu một năm. Mùa
xuân đã từng là đề tài khơi nguồn cảm xúc biết bao thi nhân, chúng ta đã từng
được chiêm ngưỡng một bức tranh xuân tuyệt đẹp qua ngôn ngữ thơ ca của thi
hào Nguyễn Du, xuân của đất trời- xuân của lòng người. Mỗi người có một
cảm xúc riêng khi mùa xuân về. Vậy nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận như thế
nào về mùa xuân qua nhan đề “Mùa xuân nho nhỏ” ấy. Hôm nay cô cùng các
em sẽ tìm hiểu ”
Hay khi dạy bài “Mây và sóng” tôi giới thiệu như sau:
“Tình cảm gia đình và đặc biệt là tình mẫu tử có lẽ là một trong những tình
cảm thiêng liêng nhất và đó cũng là nguồn thi cảm không bao giờ cũ, không
bao giờ vơi cạn của các nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ. Giờ học hôm nay các em sẽ
được tìm hiểu nguồn cảm xúc thiêng liêng đó qua một tác phẩm văn học nước
ngoài ”.
Không những thế trong giờ đọc hiểu văn bản người giáo viên biết kết hợp
khéo léo với việc giáo dục tình cảm học sinh qua phương pháp đọc sáng tạo.
Bởi đọc là một trong những hình thức hoạt động nhận thức của con người. Nó
phản
ánh năng lực tư duy bằng ngôn ngữ và thông qua ngôn ngữ. Riêng đối với văn
học, đọc phản ánh những tình cảm, những ý chí, những ước vọng, những động
lực của tâm hồn và cùng với tiếng lòng của nhà văn thể hiện trong tác phẩm.
Đọc là tiếng đồng vọng của con người trước thời đại và lịch sử. Đọc nó giống
như một hoạt động tinh thần, một hoạt động nhận thức. Đọc cũng giúp con
người có ý thức khám phá những giá trị chân, thiện, mỹ.
Chính vì thế dạy văn không thể không hướng dẫn học sinh đọc văn phải
hướng dẫn các em đọc chuẩn văn bản có nghĩa là phải đọc đúng, đọc rõ, đọc
diễn cảm, đọc hay, đọc như là một sự tự biểu hiện, như là sự tự cảm nhận nên
khi đọc phải hướng dẫn các em dựa trên đặc điểm thể loại của văn bản, tính
cách của nhân vật, phong cách của tác giả để điều chỉnh giọng đọc cho phù
hợp. Người giáo viên văn phải coi phương pháp đọc sáng tạo là phương pháp
đặc biệt đối với môn văn mà trong đó đọc diễn cảm chỉ là một phần của đọc
sáng tạo. Giáo viên phải biết vận dụng phương pháp này trong suốt giờ học cho
đến khi bài học kết thúc, chứ không phải chỉ là đọc gây không khí đầu giờ học
như một số người thường nghĩ.
Tóm lại “đọc” là một hoạt động quan trọng hàng đầu cho sự cảm nhận và
hiểu biết, trong hoạt động “đọc” thì phần đọc mẫu của giáo viên vô cùng quan
trọng trong một giờ dạy văn. Cô giáo có giọng đọc truyền cảm, hấp dẫn tự
nhiên sẽ làm cho học sinh chú ý, háo hức theo dõi. Vì đối với nghệ thuật của
văn chương, sự tồn tại của âm thanh ngôn từ vô cùng quan trọng. Ví dụ khi dạy
một bài thơ trữ tình nếu giáo viên luyện cho học sinh đọc ngân vang lên bằng
âm điệu tiết tấu, bằng cái vỏ âm thanh của ngôn từ thì sẽ góp phần tạo nên
những rung động sâu xa, những cảm xúc thẩm mỹ trong tâm hồn học sinh. Như
vậy là chúng ta đã góp phần giáo dục, giáo dưỡng tâm hồn, tình cảm học sinh
qua giờ văn học.
Nhìn chung thì việc dạy học văn ở trường phổ thông có hai mục đích chính.
+ Thứ nhất: Nhằm giúp học sinh lĩnh hội kiến thức văn chương như tất cả
các môn học khác.
+ Thứ hai: Nhằm giúp học sinh cảm thụ tác phẩm văn chương tạo điều kiện
giáo dục những phẩm chất tốt đẹp cho các em. Giúp các em hiểu một cách sâu
sắc những giá trị phong phú của văn chương quá khứ và hiện tại.
