Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Ôn thi môn Xã hội học trong lãnh đạo quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (625.1 KB, 97 trang )

NỘI DUNG 1
Câu 1: Đối tượng nghiên cứu và lịch sử hình thành phát triển của XHH. Liên hệ thực tiễn du nhập và
phát triển XHH ở Việt Nam?
Câu 2: Chức năng của Xã hội học và liên hệ vấn đề sử dụng tri thức xã hội học trong hoạt động lãnh đạo quản
lý ở Việt Nam, ở cơ quan, đơn vị, địa phương hoặc lĩnh vực công tác?
NỘI DUNG 2
Câu 1: Những vấn đề lý luận của biến đổi xã hội từ góc nhìn của Xã hội học.
NỘI DUNG 2 - Câu 2: Một số xu hướng biến đổi xã hội lớn ở Việt Nam trong giai đoạn đổi mới.
NỘI DUNG 3:
Câu 1 - Hệ thống phương pháp nghiên cứu của Xã hội học.
Câu 2 - Ý nghĩa của hệ thống phương pháp xã hội học đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý hiện nay.
NỘI DUNG 4
Câu 1. Quan niệm xã hội học về cơ cấu xã hội và các thành tố cơ bản của cơ cấu xã hội.
Câu 2. Các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản mà Xã hội học nghiên cứu hiện nay.
NỘI DUNG 5
Câu 1: Quan niệm xã hội học về phân tầng xã hội, di động xã hội.
Câu 2: Những vấn đề phân tầng xã hội đặt ra đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện
nay.
NỘI DUNG 6
Câu 1: Khái niệm, tính chất và các chức năng cơ bản của dư luận xã hội
Câu 2: Phân biệt dư luận xã hội với tin đồn, tin giả và đề xuất giải pháp chống lại tin đồn, tin giả
NỘI DUNG 7:
Câu 1: Khái niệm, tính chất, các chức năng cơ bản của dư luận xã hội
Câu 2: Khái quát về các phương pháp nắm bắt dư luận XH.
NỘI DUNG 8
Câu 1: Mối quan hệ giữa truyền thông và dư luận xã hội.
Câu 2: Những giải pháp phát huy vai trò tích cực của truyền thơng trong định hướng dư luận xã hội
phục vụ các mục tiêu phát triển đất nước.
NỘI DUNG 9
Câu 1. Mối quan hệ giữa quy mô dân số và cơ cấu dân số với phát triển ở nước ta hiện nay.
Câu 2. Các vấn đề dân số đặt ra trong hoạt động lãnh đạo, quản lý hiện nay.


NỘI DUNG 10
Câu 1. Vấn đề phân bố dân số và di dân ở nước ta hiện nay.
Câu 2: Các vấn đề dân số đặt ra trong hoạt động lãnh đạo quản lý hiện nay?
NỘI DUNG 11:
Câu 1: Quan niệm về chất lượng dân số.
Câu 2: Những giải pháp nâng cao chất lượng dân số ở Việt Nam trong giai đoạn phát triển hiện nay.
NỘI DUNG 12:
Câu 1: Khái quát những thành tựu, hạn chế trong hoạch định, thưc thi một chính sách xã hội cơ bản từ khi bắt
đầu đổi mới đến nay.
Câu 2: Những quan điểm cơ bản của Đảng ta về chính sách xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
NỘI DUNG 13
Câu 1. Khái quát những thành tựu, hạn chế trong hoạch định, thực thi một số chính sách xã hội cơ
bản từ khi bắt đầu đổi mới đến nay.
Câu 2. Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách xã hội trong bối cảnh phát triển đất nước
hiện nay.
NỘI DUNG 14:


2

CÂU 1: Những nội dung chủ yếu của quản lý biến đổi xã hội và quản lý các vấn đề xã hội. Liên hệ
với thực tiễn ở địa phương nơi công tác.
CÂU 2: Những nội dung chủ yếu của quản lý sai lệch xã hội và quản lý tình huống bất thường. Liên
hệ với thực tiễn ở địa phương nơi công tác.


NỘI DUNG 1
Câu 1: Đối tượng nghiên cứu và lịch sử hình thành phát triển của XHH. Liên hệ thực tiễn du
nhập và phát triển XHH ở Việt Nam?

1. Khái niệm: Về mặt thuật ngữ, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, XHH “Sociology” có gốc ghép từ 2
chữ: Societas”+“logos” có nghĩa là học thuyết, nghiên cứu. Như vậy XHH được hiểu là học thuyết về xã
hội, nghiên cứu về xã hội.Về mặt lịch sử, thuật ngữ này xuất hiện lần đầu tiên năm 1938 trong cuốn
“Thực chứng luận” của nhà xã hội học Aguste Comte. Từ đó, năm 1938 được lấy làm mốc ra đời của môn
xã hội học. A.Comte được coi là cha đẻ của XHH.
Nghiên cứu mối quan hệ này XHH chỉ ra đặc điểm tính chất, điều kiện, cơ chế của sự hình thành vận
động

biến
đổi
tương
tác
giữa
con
người


hội.
Hiện có nhiều trường phái XHH với các quan điểm khác nhau nhưng các định nghĩa về XHH mà họ tìm
ra cũng có nhiều điểm tương đồng:
- XHH là một môn khoa học thuộc các khoa học XH, nghiên cứu các tương tác XH, đặc biệt đi sâu
nghiên cứu một cách hệ thống sự phát triển, cấu trúc, mối tương quan XH và các hành vi hoạt động của
con người trong các tổ chức, nhóm XH.
- Theo các nhà XHH Xơ viết trước đây thì XHH macxit là khoa học về các quy luật phổ biến và đặc
thù của sự vận động và phát triển của các hệ thống XH xác định; là khoa học về cácc cơ chế hoạt động và
các hình thức biểu hiện của quy luật đó trong hoạt động của các cá nhân, tập đoàn XH, giai cấp, dân tộc.
- Theo định nghĩa của G.V. Osipov: “Xã hội học là khoa học về các quy luật và tính quy luật xã hội
chung và đặc thù của sự phát triển và vận hành của các hệ thống XH xác định về mặt lịch sử, là khoa học
về các cơ chế tác động và các hình thức biểu hiện của các quy luật đó trong hoạt động của các cá nhân,
các nhóm XH, các giai cấp và các dân tộc”.

Định nghĩa chung XHH: là một lĩnh vực khoa học xã hội nghiên cứu quy luật, tính quy luật của sự
hình thành, vận động, biến đổi mối quan hệ, tương tác qua lại giữa con người và xã hội.
2. Đối tượng nghiên cứu của XHH: XH là một chỉnh thể rộng lớn toàn diện, là khách thể nghiên
cứu của nhiều khoa học xã hội, trong đó có XHH.Theo đó, đối tượng nghiên cứu của XHH là các quan hệ
xã hội, tương tác XH được biểu hiện thông qua các hành vi xã hội giữa người với người trong các nhóm,
các hệ thống xã hội.Xét trong tiến trình phát triển của XHH, các vấn đề kép : “con người – xã hội”; hành
động xã hội – cơ cấu xã hội”; và “vi mô - vĩ mô” . là chủ đề trung tâm trong nghiêncứuXHH.Quan điểm
chính thống được thừa nhận về đối tượng nghiên cứu của XHH:Là giữa một bên là con người với tư cách
là các cá nhân, các nhóm, các cộng đồng XH với một bên là XH với tư cách là các hệ thống XH, các thiết
chế xã hội và cơ cấu xã hội.Nói một cách kh qt, đối tượng nghiên cứu của XHH là mối quan hệ tương
tác về hành vi XH của con người, mối quan hệ hữu cơ, sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa một bên là con người
với tư cách là cá nhân, nhóm, cộng đồng người và một bên là xã hội với tư cách là hệ thống XH, cơ cấu
XH.
3. Sự phát triển của XHH từ đầu thế kỷ XX đến nay
Sau Comte và Durkheim, Spencer, Marx, Weber, là sự phát triển nở rộ của xã hội học châu Âu cùng
với những thành tựu liên tiếp đạt được trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Xã hội học đã
ngày càng khẳng định mình như là một khoa học độc lập. Trong những năm đầu của thế kỷ XX, xã hội
học đã đóng một vai trị đáng kể trong việc điều hồ quan hệ giữa người và người trong sản xuất, trong
việc nghiên cứu dư luận xã hội, tìm ra các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của các quá trình quản lý.
Tất nhiên, trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, một số học giả tư sản đã cố gắng sử dụng cơng cụ xã hội
học để dung hồ hoặc cố gắng loại trừ các mâu thuẫn, xung đột xã hội nhằm phục vụ và bảo vệ lợi ích
cho nhà nước tư sản.
Vào những năm 20 và 30 của thế kỷ XX, việc nghiên cứu ứng dụng ngày càng chiếm một vị trí to lớn
trong xã hội học. Đến giữa thế kỷ XX, có hai khuynh hướng phát triển của xã hội học: khuynh hướng
châu Âu và Mỹ. Xã hội học châu Âu phát triển gắn liền với triết học xã hội, cịn xã hội học Mỹ thì ngay
từ đầu hình thành như một khoa học về hành vi con người. Những thành tựu chủ yếu của xã hội học Mỹ
là hàng loạt lý luận cấp trung bình, đặc biệt là các lý luận về tổ chức, về cấu trúc xã hội, các nhóm nhỏ,


hành vi tập thể, thông tin đại chúng... định hướng vào việc giải quyết các vấn đề cụ thể. Điều đó hồn