Chính vì vậy mà vấn đề thứ ba là phải kết hợp giáo dục tình cảm, thái độ
cho học sinh thông qua hoạt động tìm hiểu văn bản. Nói đến văn chương là nói
đến cái đẹp, cái đẹp của văn chương không chỉ thể hiện ở mặt ngôn từ mà nó
còn chìm sâu vào những tầng lớp của văn bản, của thế giới hình tượng. Chính
vì vậy người giáo viên dạy văn phải biết gợi mở ra những điều bí ẩn đằng sau
những câu chữ lặng yên trên trang giấy để chúng lên tiếng đối thoại với từng
học sinh. Người giáo viên phải làm sao cho học sinh cảm thụ cái đẹp văn
chương và cái chất văn ấy thấm dần, thấm sâu vào cuộc đời học sinh để các em
cùng phô diễn cái đẹp ấy trên những bài văn viết và trong lời nói thường ngày.
Muốn làm được điều này người giáo viên phải biết thiết kế trong trang giáo án
của mình một hệ thống câu hỏi phù hợp. Hệ thống câu hỏi trong một bài học
văn rất đa dạng và phong phú, nhưng có thể quy thành 2 loại như sau:
- Các câu hỏi nhằm tìm hiểu tác phẩm có tính chất nghiên cứu văn học
- Các câu hỏi nhằm khơi ngợi hoạt động tự bộc lộ và đồng sáng tạo của học
sinh.
Sử dụng hệ thống câu hỏi phát huy tính tích cực sáng tạo của học trò để
đúng đặc trưng phương pháp bộ môn khiến cho người học văn thật nhẹ nhàng
thoải mái làm lay động tâm hồn học trò cũng là góp phần giáo dục đạo đức cho
các em. Bởi vì đối với bộ môn Ngữ văn thì người thầy không chỉ truyền thụ
kiến thức, kỹ năng văn học đúng hướng, đúng cách trong suy diễn, phỏng đoán
hay áp đặt trong giáo dục tư tưởng, tình cảm mà còn đạt đến mục đích cao cả
nhất là dạy văn để dạy người. Tôi lấy ví dụ: Khi dạy bài “Đức tính giản dị của
Bác Hồ-Ngữ văn 7” hay “Phong cách Hồ Chí Minh”- Ngữ văn lớp 9, giáo viên
đâu có phải cung cấp cho học sinh kiến thức thế nào là sống giản dị mà từ hệ
thống câu hỏi tìm hiểu bằng những từ ngữ câu văn giàu hình ảnh, điểm vài lời
nhận xét, so sánh ý nhị, người giáo viên dẫn dắt các em vào thăm nơi ăn, chốn
ở của Người như vào một bảo tàng vừa bình dị vừa thiêng liêng. Từ chiếc nhà
sàn vẻn vẹn vài phòng với những đồ đạc đơn sơ vừa để ăn ngủ vừa để họp bộ
chính trị bàn về vấn đề sinh tử của triệu con người. Từ những bộ quần áo bà ba
nâu đến đôi dép lốp thô sơ. Một vị Chủ tịch nước nhưng chỉ ăn, chỉ hưởng thụ
những món như cá kho, rau luộc, cà ghém, cháo hoa…những sản vật vừa thân
quen vừa tinh túy của đất Việt tự ngàn năm chắt lọc, thức ăn giản dị mà thân
thương đậm hương sắc quê nhà. Từ cuộc sống giản đơn của vị lãnh tụ mà bồi
dưỡng cho các em
niềm yêu kính tự hào để các em hiểu sâu hơn về những biểu hiện của đức tính
giản dị và như vậy trong các em sẽ hình thành ý thức tự nguyện học tập theo
tấm gương Hồ Chí Minh và các em sẽ tin rằng tấm gương về nhân cách Việt
Nam sẽ muôn đời tỏa sáng. Như vậy người giáo viên văn không chỉ củng cố
cho các em kiến thức của bài Giáo dục công dân mà còn bồi dưỡng cho các em
tư tưởng tình cảm, đạo đức của con người.
Hoặc khi dạy bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt (Ngữ văn 9- tập I). Từ hình
ảnh cái “Bếp lửa” bình thường giản dị và phổ biến trong mọi gia đình Việt
Nam. Nhưng nó cũng thật thiêng liêng kỳ diệu vì nó lại luôn gắn liền với Bà-
Người nhóm lửa, giữ lửa, người tạo nên tuổi ấu thơ của cháu. Bếp lửa trở thành
một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của
người cháu ở nơi xa. Bằng một hệ thống ngôn từ, nghệ thuật ẩn dụ đặc sắc,
người giáo viên văn đã phả vào tâm hồn học sinh tình cảm đẹp đẽ và thấm đẫm
của bà đối với cháu và cháu đối với Bà trong lúc hiện thực xã hội còn có những
hiện tượng tiêu cực: Con chửi lại cha, cháu cãi lại bà thì vấn đề gắn với giáo
dục đạo đức học sinh qua giờ Ngữ văn là rất cần thiết, làm sao để qua một giờ
học văn giáo viên góp phần tích cực thực hiện mục tiêu đào tạo của trường phổ
thông cơ sở là bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, xây dựng nhân cách con người
mới cho học sinh, giáo dục cho các em tình yêu quê hương đất nước và tinh
thần quốc tế vô sản, tư tưởng làm chủ tập thể, thái độ lao động XHCN và
những đức tính tốt đẹp khác như lòng nhân ái, tinh thần dũng cảm, ý thức chủ
động sáng tạo trong cuộc sống. Bằng giọng thơ hay, bằng câu hỏi gợi sự nhận
xét tinh túy về cách nhìn, cách nghe và sự gợi cảm, làm thế nào để các em có
thể tự hình dung được trong tâm trí mình cả thiên nhiên và cuộc sống có thực
có mơ, gần hay xa, xưa hay nay để cho tâm hồn được mở rộng hơn, say sưa
hơn và chính nhờ đó mà biết yêu thích, sống hồn nhiên và rung động hơn. Các
em có thể cảm nhận được cả mùi hương ổi chín nồng nàn ở chốn thôn quê, gần
gũi và quen thuộc đang phả vào làn gió se se lạnh đầu mùa hay một làn sương
mỏng manh duyên dáng đang giăng mắc nhẹ nhàng nơi đầu thôn ngõ xóm
trong bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh- Văn 9. Từ chỗ các em được chiêm
ngưỡng một khúc giao mùa nhẹ nhàng thơ mộng mà cũng thầm thì triết lý. Các
em sẽ thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên thật là hấp dẫn, nếu con người ta biết
rung động trước vẻ đẹp của nó.
Có thể nói sau khi học xong một bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” hay “Sang
thu” có những em học sinh biết dậy sớm để ngắm một cảnh bình minh đẹp,
quan sát một giọt sương long lanh, một tia nắng hay lắng nghe một tiếng chim
hót, biết yêu thương ông bà, cha mẹ, anh chị em, quê hương, làng xóm thì
chính những em đó đã tiếp thu bài giảng có hiệu quả.
Tôi lấy ví dụ về một bài giảng cụ thể như sau:
Bài 30: Văn bản- Bố của Xi Mông
Trích: Guy Đơ- Môpaxăng
A. Mục tiêu cần đạt:
1. Kiến thức:
- Giúp học sinh hiểu được Môpa xăng đã miêu tả sắc nét diễn biến tâm trạng
của ba nhân vật chính trong văn bản.
2. Kỹ năng:
- Rèn kỹ năng phân tích nhân vật qua diễn biến tâm trạng theo mạch cốt
truyện.
3. Thái độ:
- Giáo dục học sinh lòng yêu thương bè bạn và mở rộng ra đó là tình yêu
thương con người.
B. Chuẩn bị:
- Của thầy: Chân dung của tác giả Môpa xăng, máy chiếu
- Của trò: Đọc và nghiên cứu trước văn bản, trả lời câu hỏi gợi ý SGK
C. Phương pháp:
- Đàm thoại, phân tích, giảng bình
- Tổ chức hoạt động cá nhân- nhóm
D. Tiến trình giờ dạy:
I. ổn định tổ chức:
II. Kiểm tra bài cũ:
? Nhân vật Rô- Bin- Xơn hiện lên qua lời tự thuật như thế nào? Qua đoạn
trích bộ lộ phẩm chất gì của nhân vật?
* Yêu cầu: Rô- Bin- Xơn sống một cuộc sống khác thường thiếu thốn và
khắc nghiệt một mình nơi đảo hoang trong thời gian dài. Anh đã tự chế tạo ra
những trang phục và trang bị những kỳ cục (dẫn chứng) trông anh giống như
một vị chúa đảo-> bộc lộ một con người có nghị lực, sống lạc quan trong mọi
hoàn cảnh.
III. Bài mới:
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Con có cha như nhà có nóc”. Cái nóc của ngôi
nhà sẽ che chắn cho suốt cuộc đời mỗi đứa con. Nhưng nếu vì một lý do nào đó
mà đứa con mất đi “Lá chắn” của mình thì chúng sẽ ra sao? Đoạn trích “Bố của
Xi- Mông” mà hôm nay chúng ta học sẽ giúp cho các em hiểu hơn về tình
người, tình đời trong cuộc sống của mỗi con người.