tồn phù hợp với chủ nghĩa thực dụng ở Mỹ. Xã hội học Mỹ mở ra những lĩnh vực mới, mà trước đây
hoàn toàn chưa được nhắc tới. Đến nay, người ta nhận thấy đang có sự "Mỹ hố " xã hội học châu Âu.
Bên cạnh sự phát triển của các trào lưu xã hội học phương Tây, các di sản phong phú trong xã hội
học của Karl Marx đã được nghiên cứu, quán triệt và phát triển hơn nữa trong các tác phẩm của V. I.
Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh, các nhà xã hội học Liên Xơ (trước đây) nay là Nga, các nhà xã hội học
Đông Âu, Việt Nam... Người ta đã nhìn thấy những bước tiến đáng kể cũng như sự đa dạng, phong phú
trong sự phát triển của xã hội học ở những nước này. Đặc biệt là đã xuất hiện một cách nhìn cởi mở,
thơng thống trong sự phê phán, đánh giá và kế thừa những hạt nhân hợp lý trong lý thuyết xã hội học của
phương Tây. Chính việc xuất hiện những yếu tố mới mẻ này đã cổ vũ và khích lệ sự phát triển hơn nữa
trong các nhà xã hội học và đáng hứa hẹn những thành tựu đầy hứng khởi ở phía trước.
4. Liên hệ thực tiễn du nhập và phát triển XHH ở Việt Nam
Xã hội học ở Việt Nam ra đời khá muộn so với các ngành khoa học khác. Cơ quan nghiên cứu về
xã hội học được chính thức ra đời vào ngày 24/03/1976 trong Quyết định số 55/KHXHQĐ do chủ
nhiệm UBKHXHVN Nguyễn Khánh Toàn ký với tên gọi Phịng Xã hội học thuộc Viện thơng tin khoa
học xã hội.
Trong thời gian ban đầu sau khi được hình thành Phịng xã hội học chủ yếu thực hiện nhiệm vụ
biên dịch các tài liệu của người ngoài thuộc các chuyên đề khác nhau của xã hội học. Đến tháng 8/1977
Ban Xã hội học được thành lập, sau đó phát triển lên thành Viện Xã hội học năm 1980 (Trung tâm Khoa
học Xã hội và Nhân văn Quốc gia). Viện xã hội học đã tiến hành nhiều công trình nghiên cứu cả trên
phương diện lý thuyết cũng như thực nghiệm các vấn đề xã hội bức xúc, tham gia tư vấn cho việc xây
dựng những chính sách của Đảng và Nhà nước. Các cơng trình nghiên cứu xã hội học chủ yếu tập trung
vào các lĩnh vực: cơ cấu xã hội, xã hội học đô thị và nông thơn, văn hố, lối sống, gia đình... Đồng thời
Viện xã hội học đã tiến hành các hoạt động dịch thuật và giới thiệu các cơng trình nghiên cứu xã hội học
của các tác giả nước ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu ở Việt Nam. Lần đầu tiên thuật
ngữ Xã hội học được chính thức được đưa vào Nghị quyết lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nghị quyết đã nhấn mạnh: “Mở rộng và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu trên các lĩnh vực luật
học, xã hội học, sử học, khảo cổ học, dân tộc học, ngôn ngữ học, văn học nghệ thuật v.v...”. Có thể nói
đây là lần đầu tiên trong một văn kiện có tính chất cương lĩnh của Đảng, vai trị của xã hội học đã được
xác định. Điều đó có nghĩa là bên cạnh những cơng trình nghiên cứu xã hội thuộc các ngành khoa học xã
hội khác, những cơng trình nghiên cứu xã hội học được chính thức đặt ra và coi trọng.

Cùng với sự ra đời các trung tâm nghiên cứu Xã hội học, từ 1986 trở đi, xã hội học từng bước được
giảng dạy trong nhà trường, trước hết là Học viện chính trị và sau đó được đưa vào chương trình đào tạo
ở các trường Đại học, Cao đẳng trên cả nước. Một bước tiến rõ rệt của ngành xã hội học Việt Nam là sự
chú ý, coi trọng việc đào tạo cán bộ chuyên ngành xã hội học ở bật đại học. Từ năm học 1992-1993,
khoa Xã hội học đào tạo cử nhân Xã hội học chính thức ra đời ở trường ĐH Tổng hợp Hà Nội, bắt đầu
q trình đào tạo chính quy đội ngũ các nhà nghiên cứu xã hội học. Cho đến nay, XHH đã được nghiên
cứu và giảng dạy ở hầu hết trường đại học và viện nghiên cứu lớn như: Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh... Các trung tâm và các cơ sở nghiên cứu này đang từng bước trưởng thành và bước đầu
đã có những đóng góp đáng khích lệ kể cả trên lĩnh vực đào tạo, cũng như các lĩnh vực nghiên cứu xã hội
khá phong phú và đa dạng khác.
Ở Việt Nam, xã hội học cịn rất mới mẻ, có khoảng cách biệt về thời gian khá xa so với các nước
trên thế giới, nhưng nó đã xác định được vị trí và vai trị của mình trong khoa học xã hội và đã có những
tác dụng nhất định trong việc nhận thức và ứng dụng vào quản lý xã hội, quản lý đất nước, trong sự
nghiệp cơng nghiệp hố và hiện đại hoá đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xã hội học
Việt Nam đã phát triển không chỉ với tư cách một khoa học lý luận mà cả với tư cách là một khoa học
ứng dụng. Với tư cách một khoa học lý luận, xã hội học góp phần nâng cao nhận thức của con người về
quá trình và hiện tượng xã hội đồng thời nó là một cơng cụ mạnh mẽ và có hiệu quả trong cuộc đấu


tranh tư tưởng quyết liệt hiện nay trên phạm vi thế giới: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Với tư
cách là một khoa học ứng dụng, xã hội học góp phần to lớn vào các q trình phức tạp và muôn màu
muôn vẻ của sự nghiệp quản lý xã hội.
Câu 2: Chức năng của Xã hội học và liên hệ vấn đề sử dụng tri thức xã hội học trong hoạt động lãnh đạo
quản lý ở Việt Nam, ở cơ quan, đơn vị, địa phương hoặc lĩnh vực công tác?
Xã hội học là một bộ môn khoa học nghiên cứu các “mặt” xã hội, khía cạnh xã hội của thực tại xã hội nói
chung. “Mặt” xã hội hiện diện ở tất các các lĩnh vực của thực tại xã hội. Xã hội học là khoa học nghiên cứu quy
luật của sự nảy sinh, biến đổi và phát triển mối quan hệ giữa con người và xã hội.
Xã hội học trong quản lý có ba chức năng cơ bản: chức năng nhận thức, chức năng thực tiễn và chức năng
giáo dục. Chính các chức năng này đã xác định vai trò quan trọng của xã hội học trong lãnh đạo, quản lý.

1. Chức năng nhận thức
Xã hội học cung cấp một hệ thống các tri thức bao gồm hệ thống các khái niệm lý thuyết, các phương pháp
tiếp cận nghiên cứu cũng như các phương pháp và kỹ thuật điều tra xã hội học góp phần nghiên cứu, nắm bắt được
sâu sắc hơn, đúng đắn hơn quan hệ con người - xã hội.
Lý luận và kết quả của những cơng trình nghiên cứu thực nghiệm và ứng dụng của xã hội học đã góp phần bổ
sung và hồn thiện thế giới quan cho các nhà nghiên cứu và các nhà lãnh đạo quản lý. Nghiên cứu xã hội học giúp
các nhà lãnh đạo quản lý xác định nguyên nhân, lý giải động cơ của những hành động xã hội cũng như các biến đổi
xã hội. Hàng loạt vấn đề trước đây chưa được đề cập tới hoặc bị né tránh thì nay đã được xã hội học luận giải, phân
tích một cách có sức thuyết phục.
Khi đi vào nghiên cứu những quá trình xã hội, xã hội học ln có xu hướng vạch ra những vấn đề mang tính
quy luật của thực tại xã hội, luận giải và làm sáng tỏ trạng thái và xu hướng, biến đổi trong tâm lý của quần chúng,
từ đó làm cơ sở tin cậy cho những quyết định quản lý.
2. Chức năng thực tiễn
- Chức năng “cầu nối”
Hoạt động nghiên cứu của xã hội học, đặc biệt là những hoạt động điều tra khảo sát có ý nghĩa như là "cầu
nối" giữa các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo quản lý, các nhà sản xuất kinh doanh với thực tiễn, cơ sở với cấp
dưới, với cuộc sống với thị trường, với quần chúng nhân dân, chính từ đây mà tạo ra một quy trình khép kín và
hồn chỉnh về sự vận hành xã hội. Nó cung cấp thường xun những thơng tin ngược (feed back) từ cơ sở, từ thực
tiễn lên các nhà lãnh đạo quản lý làm cho các nhà lãnh đạo, quản lý cập nhật được thường xuyên những thông tin
cần thiết, kịp thời phát hiện được những mâu thuẫn, xung đột hay những sai lệch xã hội từ đó mà tiến hành những
điều chỉnh cần thiết cho hoạt động quản lý.
- Chức năng dự báo khoa học
Trên cơ sở của những kết quả nghiên cứu điều tra thực nghiệm, phân tích lơgíc khách quan của các sự kiện, xã
hội học có thể đưa ra các dự báo khoa học, làm sáng rõ triển vọng phát triển xa hơn nữa của các q trình xã hội.
Xã hội học khơng chỉ nhận thức thực tại xã hội, không thể quy xã hội học về thực tại học, mặc dù xã hội học có ưu
thế về mặt này; từ trong bản chất của nó xã hội học cần thiết và có khả năng dự báo những xu hướng trong tương
lai.
- Chức năng kiến nghị, đề xuất
Đồng thời với chức năng dự báo, xã hội học còn đưa ra những kiến nghị, đề xuất lên các cấp lãnh đạo quản lý
xã hội, góp phần vào việc nâng cao tính khoa học và tính hiện thực, khả thi của các chính sách, kế hoạch, chủ

trương, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các quá trình quản lý.
- Chức năng đánh giá
Xã hội học cịn có thể được coi như là “cơng cụ” để đánh giá hiệu quả của công tác quản lý. Với ý nghĩa này,
xã hội học nói chung, đặc biệt là các phương pháp và kỹ thuật điều tra xã hội học đã thực sự góp phần vào việc
hồn thiện công nghệ quản lý cho các nhà lãnh đạo, quản lý xã hội.
3. Chức năng giáo dục
Xã hội học cũng góp phần vào việc phát triển tư duy khoa học cho các nhà lãnh đạo quản lý, nâng tư duy ở
trình độ thói quen, thơng thường, kinh nghiệm lên trình độ tư duy lý luận, tư duy khoa học.
Xã hội học cũng đồng thời góp phần bồi bổ, rèn luyện kỹ năng quản lý lãnh đạo cho các nhà lãnh đạo, quản