Hoạt động của giáo viên và học sinh
Nội dung bài giảng
Hoạt động 1:
Giáo viên trực quan chân dung tác giả trên
máy chiếu
?Hãy nêu tóm tắt những hiểu biết của em về
I. Giới thiệu tác giả- tác phẩm:
1. Tác giả:
- Guy đơ Môpa Xăng (1850-
1893)
tác giả Môpa xăng
Giáo viên giới thiệu thêm: (Môpa xăng là
một nhà văn hiện thực vĩ đại của nước pháp
thế kỷ XIX. Ông sinh trong một gia đình quý
tộc sa sút. Từ bé đã phải sống trong một bi
kịch gia đình, năm 11 tuổi trở đi chỉ được
sống với mẹ, lớn lên học luật, khi chiến
tranh Pháp- Phổ ông nhập ngũ và làm việc ở
bộ Hải quân, Bộ Giáo dục. Trên dưới 30 tuổi
ông mới viết văn nhưng sự nghiệp văn
chương của ông rất đồ sộ với nhiều tác phẩm
nổi tiếng. Cuộc đời ông có nhiều bất hạnh.
Ông mắc bệnh tâm thần và chết đau đơn
trong nhà thương điên vào ngày 06/7/1893).
? Nêu xuất xứ của đoạn trích học?
Yêu cầu: Đọc giọng kể chuyện phân biệt lời
kể tả, lời đối thoại giữa các nhân vật.
Gọi 2 học sinh đọc=> nhận xét
? Qua việc đọc văn bản kết hợp với lời giới
thiệu trong SGK. Một em hãy tóm tắt lại nội
dung đoạn trích?
(Xi- Mông là con trai của chị B lăng sốt, khi
đó nó khoảng 7- 8 tuổi lần đầu tiêu đến
trường bị bạn bè chế giễu là không có bố. Nó
rât buồn và đau khổ, nó ra bờ sông định nhảy
xuống sông cho chết đuối. Gặp bác Phi- líp,
bác đưa nó về nhà và hứa sẽ cho nó một ông
bố. Sáng hôm sau đến trường nó hãnh diện
khoe với bạn bè bố nó tên là Phi- líp).
? Em hiểu thế nào là lầm lỡ?
? Từ ác ý được hiểu như thế nào?
? Văn bản thuộc thể loại nào? đoạn trích
Là nhà văn hiện thực pháp, sáng
tác với số lượng lớn, phản ánh
sâu sắc xã hội Pháp cuối thế kỷ
XIX.
2. Tác phẩm:
- Văn bản trích trong truyện
ngắn cùng tên
3. Đọc, hiểu chú thích:
a. Đọc, tóm tắt
b. Chú thích SGK
c. Từ khó: SGK
được viết theo phương thức biểu đạt nào?
- Tự sự, miêu tả, biểu cảm
? Truyện được kể theo ngôi kể nào? có tác
dụng gì trong việc biểu đạt nội dung?
- Ngôi kể thứ ba=> người kể dấu mình=> kể
tự do nhìn thấy hết được những gì diễn ra
với nhân vật.
? Truyện có những nhân vật nào?
Xi- Mông, B lăng sốt, Phi líp=> nhân vật
chính. Vậy sự việc gì đã diễn ra xoay quanh
3 nhân vật này?
? Dựa vào diễn biến của truyện với tiêu đề
SGK hướng dẫn, em phân đoạn như thế nào
cho hợp lý?
- Trực quan bảng phụ
1. Từ đầu-> “khóc hoài”: Nỗi tuyệt vọng của
Xi- Mông
2. Tiếp-> “một ông bố”: Xi- Mông gặp bác
Phi- líp
3. Tiếp-> “rất nhanh”: Bác Phi- líp đưa Xi-
Mông về nhà.
4. Còn lại: Câu chuyện ở trường sáng hôm
sau.
? Các em có nhận xét gì về trình tự bố cục
này?
- Hợp lý, theo trình tự thời gian và diễn biến
truyện.
Giáo viên: Đoạn trích có 3 nhân vật chính
nhưng sự việc lại được bắt đầu từ nhân vật
nào?
? Em hiểu gì về nhân vật Xi- Mông qua lời
II. Phân tích văn bản:
1. Kết cấu bố cục:
- Thể loại: Truyện ngắn
- Bố cục: 4 đoạn
2. Phân tích:
Xi-
Mông
Con trai của chị B
lăng sốt
7- 8 tuổi hơi
giới thiệu?
? Lý do vì sao Xi- Mông đi ra bờ sông một
mình?
Giáo viên: Xi- Mông ra bờ sông và sự việc
gì đã diễn ra với em ở bờ sông-> quan sát
kênh chữ SGK.
? Qua đoạn 1 em hiểu Xi- Mông ra bờ sông
trong một tâm trạng như thế nào?
- Buồn đau khổ
? Em hiểu vì sao Xi- Mông đau khổ?
- Vì em không có bố
? Nỗi đau ấy đã được nhà văn khắc họa như
thế nào qua ý nghĩ? Tâm trạng và cách nói
năng của em?
- ý nghĩa: Muốn chết
- Hành động: Bỏ nhà ra bờ sông
? Thế nhưng tại sao khi ra bờ sông em lại từ
bỏ ý định tự tử?