lý, tạo ra cho họ có một tác phong cụ thể, sâu sát với cuộc sống, luôn bám sát và kịp thời theo dõi những trạng thái
và xu hướng biến đổi trong tư tưởng và hành vi của quần chúng, và chỉ ra những quyết định quản lý khi đã nắm bắt
được đầy đủ những luận chứng khoa học về nó.
Thơng qua những kết quả điều tra và thực nghiệm xã hội học, đặc biệt là những kết quả đã được cơng bố trên
báo chí, sách chun khảo hay các nguồn thông tin đại chúng khác, xã hội học đã góp phần tác động hết sức có
hiệu quả đến tư tưởng của quần chúng, cũng như có ý nghĩa giáo dục không nhỏ đối với quần chúng, cảnh báo cho
quần chúng những điều nên làm hay khơng nên làm; nó cũng giúp cho con người ý thức được một cách đầy đủ
hơn cả vai trị, vị trí cũng như sức mạnh sáng tạo, từ đó có những hành vi thái độ và sự tự điều chỉnh những hoạt
động của mình sao cho phù hợp với những quy phạm chuẩn mực và các hệ giá trị của xã hội, phát huy được tính
tích cực xã hội, khắc phục được các hành vi lệch lạc, đi chệch khỏi quỹ đạo của sự phát triển.
Liên hệ thực tiễn vấn đề sử dụng tri thức xã hội học trong hoạt động lãnh đạo quản lý ở Việt Nam
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước luôn nảy sinh các vấn đề xã hội đòi hỏi các chủ thể
quản lý phải ban hành các chính sách tương ứng để quản lý và giải quyết các vấn đề xã hội hoặc để ngăn chặn
chúng. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội là một trong những chủ trương, giải pháp lớn nhằm phát triển kinh tế - xã
hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới.
Với tư cách là một ngành khoa học, xã hội học các chức năng nhận thức, thực tiễn, giáo dục và tư tưởng
chung đối với xã hội và con người. Ngành xã hội học đã có những nghiên cứu lý luận và thực nghiệm lớn góp
phần vào việc tìm hiểu, luận giải và dự báo về các sự kiện và tiến trình thực tiễn trong xã hội. Các tiến trình này
xuất hiện các lĩnh vực của đời sống xã hội như: vấn đề xóa đói giảm nghèo, vấn đề lao động việc làm, vấn đề di cư

lao động, vấn đề đơ thị hóa, vấn đề giải quyết các tệ nạn xã hội, vấn đề thay đổi cấu trúc gia đình và quan hệ giới,
bất bình đẳng giới, biến động dân số, xu hướng thay đổi cơ cấu xã hội và cơ cấu nghề nghiệp; tiếp cận các dịch vụ
xã hội của các nhóm dân cư, phát triển cộng đồng, sử dụng và tác động của truyền thơng đại chúng....Nổi bật lên
các nghiên cứu đó là sự quan tâm đến các sự kiện và tiến trình xã hội có những thay đổi như thế nào qua thời gian,
qua các giai đoạn phát triển và qua các nhóm, cộng đồng xã hội khác nhau, cũng như hàm ý tác động của các thay
đổi đến sự phát triển đất nước.
Xã hội học đã cung cấp cho các nhà lãnh đạo quản lý tri thức về xã hội học như: giúp có cái nhìn mới và đa
chiều hơn khi tiếp cận với các hiện tượng xã hội, sự kiện xã hội, vấn đề xã hội, quá trình xã hội ; đồng thời cung
cấp phương pháp nghiên cứu xã hội học để ứng dụng trong thực tế như : các công cụ nghiên cứu, kỹ thuật thao tác
nghiên cứu về phương pháp điều tra dư luận xã hội, sự hài lòng của người dân…
Hình thành thái độ khoa học và tinh thần sáng tạo trong đội ngũ các nhà lãnh đạo quản lý có khả năng cải tạo
thực tiễn xã hội, xây dựng chính sách thay đổi xã hội.
Bằng hệ thống lý thuyết của xã hội học như lý thuyết cấu trúc chức năng, lý thuyết về mâu thuẫn xã hội, lý
thuyết tương tác biểu tượng, lý thuyết sự lựa chọn duy lý và các phương pháp nghiên cứu xã hội học đã đi sâu nhận
diện, đánh giá, phân tích các vấn đề xã hội (thực trạng của các vấn đề xã hội, nguyên nhân gây ra các vấn đề xã hội,
tác động của các vấn đề xã hội đối với sự phát triển và đề xuất các giải pháp nhằm chấn chỉnh, khắc phục, hạn chế,
giải quyết các vấn đề xã hội.
Trong công tác lãnh đạo, quản lý hiện nay thì việc nắm bắt thơng tin và mức độ chính xác của nguồn thơng tin
chiếm vị trí hết sức quan trọng trong việc đề ra các quyết sách, hoạch định chính sách, chiến lượt phát triển. Chính
vì vậy việc nắm bắt hệ thống các lý thuyết và phương pháp nghiên cứu và các kết quả cơng trình nghiên cứu xã hội
học vào thực tiễn là một trong những ưu tiên hàng đầu cuả các nhà lãnh đạo quản lý.
Phương pháp nghiên cứu xã hội học giúp hỗ trợ hình thành năng lực, kỹ năng thu thập, xử lý, phân tích, đánh
giá thông tin phản hồi từ người dân và các chủ thể liên quan trong quá trình lãnh đạo quản lý.
Dựa vào các thành tựu, các kết quả từ những cơng trình nghiên cứu xã hội học đã giúp chính phủ và các nhà
lãnh đạo quản lý lựa chọn các mục tiêu, phương án tối ưu để phát triển, đảm bảo sự hài hòa giữa các mục tiêu của
phát triển bền vững. Mặc khác, các nghiên cứu xã hội học trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đã cung cấp
cho cán bộ lãnh đạo bức tranh tổng thể về thực trạng xã hội và dự báo các khả năng biến đổi trong tương lai để đưa
ra các chương trình, các hành động phịng ngừa, giảm các tác động tiêu cực, các nguy cơ và vượt qua thách thức,
đồng thời đón đầu và nắm bắt các cơ hội, các thế mạnh trong lãnh đạo, quản lý nhằm phát triển kinh tế - xã hội, giữ
vững quốc phòng an ninh và đảm bảo an sinh xã hội. Cung cấp các bằng chứng, luận cứ khoa học cho việc đổi mới



tư duy, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, hoạch định và thực thi các chính sách đặc biệt trong các lĩnh vực phát
triển kinh tế - xã hội.
Chính nhờ vào kết quả nghiên cứu xã hội học cho chúng ta thấy được vai trò người dân trong quá trình chính
sách dần chuyển đổi từ vai trị người hưởng lợi đơn thuần sang vai trò người tham gia, can dự, phản biện, đánh giá
và địi hỏi cơng bằng từ các quyết định chính sách để cho cán bộ phải đổi mới mạnh mẽ để khôi phục niềm tin của
người dân và lấy sự hài lòng của người dân làm tiêu chí, làm thước đo cao nhất cho chất lượng và hiệu quả của nền
hành chính phục vụ. Việc sử dụng hợp lý các kết quả từ những phương pháp nghiên cứu xã hội học về cả định tính,
định lượng giúp lãnh đạo, quản lý xây dựng chính sách phù hợp đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của nhân dân,
đồng thời xây dựng phương án, kế hoạch tốt để triển khai thực hiện một cách hiệu quả nhất.
Hơn nữa, việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu xã hội học giúp các đồng chí trong lãnh đạo quản lý có
một góc nhìn khách quan và tổng qt, góp phần quan trọng trong việc tìm hiểu về đời sống quần chúng nhân dân,
tâm tư nguyện vọng…để có được chính sách vận động thuyết phục, sử dụng tốt nguồn nhân lực và con người
trong q trình cơng tác.
Vấn đề áp dụng vào thực tiễn tri thức, phương pháp xã hội học trong thực tế công tác của bản thân :
Bản thân tôi hiện đang công tác tại ……………….., công tác theo dõi, tổng hợp, tham mưu và phục vụ hoạt
động chỉ đạo điều hành của lãnh đạo, việc áp dụng các tri thức và phương pháp của xã hội học vào thực tế công tác
là rất cần thiết.
Đối với công tác theo dõi và tổng hợp: việc vận dụng các lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của xã hội học
trong thu thập, đánh giá, phân tích các thơng tin dữ liệu về tình hình triển khai thực hiện các chủ trương chính sách
tại địa phương, những tâm tư nguyện vọng của nhân dân và những vấn đề phát sinh trong q trình thực hiện để
kịp thời tổng hợp các thơng tin một cách nhanh chóng và chính xác phục vụ cho lãnh đạo huyện chỉ đạo, điều
hành sát đúng với tình hình thực tế.
Đối với cơng tác tham mưu: bản thân tôi sử dụng các tri thức của xã hội học để nhận diện, phân tích đánh giá
các vấn đề xã hội đang xảy ra tại địa phương cụ thể như: thực trạng của từng vấn đề, tác động của vấn đề xã hội
đang xảy ra tại địa phương đối với cá nhân, gia đình và xã hội, nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn của vấn
đề từ đó tham mưu và đề xuất đối với lãnh đạo huyện một số giải pháp chỉ đạo nhằm giải quyết vấn đề.
Cơ quan…………….. có bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của UBND huyện (Bộ phận 1 cửa) trực thuộc sự
quản lý của Văn phịng chính vì vậy việc cung ứng các dịch vụ công, đặc biệt là một cửa liên thơng và dịch vụ

cơng trực tuyến có thể sử dụng các phương pháp trong xã hội học để khảo sát và đánh giá mức độ hài lòng của
người dân khi tham gia thực hiện các thủ tục hành chính tại Bộ phận 1 cửa cũng như mức độ hài lòng đối với sự
lãnh đạo điều hành trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước từ huyện đến xã nhằm đáp ứng nhu cầu
của tổ chức và công dân.
Với các tri thức của ngành xã hội học mang lại bản thân tôi đã vận dụng vào việc đánh giá và dự báo một số
vấn đề địa phương để tham mưu xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm và từng giai đoạn cụ
thể, các kế hoạch thực hiện chương trình hành động và công văn chỉ đạo trên các lĩnh vực nhằm đạt được các chỉ
tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Huyện Đảng bộ và HĐND huyện đề ra.
Ngoài ra, với các kiến thức của xã hội học hình thành năng lực đánh giá việc thực hiện các chương trình, chính
sách ở địa phương từ đó phản ánh với các cấp chính quyền có sự điều chỉnh cho phù hợp.


NỘI DUNG 2
- Câu 1: Những vấn đề lý luận của biến đổi xã hội từ góc nhìn của Xã hội học.
Xã hội học cùng chung khách thể nghiên cứu là xã hội lồi người nói chung, ngành xã hội học có đối
tượng nghiên cứu cụ thể và các chủ đề nghiên cứu rộng, bao trùm cả ba cấp độ đời sống xã hội: cấp độ cá
nhân; cấp độ nhóm và tổ chức; cấp độ cộng đồng, xã hội. Ở cấp độ cá nhân (vi mô): hành vi và hành động
xã hội; ở cấp độ nhóm và tổ chức (trung mơ): nhóm xã hội, hiệp hội, phong trào xã hội; ở cấp độ cộng
đồng xã hội (vĩ mô): hệ thống xã hội, cấu trúc xã hội, thiết chế xã hội. Với phạm vi đối tượng nghiên cứu
rộng, đã xuất hiện nhiều cách tiếp cận về khái niệm và đối tượng. Một cách tổng quát, các nhà xã hội học
châu Âu và Liên xơ thường có cách tiếp cận khái niệm thiên về vĩ mô: xã hội học nghiên cứu hệ thống xã
hội. Trong khi đó, các nhà xã hội học Mỹ thường tiếp cận khái niệm thiên về vi mô: xã hội học nghiên
cứu hành vi và tương tác của con người.
Với tư cách là một ngành khoa học, xã hội học các chức năng nhận thức, thực tiễn, giáo dục và tư
tưởng chung đối với xã hội và con người. Qua gần 50 năm xây dựng và phát triển, ngành xã hội học đã có
những nghiên cứu lý luận và thực nghiệm lớn góp phần vào việc tìm hiểu, kiến giải và dự báo về các sự
kiện và tiến trình thực tiễn trong xã hội. Các tiến trình này xuất hiện các lĩnh vực của đời sống xã hội như:
thay đổi cấu trúc gia đình và quan hệ giới, biến động dân số, xu hướng thay đổi cơ cấu xã hội và cơ cấu
nghề nghiệp; tiếp cận các dịch vụ xã hội của các nhóm dân cư, phát triển cộng đồng, sử dụng và tác động
của truyền thông đại chúng....Nổi bật lên các nghiên cứu đó là sự quan tâm đến các sự kiện và tiến trình

xã hội có những thay đổi như thế nào qua thời gian, qua các giai đoạn phát triển và qua các nhóm, cộng
đồng xã hội khác nhau, cũng như hàm ý tác động của các thay đổi đến sự phát triển đất nước.
Một cách chung nhất biến đổi xã hội được hiểu là sự biến đổi về cấu trúc (cơ cấu) của một hệ thống
xã hội; đó là một q trình qua đó những khuôn mẫu của các hành vi xã hội, các quan hệ xã hội, các thiết
chế xã hội và các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi qua thời gian.
- Các cấp độ biến đổi
+ Biến đổi ở cấp vĩ mơ: Đó là những biến đổi diễn ra và xuất hiện trên một phạm vi rộng lớn, diễn ra
trong một thịi kỳ dài. Sự biến đổi vĩ mơ có thể khơng nhận thấy được vì nó diễn ra quá chậm chạp đoi
với con người, giống như họ đang trải qua những cuộc Sống thường ngày. Ví dụ, sự hiện đại hóa là q
trình, qua đó các xã hội trở nên khác nhau bên trong rihiều hơn, như sự thay đổi của các thiết chế xã hội
đơn giản bằng những thiết chế xã hội phức tạp. Biến đổi vĩ mơ cịn được xem là biến đổi tồn cầu, làm
thay đổi chính thể, nhà nước, tổ chức tồn cầu, khu vực. Ví dụ những biến đổi chính trị kinh tế và cấu trúc
đầy kịch tính như đã diễn ra ở Trung Đông, thông qua các cuộc cách mạng màu.
+ Biến đổi ở cấp vi mơ - cộng đồng, gia đình: Liên quan đến những biến đổi nhỏ, nhanh được tạo nên
bởi những quyết định không thấy hết được, như sự tuơng tác trong quan hệ của con người trong đời sống
hàng ngày.
Ngày nay, người ta chú trọng đến những biến đổi vi mơ có tác động đến các chuẩn mực, các giá trị,
hành vi, ý nghĩa văn hóa và các quan hệ xã hội.
- Các chủ thể liên quan đến biến đổi xã hội
+ Chủ thể cùa biến đổi xã hội: Ở cấp độ toàn cầu là các tổ chức quốc tế, các siều cường. Ở cấp độ
quốc gia là các chính thể, các tổ chức và quằn chúng nhân dân. Ở cấp độ vi mô là cá nhân, gia đình, nhóm
xã hội.
+ Đối tượng tiếp nhận biến đổi hoặc được thụ hưởng lợi ích từ những biến đổi tích cực, hoặc phải
chịu những thiệt hại từ những biến đổi tiêu cực là con người và cuộc sống của họ, là xã hội và cộng đồng
xã hội. Song con người, thông qua hoạt động cùng với thể chế và thiết chế ràng buộc, lại chính là chủ thể
tạo ra biến đổi, đồng thời một cách tất yếu lại tiếp nhận chính những biến đổi do minh tạo ra, kể cả những
biến đổi của môi trường. Xem xét những biến đổi xã hội từ phương điện con người - hoạt động và chính
sách là xem xét sự vận động, tác động qua lại giữa chủ thể - đối tượng và đối tượng - chủ thể.
Với nhận thức như trên, biến đổi (thay đổi, chuyển đổi) xã hội trong các lĩnh vực là mối quan tâm
chung trong hoạt động lãnh đạo, quản lý đất nước. Sự không đồng bộ, lệch pha giữa tăng trưởng kinh tế

và phát triển xã hội là do khơng nắm bắt được tiến trình biến đổi xã hội trong thịi kỳ đổi mói. Báo cáo


7

tổng kết 30 năm đổi mới đã chỉ rõ hạn chế lớn này: Trong phân tích, đự báo sự biến đổi cơ cấu xã hội,
phân tầng xã hội, tư duy còn sơ cứng, đơn điệu theo kiểu hai giai, một tầng - giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức; chậm nhận thức về sư hình thành và vai trị của các nhóm xã hội, của một
số giai tầng xã hội mới như: tầng lớp trung lưu, tầng lớp tinh hoa, xu hướng trung lưu hóa xã hội chưa
được nhận thức đầy đủ.
Từ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, hai câu hỏi lớn
mà xã hội học cần nghiên cứu và trả lời phục vụ hoạt động lãnh đạo, quản lý và điều hành đất nước là:
- Công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay và các năm tiếp theo (đến năm 2030 như mốc
mục tiêu thời gian về cơng nghiệp hóa) đã, đang và sẽ đem lại những biến đổi xã hội nào?
- Biến đổi xã hội của thời kỳ đổi mới sẽ có những hàm ý nào đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý,
điều hành đất nước; đối với mục tiêu phát triển xã hội và đảm bảo công bằng xã hội?
Từ hai câu hỏi trên, trong hoạt động lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay, cỏ thể xác lập quan niệm
về đổi tượng và nội dung nghiên cứu trọng tâm của xã hội học là: nghiên cứu về quy luật và các vẩn đề
mang tỉnh quy luật của biến đổi xã hội trong bối cảnh của quá trình cơng nghiệp hổạ, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế.
NỘI DUNG 2 - Câu 2: Một số xu hướng biến đổi xã hội lớn ở Việt Nam trong giai đoạn đổi mới.
Trong hoạt động lãnh đạo và quản lý ở nước ta hiện nay, có thể xác lập quan niệm về đối tượng và
nội dung nghiên cứu trọng tâm của xã hội học là: nghiên cứu về quy luật và các vấn đề mang tính quy
luật của biến đổi xã hội trong bối cảnh q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ với làn sóng mới nhất là cách mạng công nghiệp lần thứ Tư
(4.0) dựa trên trụ cột của Internet vạn vật (IoT), Trí tuệ nhân tạo (AI) và Dữ liệu lớn (Big data) đang đem
lại những hứa hẹn về hiệu suất và năng suất lao động vượt trội, những ngành cơng nghệ mới, góp phần
giải quyết các vấn đề sinh thái. Bên cạnh những cơ hội to lớn đó thì các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam, đang bị đặt trước những thách thức khơng có tiền lệ như sự tụt hậu trong việc nắm bắt và phát
triển các công nghệ tương xứng, suy giảm việc làm nhanh chóng tại các ngành có khả năng tự động hoá,

và nghiêm trọng hơn, một số định hướng phát triển được đưa ra trước đây trở nên không phù hợp với bối
cảnh mới
Đại hội Đảng lần thứ XII đã nhận định rõ: "Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ
và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự
nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc"
Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị Về định hướng xây dựng chính sách
phát triển cơng nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định mục tiêu đến năm
2030 nước ta hồn thành mục tiêu cơng nghiệp hố, hiện đại hố, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước cơng nghiệp phát triển hiện đại. Con
đường cơng nghiệp hố và hiện đại hoá sẽ đem lại những biến đổi mạnh mẽ về xã hội.
Một số xu hướng biến đổi xã hội lớn ở Việt Nam trong giai đoạn đổi mới
1. Biến đổi về cơ cấu xã hội
Những thành công và hạn chế của công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã tác động mạnh mẽ đến biến đổi trong cấu trúc xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến chuyển dịch cơ cấu việc làm và nghề nghiệp. Hiện nay, cơ cấu
lao động trong nền kinh tế thể hiện xu hướng gia tăng công nghiệp địch vụ và giảm nông, lâm, ngư
nghiệp. Năm 2000, tỷ lệ lao động trong nông, lâm, thủy sản: 62,2%, công nghiệp là 13,0% và dịch vụ là
24,8%; đến năm 2016, tỷ lệ tương ứng là: 41,9%, 24,7%, 33,4%. Xuất hiện những việc làm và nghề mới
trong nhiều lĩnh vực như: doanh nhân, người làm công tảc xã hội, chuyên gia công nghệ thông tin, dịch
vụ..
Tăng trưởng kinh tế dẫn đến tăng thu nhập, cải thiện mức sống, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 7%
dân số (2017) và gia tăng tầng lớp giàu, trung lưu; xuất hiện tầng lớp “ưu trội” hay “sáng tạo”. Bên cạnh