- Cảnh tượng ở bờ sông rất đẹp và hấp dẫn
em
? Cảnh tượng đó được nhà văn miêu tả như
thế nào?
? Cảnh tượng ở bờ sông đã tác động như thế
a. Nhân vật Xi- Mông:
* Tâm trạng của em khi ở bờ
sông:
Trời ấm dễ
chịu
Mặt trời êm
đềm
Nước lấp
lánh
=> Thiên
nhiên đẹp
hấp dẫn
Thấy khoan
khoái
dễ
nào đến tâm trạng của Xi- Mông?
- Từ chỗ muốn chết
? Đặc biệt chi tiết Xi- Mông đuổi bắt chú
nhái rồi bật cười một mình nhớ tới trò
chơi… cho ta thấy Xi- Mông là một đứa bé
như thế nào?
- Rất trẻ con, ngây thơ, yêu thiên nhiên yêu
cuộc sống khóc đấy cười đấy hồn nhiên đáng
yêu.
? Thế nhưng tại sao khi nghĩ về nhà về mẹ
thì em lại thấy buồn và lại khóc?
- Nỗi đau đớn lại trỗi dậy trong em
? Hãy tìm những chi tiết miêu tả tâm trạng
đau đớn của em?
- Khóc, người rung lên, những cơn nức nở
dồn dập xốn xang-> khóc hoài, nói đứt
quãng.
? Qua tất cả những từ ngữ miêu tả đó thể
hiện tâm trạng của Xi- Mông lúc đó như thế
nào?
? Vì sao có thể nói nỗi đau không có bố là
nỗi đau tinh thần lớn nhất của Xi- Mông?
- Chỉ vì bị chế giễu không có bố-> muốn
chết
- Thiên nhiên đẹp hấp dẫn-> nghĩ không có
bố-> nức nở
- Thể hiện ở nỗi khát khao, ở những cơn nức
- Nỗi khổ đau tinh thần không
thể giải thoát đến nỗi tuyệt
vọng.
nở cùng với những câu nói đứt quãng của
em.
- Giáo viên bình: Thế mới biết tình cảm gia
đình là thiêng liêng bất diệt nếu em bé trong
bài “Mây và sóng” của TaGo sẵn sàng từ
chối mọi sự cám dỗ của thiên nhiên để được
ở nhà với mẹ còn Xi- Mông thì dù thiên
nhiên có đẹp đẽ hấp dẫn đến đâu, dù em có
phải chịu sự đau đớn về thể xác em không
nguôi ngoai được nỗi đau không có bố.
Đúng là chỉ khi nào ta bị thiếu đi một thứ gì
đó thì ta mới thấy nó quý giá vô cùng.
? Các em có nhận xét gì về nghệ thuật miêu
tả của tác giả? (thảo luận nhóm)
- Miêu tả chi tiết tâm trạng của nhân vật qua
cảnh tượng thiên nhiên, qua những tiếng nức
nở của nhân vật.
? Theo em thì cách miêu tả này có phù hợp
với tâm lý trẻ thơ không? vì sao?
- Trẻ em ngây thơ, tình cảm hời hợt dễ quên,
buồn chỉ biết khóc.
? Vì sao tác giả Môpa xăng lại hiểu rõ nỗi
đau đớn của Xi- Mông đến như vậy? (thảo
luận nhóm).
- Tác giả thương yêu đồng cảm với nhân vật
? Qua nỗi đau của Xi- Mông tác giả muốn
nhắc nhở chúng ta điều gì?
- Không nên đùa cợt trên nỗi đau của người
khác
? Nếu em được là một người bạn của Xi-
Mông thì em sẽ làm gì cho bạn ấy?
? Nếu trong lớp hoặc trong trường ta có một
bạn rơi vào hoàn cảnh như Xi- Mông thì em
sẽ xử xự với bạn như thế nào?
Thế còn cậu bé Xi- Mông trong câu chuyện,
trong lúc em phải chịu về nỗi đau tinh thần,
trong lúc em đang tuyệt vọng như vậy liệu
có ai giải thoát cho em không? và tâm trạng
của Xi- Mông sẽ như thế nào nếu như em có
một ông bố?
- Một em đọc tiếp “Bỗng một bàn tay”-> “bỏ
đi rất nhanh”
? Sự việc gì đã xảy ra với Xi- Mông trong
lúc em đang đau đớn và tuyệt vọng?
- Gặp bác Phi- líp
? Xi- Mông tỏ thái độ như thế nào khi em
gặp bác Phi- líp ở bờ sông?
- Trả lời mắt đẫm lệ- nghẹn ngào
? Em hiểu thế nào là “đẫm lệ”?
? Câu trả lời nghẹn ngào trong tiếng khóc cố
kìm nén chứng tỏ tâm trạng Xi- Mông như
thế nào?
? Xi- Mông đã nói với bác Phi- líp như thế
nào? câu nói đó thể hiện điều gì?
- Khát khao có bố
? Khi bác Phi- líp nhận lời sẽ làm bố của em
thì thái độ của Xi- Mông như thế nào?
- Xi- Mông khẳng định chắc nịch: Bác là bố
cháu-> Xi- Mông hết buồn-> vui sung sướng
? Thái độ của em như thế nào trước những
sự trêu chọc của các bạn ở trường?
- Quát vào mặt chúng như ném một hòn đá
* Tâm trạng của Xi- Mông khi
gặp bác Phi- líp:
- Không trả lời gì hết
? Những hành động đó chứng tỏ Xi- Mông
có thái độ như thế nào?
- Hãnh diện, tự hào có một người bố
? Em có nhận xét gì về tâm trạng về tinh
thần của Xi- Mông khi có bác Phi- líp nhận
làm bố?
- Học sinh nghiên cứu đoạn 3
? Chị Blăng sốt được giới thiệu như thế nào?
- Người phụ nữ xinh đẹp nhất vùng
? Theo em chị Blăng sốt có phải là người
phụ nữ xấu không? Vì sao em khẳng định
như vậy?
- Đứng nghiêm nghị như muốn cấm đàn ông
- Ôm con hôn lấy hôn để…
? Khi nghe con hỏi tâm trạng của chị như thế
nào? Hãy tìm những chi tiết mà nhà văn
miêu tả?
- Người đàn bà hổ thẹn lặng ngắt, quằn quại
dựa vào tường hai tay ôm ngực, im lặng, tái
tê thổn thức không ra tiếng-> sống đứng đắn,
nghiêm túc đành chấp nhận hoàn cảnh sống
hiện tại, gửi tình thương yêu vào bé Xi-
Mông.
? Việc miêu tả qua vài nét về hình ảnh của
chị, qua cái nhìn của Phi líp và diễn tả tâm
trạng của chị, ta hiểu chị là người phụ nữ
như thế nào?
- Học sinh nghiên cứu đoạn 2, 3
? Tác giả tả chân dung bác thợ rèn Phi- líp
như thế nào? Em có nhận xét gì về bác?
Tâm trạng hạnh phúc niềm vui
pha chút hãnh diện khi em có
bố.
b. Nhân vật B lăng sốt:
Chị là người phụ nữ đức hạnh bị
lừa dối.
c. Nhân vật bác Phi- líp:
- Phi- líp là một người lao động lương thiện,
yêu nghề khỏe mạnh, nhân hậu, yêu trẻ.
? Vì sao bác lại an ủi và đưa Xi- Mông về
nhà?
- Bác nhận ra sự đau khổ của Xi- Mông,
thông cảm với nỗi bất hạnh của em.
? Tại sao bác lại trở nên rụt rè ấp úng khi nói
với chị Blăng sốt?
- Bác là người đàn ông đứng đắn biết tự
trọng và tôn trọng người khác, lúc đầu có ý
định đùa cợt-> nể trọng-> lời lẽ trở nên trang
trọng.
? Tại sao bác nhanh chóng nhận lời làm bố
của Xi- Mông?
- Thương cảm, yêu quý Xi- Mông
- Cảm mến chị Blăng sốt
- Muốn bù đắp sự mất mát cho Xi- Mông
? Chi tiết “Bác nhấc bổng Xi- Mông lên hôn
em” nói lên tâm trạng của Bác lúc đó như
thế nào?
- Sự xúc động đột ngột của bác về quyết
định của chính mình có phần ngượng ngùng
xấu hổ.
? Qua những việc mà bác đã làm cho Xi-
Mông chứng tỏ bác là con người như thế
nào?
- Nhân hậu giàu tình yêu thương con người
? Qua văn bản tác giả muốn nhắn nhủ ta điều
gì? (lòng cảm thương và tình yêu con người,
bè bạn nhất là đối với những người nghèo
khổ, bất hạnh).
- Một người lao động khỏe
mạnh lương thiện có trái tim
nhân hậu.
III. Tổng kết:
1. Nội dung:
? Em có nhận xét gì về nghệ thuật miêu tả
diễn biến tâm trạng của nhân vật? (3 nhân
vật).
(Thể hiện tâm trạng, phẩm chất nhân vật qua
tả ngoại hình cử chỉ, lời nói phù hợp lứa tuổi
hoàn cảnh).
- Một em đọc ghi nhớ- SGK 144
- Truyện nhắc nhở chúng ta về
lòng yêu thương con người,
thông cảm với nỗi đau của
người khác.