8

đó, phân hóa giàu - nghèo trở thảnh tiến trình đáng lo ngại khi khoảng cách thu nhập của nhóm 20%
người cao nhất so với nhóm 20% người thấp nhất đã tăng từ 8,1 lần năm 2002 lên 9,7 lần năm 2014.
Cơ cấu xã hội truyền thống hai giai - một tầng đang chuyển đổi thành cơ cấu hai giai - đa tầng vói sự

phân nhóm và phân hóa ngay trong mỗi giai cấp và tầng lớp. Xuất hiện các nhóm xã hội mới và các quan
hệ xã hội mới với diện mạo ít nhiều rõ nét, bên cạnh các nhóm xã hội “cũ” mà giờ đây cũng đang tự thay
đổi trong điều kiện mới.
2. Biến đổi về dân số, gia đình
Giảm mức sinh, giảm đà tăng dân số và tiến tới mức sinh ổn định, quy mô dân sổ ổn định và nâng
cao chất lượng dân số là biểu hiện rõ nét của sự biến đổi giá trị con trai trong gia đình và tương quan bình
đẳng giới trong xã hội. Độ tuổi trung bình khi kết hơn và sinh con đầu đã tăng mạnh, số con sinh ra đã ít
hơn. Tỷ lệ giới tính trong dân số nói chung đang ở mức cân bằng, nhưng tỷ số giới tính khi sinh đang tăng
một cách báo động.
Cơ cấu dân số vàng khi tương quan giữa số lao động với số người phụ thuộc trẻ em và ngưòi già
đang đạt mức cao với hai người làm việc nuôi một người phụ thuộc. Cơ cấu dân số vàng vừa tạo ra các cơ
hội tăng trưởng kinh tế, nhưng cũng đem lại nhiều thách thức về tạo việc làm cho thanh niên.
Xu hướng đơ thị hóa đang tăng lên, mức độ di cư và thay đổi chỗ ở, việc làm cũng gia tăng.
Gia đình Việt Nam đang chuyển từ mơ hình gia đình chung sống đa thế hệ, sang mơ hình gia đình hạt
nhân. Liên kết giữa các thành viên lỏng lẻo hơn, khoảng cách giữa các thế hệ gia tăng. Mối quan hệ giới
trong gia đình đã có cải thiện, nhưng chưa thật sự bình đẳng. Thiết chế gia đình đang phải thích ứng với
những thay đổi của xã hội xung quanh.
3. Biến đổi về phương thức giao tiếp tương tác vả không gian sinh hoạt công cộng
Việt Nam là nước có mức độ và tỷ lệ cao trong sử dụng Internet, các mạng xã hội và các phương thức
truyền thông mới. Tìm kiếm, tiếp nhận, chia sẻ và lưu thơng tin trên Internet đã trở thành hoạt động
thường xuyên của thế hệ trẻ. Phương thức truyền thông này đang tỏ rõ ưu thể trước các phương tiện
truyền thông truyền thống khác. Internet và mạng xã hội từ chỗ chỉ là phương tiện truyền thông đang trở
thành môi trường hoạt động cho các phương tiện truyền thông và các sáng kiến truyền thơng mới. Do đó
đặt ra nhiều thách thức, địi hỏi sự thay đổi trong hoạt động tuyên truyền, giáo dục đối với giới trẻ nói
riêng và cả xã hội nói chung.
Sự liên kết của người dân thơng qua các hình thức hoạt động có ý thức tập thể đang trở thành khuynh
hướng mới trong sinh hoạt công cộng. Người dân Việt Nam tham gia hoạt động ở các đoàn thể và tổ chức
chính trị-xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các hoạt động tình nguyện và từ thiện mạnh mẽ.
Trình độ dân trí, mức độ cơng khai, dư luận xã hội, sự đối thoại trực tiếp hoặc thông qua đại diện,
qua các phương tiện truyền thông đại chúng và hiện nay là truyền thông xã hội giữa người dân với chính

quyền các cấp cũng cho thấy những biến đổi xã hội nhất định trong lĩnh vực này. Đây cũng là cơ sở thực
tế làm chuyển biến nhận thức, quan niệm và thay đổi dần các yếu tố của hệ giá trị cũ bằng các yếu tố của
hệ giá trị mới, cập nhật với những điều kiện mới.
4. Biến đổi trong hệ thống phúc lợi và mạng lưới an sinh xã hội
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, hệ thống phúc lợi xã hội, mạng lưới an sinh xã
hội và tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản vốn trước đây được coi là trách nhiệm riêng của Nhà nước, hiện
đang chuyển đổi sang trạng thái xã hội hóa và trách nhiệm tồn dân.
Mạng lưới an sinh xã hội hiện đang ở trong thời kỳ chuyển đổi. Mạng lưới này từng bước dành các
ưu tiên chi tiêu cho nhóm đối tượng chính sách, tiếp đến là “vì người nghèo”. Đây là tiến trình chuyển đổi
đặc thù của Việt Nam, gắn liền với thực tế (đang biến đổi) của các nhóm xã hội có liên quan tới thời kỳ
lịch sử của những thập niên trước đây.
Hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội hiện đang ở trong thời kỳ chuyển đổi. Hệ thống này, vốn
từ đầu dành các ưu tiên chi tiêu cho nhóm đối tượng chính sách, tiếp đến là “vì người nghèo”, đang
chuyển đổi sang hệ thống bảo hiểm và an sinh cho tồn dân nhằm trụ đỡ các nhóm dân cư trước những
thay đổi dân số và trước các biến cố sốc của thị trường. Đây là tiến trình chuyển đổi đặc thù của Việt


9

Nam, gắn liền vói thực tiễn đang biến đổi của các nhóm xã hội có liên quan tới thời kỳ lịch sử của các
cuộc chiến tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc.
5. Biển đổi về phương thức lãnh đạo, quản lý và chính sách
Gia tăng tiếng nói và đòi hỏi của người dân tham gia vào các quyết định chính sách, các hoạt động
lãnh đạo, quản lý và điều hành đất nước, xã hội. Tiếng nói và ý kiến giám sát, phản biện của các kênh
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nghề nghiệp ngày càng được coi trọng.
Sự xuất hiện và lớn mạnh của tầng lớp trung lưu ở các thành phố và trung tâm phát triển đặt ra yêu
cầu thay đổi mối quan hệ chính quyền - cơng dân từ quan hệ một chiều mang tính cai trị và quản lý sang
quan hệ tương tác mang tính phục vụ và đồng hành kiến tạo.
Vai trị người dân trong q trình chính sách dần chuyển đổi từ vai trị người hưởng lợi đơn thuần,
sang vai trò người tham gia, can dự, phản biện, đánh giá và địi hỏi cơng bằng từ các quyết định chính

sách.
Trong đánh giá hoạt động, chính quyền và hệ thống chính trị, các bộ chỉ báo khách quan, độc lập dựa
trên cơ sở điều tra xã hội học ý kiến người dân và doanh nghiệp như: Chỉ báo năng lực cạnh tranh cấp
tỉnh (PCI); chỉ báo hiệu quả quản trị và hành chính cơng cấp tỉnh (PAPI) được các cơ quan nhà nước sử
đụng để đánh giá và cải thiện hoạt động của bộ máy.
Tiếp nhận những xu hướng mới về quản lý công mới và quản trị tốt, bộ máy nhà nước nói riêng và cả
hệ thống chính trị nói chung đang trong tiến trình đổi mới mạnh mẽ để khôi phục niềm tin của người dân
và lấy sự hài lòng của người dân làm tiêu chí cao nhất cho phục vụ.
Những biến đổi xã hội, vốn đã được ghi nhận từ khi đất nước bắt đầu công cuộc đổi mới năm 1986,
đã, đang và sẽ là mối quan tâm sâu sắc cua nghiên cứu xã hội học. Một cách chung nhất, nghiên cứu xã
hội học về biến đổi xã hội phục vụ cho hoạt động lãnh đạo, quản lý nhằm xác định rõ khuôn mẫu và
khuynh hướng biến đổi theo giai đoạn phát triển; tìm hiểu và đánh giá các yếu tố tác động đối với tiến
trình, dựa trên các bằng chứng khoa học để đưa ra những dự báo tương lai, các giải pháp lãnh đạo, quản
lý và chính sách phù hợp trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Biến đổi xã hội ở Việt Nam mang tính quy luật và diễn ra trong thời kỳ quá độ được coi là sự chuyển
đổi đa chiều: chuyển đổi từ nền văn minh nông nghiệp cổ truyền sang sang văn minh nông nghiệp và hiện
đại; chuyển đổi từ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, có sự điều tiết của nhà nước; chuyển đổi từ một xã hội tương đối khép kín với hệ thống
giá trị truyền thống sang một xã hội hội nhập quốc tế sâu rộng nhưng nỗ lực gìn giữ bản sắc văn hố dân
tộc. Q trình này sẽ đặt ra những thách thức nhiều chục năm cho lãnh đạo, quản lý và điều hành đất
nước.


NỘI DUNG 3:
Câu 1 - Hệ thống phương pháp nghiên cứu của Xã hội học.
- Xã hội học là khoa học nghiên cứu quy luật của sự này sinh, biến đổi và phát triển moi quan hệ giữa
con người và xã hội2.
Các quan niệm khác nhau về đối tuợng nghiên cứu của xậ hội học phản ánh sự khác biệt trong nhận thức về
trọng tâm nghiên cứu của xã hội học ở cấp độ lý thưyết trừu tượng. Bên cạnh đó, sự khác biệt này khổng ảnh
hưởng đến việc phát triển xã hội học vói tư cách là một ngành khoa học độc lập, nhưng có tính liên ngành cao và

có khả năng tạo ra tri thức cả ở cấp độ lý thuyếưthực nghiệm, cấp độ khái quát/cụ thể, cấp độ cơ bản/ửng dụng.
Là một ngành khoa học xã hội độc lập và mang tính liên ngành cao, xã hội học có vai trị quan trọng trong
hoạt động lãnh đạo, quản lý trên thế giới và ở Việt Nam.
1. Hệ thống phương pháp nghiên cứu của Xã hội học :
Nghiên cứu Xã hội học sử dụng một loạt phương pháp thu thập, xử lý phân tích thơng tin xã hội về đối
tượng, bao gồm các phương pháp: phân tích tài liệu, phát vấn, phương pháp metric xã hội, phương pháp thực
nghiệm, phương pháp nghiên cứu trường hợp, phương pháp quan sát...
Có thể sắp xếp các phương pháp trên vào hai nhóm: các phương pháp nghiên cứu định tính và các
phương pháp nghiên cứu định lượng.
* Phương pháp nghiên cứu định tính
Nghiên cứu định tính tạo thành từ các phương pháp kỹ thuật chun mơn dùng để tìm hiểu sâu về phản ứng
từ trong suy nghĩ, tình cảm, những thơng tin về động cơ, niềm tin, quan điểm chính kiến, những diễn biến phức
tạp trong nội tâm của con người cũng như phát hiện ra những dự định, xu hướng ẩn nấp ở phía sau của các thái
độ và hành vi ứng xử của những cá nhân hay nhóm xã hội.
Về mặt lịch sử, phương pháp nghiên cứu định tính được hình thành từ các phương pháp nhân loại học, phê
bình văn học, phân tích tâm lý. Các khái niệm cơ bản được sử dụng trong nghiên cứu định tính là chủ đề, tình
huống, động cơ, mơ típ, kiểu loại. Dữ liệu thu được lưu lại dưới dạng ngơn ngữ, hình ảnh, âm thanh, các tài liệu
ghi chép, sao chụp, quan sát được. Nghiên cứu định tính trả lời các câu hỏi: Tại sao? Tính chất thế nào?... Các
phương pháp nghiên cứu định tính bao gồm: nghiên cứu thực địa, quan sát tham dự, phỏng vấn sâu, phân tích tài
liệu, nghiên cứu trường hợp, nghiên cứu lịch sử so sánh...
* Phương pháp nghiên cứu định lượng
Nghiên cứu định lượng được xây dựng và phát triển trên cơ sở các tiền đề thực chứng luận trong khoa học.
Các yếu tố, các khái niệm cơ bản của nghiên cứu định lượng là biến, giả thuyết, đơn vị phân tích, đơn vị đo
lường, dữ liệu bằng số, xử lý toán học đối với dữ liệu thu được và giải thích nhân - quả. Nghiên cứu định lượng
thường khảo sát những vấn đề thuộc về quy mơ, kích thước, đại lượng, con số, tỷ lệ %. Các phương pháp nghiên
cứu định lượng thường sử dụng là điều tra chọn mẫu, thống kê, quan sát, phỏng vấn, thực nghiệm. Mục đích cơ
bản của nghiên cứu định lượng là kiểm tra giả thuyết khoa học. Điều này khác với phương pháp nghiên cứu định
tính.
- Chọn mẫu trong nghiên cứu định lượng
Nghiên cứu mẫu là nghiên cứu không phải toàn bộ tổng thể mà chỉ là một bộ phận của tổng thể, song lại có

khả năng đại diện cho cái tổng thể, phản ánh sự phù hợp với những đặc trưng và cơ cấu của tổng thể. Kết luận
được rút ra từ mẫu nghiên cứu có thể suy rộng cho cả tổng thể.
Việc lựa chọn ra một tập hợp nhỏ trong cả một tập hợp lớn sẽ cho phép cuộc khảo sát được tiến hành nhanh
hơn, rẻ hơn, chính xác hơn và tiết kiệm hơn và chỉ cần huy động một nhóm cán bộ nhỏ giàu kinh nghiệm, có
trình độ chun mơn cao song kết quả của cuộc khảo sát sẽ ít sai sót hơn, nghiên cứu tỉ mỉ hơn...
- Các loại mẫu, gồm:
+ Mẫu xác suất (ngẫu nhiên): cho phép mỗi phần tử trong một tập hợp có cùng xác suất được lựa chọn
thành đối tượng điều tra. Mẫu được luận chứng chặt chẽ và có thể tính được mức độ đại diện, sai số mẫu.
Mẫu ngẫu nhiên đơn giản: yêu cầu của cách lấy mẫu này là phải có một danh sách kê khai đầy đủ các thành
viên của tổng thể (tập hợp tổng quát). Đặc điểm của phương pháp này là mọi thành viên đều có cơ hội như nhau
được chọn làm mẫu.
Mẫu ngẫu nhiên hệ thống: có thể chọn mẫu bằng cách lựa chọn một thành viên bất kỳ nào đó trong bảng


11

danh sách đã đánh số thứ tự, sau đó cứ cách một khoảng (K) ta lại chọn một phần tử (độ lớn của K là tuỳ thuộc
vào việc chúng ta chọn mẫu lớn hay nhỏ). K được xác định bởi kết quả chia tập hợp cho số mẫu cần thiết.
Mẫu ngẫu nhiên phân tầng: nếu như nhà nghiên cứu quan tâm đặc biệt đến một tiêu chí nào đó như tuổi,
trình độ học vấn thì tập hợp chung sẽ được phân ra theo các tầng (tiểu dân cư), sau đó tiến hành lấy mẫu trong
từng tầng.
Mẫu ngẫu nhiên theo cụm: trong trường hợp tập hợp chung lớn và phân tán theo các khu vực địa lý khác
nhau thì nhà nghiên cứu có thể sử dụng loại mẫu này.
Mẫu nhiều giai đoạn: việc chọn mẫu được thực hiện qua hai hoặc nhiều bước hơn. Bước thứ nhất, chia tập
họp tổng quát ra thành các nhóm lớn theo một dấu hiệu nhất định, lập danh sách liệt kê các nhóm, chọn trong
danh sách một số nhóm theo nguyên tắc ngẫu nhiên. Bước thứ hai, tiến hành lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản hoặc
mẫu ngẫu nhiên hệ thống bắt đầu từ ngẫu nhiên (trong các nhóm đã được lựa chọn).
+ Mẫu phi xác suất: các phân tử trong tập hợp gốc khơng có cùng xác suất được lựa chọn mẫu nghiên cứu.
Mẫu thuận tiện: mẫu được lựa chọn theo cách thức thuận tiện nhất cho nhà nghiên cứu mà không cần quan
tâm đến tính đại diện của mẫu.

Mẫu phân suất: tập hợp gốc được chia ra theo các tiêu chí nhất định, sau đó mẫu được lựa chọn với số
lượng cố định cho mỗi tầng sao cho tỷ lệ các nhóm phần tử trong mẫu tương đương với tỷ lệ tại tập hợp gốc.
Mẫu lấy theo giới thiệu: các phần tử của mẫu được lựa chọn theo giới thiệu của các phần tử khác. Sau khi
điều tra trên một đối tượng, nhà nghiên cứu có thể nhờ đối tượng này giới thiệu cho đối tượng khác để trả lời các
câu hỏi. Cách thức này cũng bị ảnh hưởng bởi sự phán đoán giả định của người giới thiệu.
Các phương pháp nghiên cứu chính
- Phân tích tài liệu: Là phương pháp sử dụng các kỹ thuật chuyên môn nhằm thu thập hoặc rút ra từ những
nguồn tài liệu các thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu.
Có hai loại phương pháp phân tích:
+ Phương pháp phân tích truyền thống (phương pháp phân tích định tính): theo phương pháp này, nhà
nghiên cứu phải rút ra được những nội dung tư tưởng cơ bản của tài liệu, tìm ra những ý nghĩa hay, những cái có
liên quan đến chủ đề nghiên cứu (hạn chế của phương pháp này là nhà nghiên cứu dễ rơi vào sự phân tích chủ
quan).
+ Phương pháp phân tích hình thức hố (phương pháp phân tích định lượng): phương pháp này gắn chặt
với việc phân nhóm các dấu hiệu, tìm ra những mối quan hệ nhân quả giữa các nhóm chỉ báo (máy tính điện tử
có một vai trị quan trọng trong phương pháp này). Phương pháp này được sử dụng trong những trường hợp phải
xử lý một lượng thông tin lớn.
- Phát vấn (hay trưng cầu ý kiến) Là phương pháp thu thập thông tin xã hội sơ cấp trực tiếp bằng lời
(phỏng vấn) hoặc gián tiếp bằng câu hỏi (phương pháp ankét) hoặc bằng sự kết hợp cả hai phương pháp đó.
+ Phương pháp phỏng vấn Là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi và đáp. Người điều tra đặt câu hỏi
cho đối tượng cần được khảo sát sau đó ghi vào phiếu hoặc sẽ tái hiện nó vào phiếu khi kết thúc cuộc phỏng vấn.
Phỏng vấn bao gồm bốn loại sau:
Phỏng vấn tiêu chuẩn hoá: là cuộc phỏng vấn được tiến hành theo một trình tự nhất định, với mọi nội dung
đã được định sẵn và dùng để hỏi các đối tượng được phỏng vấn.
Phỏng vấn không tiêu chuẩn hoá: là cuộc đàm thuộc tự do theo một chủ đề đã được vạch sẵn.
Phỏng vấn sâu: là những cuộc phỏng vấn lấy ý kiến chuyên gia hoặc đi sâu vào tìm hiểu một vấn đề chính
trị hay kinh tế, xã hội hóc búa nào đó. Phỏng vấn sâu, kể cả trong trường hợp phỏng vấn tiêu chuẩn hoá; tức là
phỏng vấn trong điều kiện có một bảng trả lời câu hỏi quy chuẩn cần phải tiến hành như một quá trình linh hoạt
sáng tạo.
Phỏng vấn tập trung: là cuộc phỏng vấn một nhóm người trong cùng một thời gian và địa điểm nhằm làm

sáng rõ một chủ đề nhất định nào đó. Để thực hiện thành cơng các cuộc phỏng vấn sâu hay phỏng vấn nhóm tập
trung cần nắm chắc và sử dụng thành thạo ba nguyên tắc sau: nghệ thuật đặt câu hỏi, nghệ thuật lắng nghe, nghệ
thuật "biến" cuộc phỏng vấn thành một cuộc điều tra sáng tạo.