2. Nghệ Thuật: Miêu tả tâm
trạng nhân vật
3. Ghi nhớ: SGK- T144
IV. Củng cố:
- Một em đọc lại văn bản
V. Hướng dẫn về nhà:
- Tập phân tích 3 nhân vật
- Ôn tập lại toàn bộ truyện
E. Rút kinh nghiệm:
Hay tôi lấy ví dụ khác: Sau khi hướng dẫn các em đọc thêm văn bản “Con
Cò- Ngữ Văn 9- tập II”, tôi có cho một bài tập về nhà với yêu cầu như sau:
“Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về hai câu thơ được đúc rút như một quy
luật:
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con”.
Em Thu Hằng học sinh lớp 9B đã cảm nhận như sau:
“Mỗi đứa trẻ dù đã khôn lớn trưởng thành, vững vàng trong cuộc sống
vẫn luôn là đứa con bé bỏng cần sự ôm ấp che chở từ tình yêu thương ấm áp
của người mẹ. Để trên mỗi bước đường đời khi vấp ngã họ có thể trở về với
vòng tay mẹ bao dung, tìm lại mối giao hòa và điểm tựa vững chắc nơi suối
nguồn tình cảm Dù con đã lớn khôn nhưng mẹ lúc nào cũng là chiếc bóng âm
thầm bên đời con trên vạn ngả, bởi con là tất cả vui buồn của lòng mẹ yêu
thương. Vậy nên:
“Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời lòng mẹ vẫn thương con.””
Hay một dẫn chứng khác: Sau khi học xong bài thơ “Mây và sóng” của nhà
thơ Ta-Go (Ngữ văn 9- tập II) tôi ra một bài tập về nhà như sau:
“Em suy nghĩ gì về tình mẫu tử sau khi học xong bài thơ “Mây và sóng”. Hãy
bày tỏ suy nghĩ đó của em bằng 1 đoạn văn.”
Thật bất ngờ em Thái Hà học sinh lớp 9C lại cho cả lớp nghe một bài thơ
viết về mẹ như sau:
Nếu mẹ là
Nếu mẹ bỗng hóa thành vầng trăng
Thì con xin được làm suối mát
Suối chan hòa trong ánh trăng bát ngát
Con ngoan hiền trong tình mẹ bao la.
Nếu mẹ bỗng biến thành vầng dương
Thì con xin được làm cây cỏ
Cây không thể thiếu mặt trời đỏ
Cũng như con không thể thiếu Người.
Nếu mẹ bỗng tan thành cơn gió
Con sẽ làm đồng ruộng xanh tươi
Gió mơn man ngọn lúa vui cười
Hai mẹ con ta cùng ca hát.
Nhưng mẹ ơi! Mẹ đừng làm gì nữa
Con chỉ muốn mẹ là mẹ thôi
Mẹ của con chỉ có một trên đời
Con sống mãi trong tình thương của mẹ.
Nghe em Hà đọc bài thơ này tôi thiết nghĩ nếu gọi đây là một bài thơ theo
đúng một tác phẩm nghệ thuật thì hẳn còn khiếm khuyết nhưng tôi nhận thấy
được giá trị to lớn của nó là ở chỗ bài Ngữ văn mà cô giảng trên lớp chắc chắn
đã thấm dần vào tâm hồn trẻ thơ của các em.
Hoặc tôi lấy một ví dụ khi làm đề văn: “Hãy kể về một người thân yêu của
em” một em học sinh lớp 6 đã kể về người bố của mình như sau: “…Hôm đó,
đã 7 giờ tối rồi, cả nhà em đợi mãi mà không thấy bố em đi củi về. Em buồn và
lo cho bố lắm, không biết vì sao mà hôm nay bố em lại đi rừng về muộn như
vậy. Em chờ mãi…rồi bố em cũng về, trên chiếc xe đạp cũ kỹ bố em thồ hai bó
củi rất to và nặng. Nhìn quần áo bố bẩn lấm lem, mặt ướt đẫm mồ hôi, em thấy
thương bố quá. Chỉ vì lo lấy tiền cho chúng em ăn học mà ngày nào bố em
cũng phải đi rừng như thế. Em vội chạy vào nhà rót cho bố em một cốc nước
vối nguội mời bố uống rồi lấy chiếc quạt nan quạt cho bố. Sau khi nghe bố kể
em mới biết hôm nay bố về muộn là do cái xe đạp của bố bị bục săm. Những
dòng nước mắt của em cứ chảy dài, em thương bố nhiều lắm…”.