12

+ Phương pháp Ankét (điều tra bằng bảng hỏi)
Là phương pháp thu thập thông tin gián tiếp qua bảng câu hỏi (phiếu tìm hiểu ý kiến). Đặc trưng của
phương pháp ankét là người ta chỉ sử dụng một bảng câu hỏi đã được quy chuẩn, dùng để hỏi chung cho tất cả
những người nằm trong mẫu điều tra (theo một thể thức lựa chọn nhất định nào đó). Thơng thường thì người hỏi
và người được hỏi khơng tiếp xúc trực tiếp với nhau mà thông qua cộng tác viên.
- Phương pháp Quan sát
Trong nghiên cứu xã hội học, quan sát là phương pháp thu thập thông tin xã hội sơ cấp về đối tượng nghiên
cứu bằng cách tri giác trực tiếp và ghi chép lại những nhân tố có liên quan đến đối tượng nghiên cứu và có ý
nghĩa đối với mục đích nghiên cứu. Quan sát phải đảm bảo có tính hệ thống, tính mục đích và tính kế hoạch.
Phương pháp quan sát được chia thành một số loại hình: Quan sát khơng có cơ cấu hố và có cơ cấu hố,
quan sát tham dự và quan sát khơng tham dự, quan sát hiện trường và quan sát trong phịng thí nghiệm, quan sát
hệ thống và quan sát ngẫu nhiên.
Tóm lại, đây là hai nhóm phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng
nhằm thu thập, xử lý phân tích thơng tin xã hội về đối tượng trong hệ thống phương pháp xã hội học trong
hoạt động lãnh đạo, quản lý hiện nay ...
Câu 2 - Ý nghĩa của hệ thống phương pháp xã hội học đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý hiện
nay.
Xã hội học xuất hiện ở châu Âu thế kỷ XIX với tư cách là một tất yếu lịch sử xã hội. Tính tất yếu đó
thể hiện ở nhu cầu và sự phát triển chín muồi các điều kiện và tiền đề biến đổi và nhận thức đời sống xã
hội. Các biến động to lớn trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội châu Âu vào thế kỷ XVIII và nhất là
thế kỷ XIX đã đặt ra những nhu cầu thực tiễn mới đối với nhận thức xã hội.
Hệ thống phương pháp xã hội học đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý hiện nay có những ý nghĩa
sau :

- Thông qua hệ thống phương pháp nghiên cứu của Xã hội học như phương pháp nghiên cứu định
tính và phương pháp nghiên cứu định lượng, giúp cho nhà lãnh đạo, quản lý hình thành và củng cố thế
giới quan, nhân sinh quan, cách tiếp cận và lý giải các sự kiện, tiến trình xã hội nói riêng và xã hội nói
chung; nắm chắc được vấn đề cần quan tâm nghiên cứu để phân tích, đánh giá đúng thực trạng hiện nay:
thành tựu đạt được, những tồn tại, khó khăn hạn chế trong giai đoạn qua; thể hiện tinh thần dân chủ của
cán bộ và Nhân dân trong việc khảo sát, đánh giá lấy mẫu, từ đó đưa ra những giải pháp thiết thực để giải
quyết trong thời gian tới.
- Thông quan Nghiên cứu xã hội học cung cấp cho cán bộ lãnh đạo, quản lý bức tranh tổng thể về
thực tại xã hội (cơ cấu, phân tầng xã hội, chính sách xã hội, dân số và gia đình…) và xu hướng, khả năng
biến đổi trong tương lai; từ đó giúp nhà lãnh đạo, quản lý xây dựng chính sách phù hợp đáp ứng nguyện
vọng của Nhân dân.
- Trong quá trình lãnh đạo, quản lý, việc sử dụng phương pháp nghiên cứu XHH giúp hỗ trợ hình
thành năng lực, kỹ năng thu thập, xử lý, phân tích, đánh giá thơng tin phản hồi từ người dân và các chủ
thể liên quan. Từ kết quả nghiên cứu, giúp nhà lãnh đạo, quản lý xây dựng được phương án, kế hoạch
tốt để triển khai thực hiện một cách hiệu quả nhất.
- Nghiên cứu XHH giúp chúng ta hiểu hơn về quần chúng lao động, tâm tư nguyện vọng… để có
những chính sách vận động thuyết phục, sử dụng tốt nguồn nhân lực con người trong q trình cơng tác...
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu xã hội học cung cấp bằng chứng, luận cứ khoa học cho việc đổi mới tư
duy, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, hoạch định và thực thi các chính sách đặc biệt trong các lĩnh
vực phát triển xã hội.
* Liên hệ thực tiễn: Các anh chị có thể thay đổi lĩnh vực mình đang cơng tác cho phù hợp. Đặc
biệt tóm lược nội dung.
Thực tiễn phát triển của đất nước hiện nay cho thấy, nhiều vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi
mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp


13

quyền và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác dân vận của Đảng. Bài
viết tập trung phân tích làm rõ vai trị của xã hội học trong cơng tác dân vận cũng như những nội dung cơ

bản, vấn đề đặt ra và định hướng chính sách từ hướng tiếp cận xã hội học trong đổi mới công tác dân vận
ở Việt Nam hiện nay.
Xã hội học có đối tượng nghiên cứu là các sự kiện xã hội trên cơ sở sử dụng các phương pháp nghiên
cứu định lượng, định tính cũng như áp dụng các lý thuyết để giải thích một cách hệ thống và khách quan
về quy luật hình thành, vận động, biến đổi xã hội; về các mối quan hệ giữa con người và xã hội, các vấn
đề xã hội với tính chất là những sự kiện xã hội. Xã hội học là khoa học làm việc với con người trong các
mối quan hệ xã hội cụ thể. Do vậy, xã hội học là một khoa học luôn thể hiện đầy đủ và sâu sắc các chức
năng cơ bản như: Chức năng tư tưởng, lý luận nhận thức; Chức năng thực tiễn (đánh giá/tư vấn/giám
sát/phản biện/quản lý); Chức năng giáo dục, cung cấp tri thức; Chức năng dự báo tương lai xã hội.
Là một trong những khoa học ra đời muộn trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản giữa thế kỷ XIX, xã hội
học có sứ mệnh tìm kiếm những giải pháp giải quyết sự bất cập, hạn chế của các khoa học xã hội trong
giải thích các hiện tượng xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa lúc bấy giờ. Do vậy, xã hội học rất quan tâm,
nhấn mạnh các tính chất tạo nên sức mạnh trong việc nhận thức và cải tạo thực tiễn. Với các đặc trưng:
(1) Tính khách quan, lơgíc đặt trong bối cảnh xã hội; (2) Tính thực chứng, có độ tin cậy cao khi đưa ra
các kết luận nghiên cứu; (3) Tính duy vật biện chứng trong nhận định, đánh giá; (4) Tính lý giải thấu hiểu
dựa trên các bối cảnh văn hóa để giải thích, tìm kiếm sự hiểu biết về bản chất của các hiện tượng xã hội;
(5) Các phương pháp nghiên cứu hiện đại, liên ngành: quan sát tham dự; quan sát không tham dự; phiếu
anket; phiếu phát vấn; thảo luận nhóm tập trung; phỏng vấn sâu; phân tích nội dung tài liệu; phân tích số
liệu thống kê; nghiên cứu trường hợp...; (6) Khoa học đề cao tính chỉnh thể, hệ thống, toàn diện, thực
chứng về hiện tượng, sự kiện, quá trình xã hội. Giá trị cốt lõi của xã hội học là sự chính trực khoa học;
các thiên vị sai lệch cần phải được nỗ lực loại bỏ trong các nghiên cứu xã hội học.
Vai trò, sức mạnh của khoa học - cơng nghệ nói chung và khoa học xã hội học nói riêng trong đời
sống xã hội ngày càng gia tăng; nhất là trong bối cảnh thế giới đang bước vào cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Do đó, nhu cầu ứng dụng các nghiên cứu xã hội học vào các hoạt động thực tiễn, đặc
biệt là hoạt động lãnh đạo, quản lý (và trong đó có cơng tác dân vận) trở thành tất yếu nhằm góp phần làm
gia tăng chất lượng, hiệu quả và hiệu lực của các hoạt động lãnh đạo, quản lý nói chung và cơng tác dân
vận nói riêng. Q trình ứng dụng các lý thuyết xã hội học vào nghiên cứu công tác dân vận là việc sử
dụng hệ thống các ngun lý, nhận định giải thích có thể đo lường hay quan sát những vấn đề liên quan
đến công tác dân vận với tư cách là một chỉnh thể, toàn diện, mang tính quy luật về bản chất của các sự
kiện, hiện tượng xã hội hiện tại; cũng như dự báo sự xuất hiện của chúng trong tương lai. Xã hội học

trong công tác dân vận cần phải trở thành một cơng cụ sắc bén, có khả năng đo lường, dự báo được “lòng
dân” một cách khoa học, kịp thời và có độ tin cậy cao. Nếu như nhiệm vụ cốt lõi của công tác dân vận là
tham mưu cho Đảng, các cấp ủy nắm bắt kịp thời được tâm tư, nhu cầu, lợi ích... của các giai tầng xã hội,
thì xã hội học là khoa học có lợi thế trong việc đo lường, phân tích, đánh giá và dự báo... có độ tin cậy cao
đối với những hiện tượng xã hội, sự kiện xã hội liên quan đến “lòng dân”.
Từ góc độ xã hội học có thể đưa ra quan niệm: công tác dân vận là một dạng hoạt động chính trị - xã
hội nhằm vận động (tuyên truyền, thuyết phục, động viên và đáp ứng lợi ích) tồn dân tích cực tham gia
hoạt động cách mạng theo chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng hướng tới xây dựng chủ nghĩa xã
hội theo mục tiêu chung: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng văn minh, vì quyền lợi và hạnh
phúc của nhân dân(1). Cũng như có thể hiểu: tình huống dân vận là những hiện tượng xã hội nảy sinh từ
điều kiện và hệ quả của quá trình phát triển kinh tế - xã hội; ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của nhóm,
cộng đồng, giai tầng xã hội và tồn bộ xã hội. Nó được cơng luận địi hỏi phải thay đổi, giải quyết thơng
qua hệ thống chính sách kinh tế - xã hội; trong đó và trước hết là sự tham gia của công tác dân vận.
Những thay đổi của đời sống xã hội địi hỏi cơng tác dân vận phải đổi mới vì nó gắn với q trình phát
triển xã hội. Khơng thể có một xã hội phát triển mà khơng xuất hiện các tình huống chính trị - xã hội,


14

trong đó có tình huống dân vận. Do đó, rất cần xây dựng một xã hội có đủ năng lực để giải quyết tốt tất cả
các tình huống chính trị - xã hội, trong đó bao gồm các tình huống dân vận.
Vị trí, tầm quan trọng của cơng tác dân vận trong tổng thể định hướng phát triển kinh tế - xã hội đất
nước hiện nay cần phải được xác lập với mục tiêu tối thượng là góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi
đường lối đổi mới và phát triển đất nước. Công tác dân vận phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và hướng
đến ba chiến lược: phòng ngừa, giảm thiểu, khắc phục các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Do vậy, việc thực hiện các công cụ quản lý, giải quyết các vấn đề xã hội chính là
q trình tác động có định hướng, có tổ chức của các chủ thể quản lý nhằm kiểm soát, hạn chế các ảnh
hưởng tiêu cực của các vấn đề xã hội phát sinh trong quá trình phát triển xã hội. Muốn vậy, một trong
những vấn đề có tính quyết định là cần phải quan tâm nhiều hơn đến hàm lượng tri thức khoa học, nhất là
xã hội học trong đổi mới công tác dân vận.