Lời văn bộ bạch chân thành của em học sinh đó khiến lòng tôi bồi hồi xúc
động. Tình thương yêu người cha của một em học sinh vùng nông thôn còn
nhiều khó khăn thiếu thốn nó là như vậy đấy. Có phải đâu là một cốc nước
chanh đá mát lạnh hay một làn gió mát của chiếc quạt điện mà đó chỉ là một
cốc nước vối nguội trong một chiếc bình sứ ta vẫn thường gặp ở những vùng
nông thôn dân dã…lời kể rất thật của em đã bộc lộ được lòng yêu thương mẹ
cha, biết cảm thông với nỗi vất vả của cha mẹ. Phải chăng chính tình thương
yêu cha mẹ đã khơi nguồn cảm xúc để các em có thể cho ra đời những đoạn
văn, bài thơ mộc mạc, chân thành đến như vậy.
Thứ hai: Giáo dục tình cảm đạo đức học sinh qua giờ tập làm văn
Thực tế cho thấy không ít học sinh hiện nay rất yếu kém về văn hóa giao
tiếp, nhiều đồng chí giáo viên đã từng phàn nàn về chuyện học sinh nói leo một
cách hồn nhiên hay ngang nhiên nói chuyện riêng trong giờ học, rồi chuyện học
sinh nói tục, chửi thề, xưng hô không đúng trong giao tiếp. Đặc biệt điểm yếu
dễ nhận ra của học sinh phổ thông ở vùng nông thôn là rất rụt rè, lúng túng
trong giao tiếp do tâm lý e ngại hoặc khi đứng trước tập thể không biết nói như
thế nào. Bước vào một môi trường văn hóa là nhà trường nhưng đa số học sinh
vẫn mang theo tâm lý và lối ứng xử hồn nhiên thường ngày. Tôi thiết nghĩ là
người làm công tác giáo dục đặc biệt là giáo viên Ngữ Văn cần chú trọng giáo
dục văn hóa, giao tiếp ứng xử cho học sinh. Chính vì vậy tôi đặc biệt chú ý uốn
nắn cho các em từ cách trả lời phải nói thành câu, tránh cách nói cộc lốc. Đặc
biệt trong các giờ luyện nói trong chương trình, giáo viên thường lúng túng
trong khâu tổ chức, có khi giờ luyện nói lại trở thành giờ luyện viết đoạn văn.
Thực tế tâm lý chung của giáo viên Ngữ văn là ngại dạy các giờ luyện nói.
Nguyên nhân cơ bản là do học sinh chưa có kỹ năng nói trước tập thể hoặc học
sinh không có sự chuẩn bị chu đáo về nội dung trước ở nhà lên lớp thường giáo
viên khó lòng thực hiện thành công. Để nâng cao chất lượng giờ luyện nói
người giáo viên phải có sự phân công nội dung cụ thể để các em hình dung
được mình sẽ nói cái gì (đề tài giao tiếp) nói với ai (xác định đối tượng giao
tiếp), nói trong hoàn cảnh nào (xác định hoàn cảnh giao tiếp), nói để làm gì
(mục đích giao tiếp), nói như thế nào (cách thức giao tiếp).
Nói tóm lại người giáo viên cần sáng tạo các hình thức hoạt động sao cho
sinh động hấp dẫn, để học sinh chủ động hoạt động và bộc lộ có tác dụng giáo
dục nhẹ nhàng mà sâu sắc. Các đề tập làm văn trên lớp hay cho về nhà, giáo
viên cũng cần hướng cho các em vào những chủ đề có ý nghĩa giáo dục như:
Vấn đề bảo vệ môi trường hay phòng chống các tệ nạn xã hội, kể lại dịp tham
gia lễ hội ở địa phương em, giới thiệu một danh lam thắng cảnh ở địa phương.
Với những đề bài tập làm văn như vậy sẽ tạo điều kiện cho các em bộ lộ được
nhận thức và bày tỏ thái độ tình cảm của mình về trách nhiệm của cá nhân đối
với cộng đồng. Tình cảm đối với quê hương và trách nhiệm của bản thân các
em trước vấn đề toàn xã hội quan tâm.
Thứ ba: Giáo dục tình cảm đạo đức học sinh qua hoạt động ngoại khóa
Hoạt động ngoại khóa là hình thức hoạt động (ngoại) tiết học là một nhiệm
vụ bổ trợ rất cần thiết. Hoạt động ngoại khóa có vai trò vô cùng quan trọng đối
với hoạt động ngoài giờ. Ví dụ các Câu lạc bộ sáng tác ngâm thơ, diễn kịch
hoặc sưu tầm nếu giáo viên tổ chức tốt sẽ kích thích lòng ham mê văn học. Hay
những buổi ngoại khóa về tác phẩm hoặc gặp gỡ nhà văn, giúp cho học sinh
thấy được cuộc sống văn chương thật gần gũi, ngoại khóa sẽ bổ trợ cho nội
khóa, khắc sâu thêm kiến thức nội khóa.