NỘI DUNG 4
Câu 1. Quan niệm xã hội học về cơ cấu xã hội và các thành tố cơ bản của cơ cấu xã hội.
Câu 2. Các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản mà Xã hội học nghiên cứu hiện nay.
Trả lời:
Câu 1: Quan niệm xã hội học về cơ cấu xã hội và các thành tố cơ bản của cơ cấu xã hội:
* Cơ cấu xã hội là một khái niệm cơ bản của xã hội học (XHH) và có nhiều cách định nghĩa cơ cấu
xã hội, nhưng có thể định nghĩa một cách khái quát nhất như sau: Cơ cấu xã hội là cách thức tổ chức bên
trong, bao gồm các kiểu quan hệ tương tác ổn định, bền vững của các thành tố xã hội cơ bản tạo nên hệ
thống xã hội.
Theo đó, hệ thống xã hội là tập hợp các thành tố tương tác với nhau tạo thành một chỉnh thể cân bằng
động với môi trường xung quanh.
Cơ cấu xã hội bao gồm các thành tố như vị thế xã hội, vai trò xã hội, nhóm xã hội, thiết chế xã hội,
giai tầng xã hội và các thành tố khác của xã hội. Cơ cấu xã hội bao gồm các kiểu quan hệ xã hội như kiểu
quan hệ bình đẳng và bất bình đẳng, kiểu quan hệ hợp tác và bất hợp tác, kiểu quan hệ thống nhất và mâu
thuẫn, thậm chí xung đột và các kiểu quan hệ khác.
Như vậy, cơ cấu xã hội không cố định mà vận động và biến đổi, do các thành tố xã hội luôn vận
động, biến đổi không ngừng thông qua các hành động xã hội của con người. Cơ cấu xã hội có thể được
hình thành một cách tự phát, tự nhiên trong đời sống sinh hoạt, sản xuất. Nhưng cơ cấu xã hội hồn tồn
có thể được thiết lập, kiến tạo vì những mục tiêu nhất định. Ví dụ, cơ cấu xã hội giữa nam và nữ trong xã
hội cũ trước đây đặc trưng bởi kiểu quan hệ bất bình đẳng giới, "trọng nam khinh nữ".
* Các thành tố cơ bản của cơ cấu xã hội: Cơ cấu xã hội là sản phẩm do con người tạo ra và trong
cơ cấu xã hội ln có các cá nhân và quan hệ giữa các cá nhân. Nhưng các cá nhân không hành động
riêng lẻ mà luôn tương tác với nhau để tạo ra các thành tố của cơ cấu xã hội. Cơ cấu xã hội bao gồm các
thành tố cơ bản là: (1) vị thế xã hội, (2) vai trị xã hội, (3) nhóm xã hội, (4) thiết chế xã hội và các thành tố
khác. Trong cơ cấu xã hội, các thành tố khác bao gồm cộng đồng xã hội, mạng lưới xã hội, hệ thống xã
hội, văn hoá với các hệ các giá trị, hệ chuẩn mực, vốn người, vốn xã hội, vốn văn hoá, vốn biểu tượng và
nhiều yếu tố khác.
1. Vị thế xã hội

Vị thế xã hội là vị trí mà một người hay một nhóm người nắm giữ trong mối liên hệ, quan hệ với
người khác, nhóm khác.
Vị thế được xác lập bởi hành động, tương tác và quan hệ xã hội của cá nhân. Do các cá nhân thực
hiện nhiều hành động và tham gia nhiều quan hệ xã hội nên mỗi cá nhân có thể cùng một lúc chiếm giữ
nhiều vị thế khác nhau.
Phân loại vị thế xã hội có hai loại: Một là, vị thế gán cho, là loại vị thế có sẵn mà cá nhân hay nhóm
người bẩm sinh đã có, tự nhiên mà có, bất chấp mong muốn hay sự nỗ lực chủ quan. Các vị thế gán cho
có nguồn gốc tự nhiên liên quan tới đặc điểm sinh học, di truyền rất khó kiểm sốt nên trong một số
trường hợp nó cịn được gọi là vị thế tự nhiên. Hai là, vị thế giành được, là loại vị thế mà cá nhân hay
nhóm người phải mất công sức, thời gian và đầu tư các nguồn lực khác nhau để giành lấy và nắm giữ, vị
thế giành được thường bắt nguồn từ một cơ cấu xã hội nhất định và những đặc điểm, tính chất và q
trình xã hội mà con người có thể kiểm sốt được thơng qua những nỗ lực của bản thân nên nó cịn có tên
gọi là vị thế xã hội.
2. Vai trị xã hội
Vai trị xã hội là vai trị thực, khơng có tính chất tưởng tượng, bắt chước máy móc và nhất thời.
Những hành vi thực tế của một người có được nhờ học hỏi được những kinh nghiệm, lối sống, khn
mẫu, tác phong từ trước đó trong cuộc sống.
Vai trị xã hội và vị thế xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau, vị thế quy định vai trò, còn vai
trò thể hiện vị thế và làm nên, kiến tạo nên vị thế. Vai trò phụ thuộc vào vị thế (vị thế nào, vai trò ấy), một
vị thế có thể có nhiều vai trị, trong mối quan hệ giữa vị thế và vai trị, thì vị thế thường ổn định hơn, ít


biến đổi hơn, cịn vai trị thì động hơn và hay biến đổi hơn. Sự biến đổi của vai trò phụ thuộc vào sự biến
đổi của vị thế, vị thế biến đổi thì vai trị cũng biến đổi, vai trị và vị thế thường thống nhất với nhau song
đôi khi cũng gặp phải mâu thuẫn.
Một vai trị xã hội có thể có nhiều mức độ thể hiện hay những sắc thái khác nhau về khn mẫu tác
phong, vai trị khơng chỉ đơn thuần bao gồm những khuôn mẫu tác phong bộc lộ ra bên ngồi, mà cịn bao
hàm cả những khuôn mẫu nội dung tinh thần ở bên trong. Nội dung của bất kỳ vai trị nào cũng ln được
liên hệ đến những vai trò xã hội khác và mức độ thực hiện vai trị cũng có sự co giãn nhất định. Nhân
cách xã hội có thể được xem như một vai trị tồn diện, vai trị tổng qt, một sự phối hợp tất cả các vai

trò khác nhau trong một cá nhân. Một người nào đó khơng chỉ có một vai trị mà có nhiều vai trị, một
người tham gia vào bao nhiêu đồn thể xã hội thì có bấy nhiêu vai trị và mức độ nhiều hay ít phụ thuộc
vào mức độ tham gia nhiều hay ít vào các đồn thể xã hội đó. Vì vậy có thể dẫn đến căng thẳng vai trò và
xung đột vai trò.
Các loại vai trò
- Vai trò chỉ định: là vai trò gán cho một người nào đó từ bên ngồi mang tính chất tự nhiên, "tự
động", mà người đó dù muốn hay khơng muốn cũng khơng thể tự mình lựa chọn được.
- Vai trị lựa chọn: là vai trị được hình thành do một người nào đó chủ động, tự mình nắm lấy vai trò
bằng những nỗ lực và quyết định của chính mình.
- Vai trị then chốt: là vai trị nổi bật trong một phức hợp các vai trò ở một người nào đó.
3. Nhóm xã hội
Nhóm xã hội là tập hợp người có chung một hay một số đặc điểm, tính chất cơ bản nào đó về vị thế,
vai trị hoặc nhu cầu, sở thích nhất định. Tập hợp đó bao gồm những con người có vị thế, vai trò nhất
định, trong quan hệ tương tác qua lại với nhau, có quyền lợi và các giá trị chung, những mục tiêu xã hội
chung cũng như đều phải tuân theo những quy tắc, điều lệ chung của nhóm.
- Phân biệt giữa nhóm và đám đơng
Đám đơng chỉ một tập hợp người ngẫu nhiên, khơng có quan hệ bền chặt bên trong với nhau. Đám
đông chỉ là một tập hợp người tụ tập một cách ngẫu nhiên, tình cờ, tạm thời, khi tụ khi tan. Trong khi đó,
nhóm là một tập hợp người có quan hệ hữu cơ bên trong. Đó là những tập hợp người liên kết, liên hệ với
nhau trên cơ sở của sự phân công lao động, vị thế, vai trị, nhu cầu, lợi ích, sự tất yếu phải hợp tác, chia sẻ
lợi ích và cơng việc.
- Phân biệt nhóm với cộng đồng
Nhóm là một tập hợp người liên hệ với nhau theo một kiểu nhất định nhằm hướng tới mục đích
chung. Đặc trưng nổi bật của nhóm là sự phân cơng, sắp xếp vị thế, vai trị của các thành viên trong
nhóm. Nói đến nhóm là nói đến vị thế, vai trò của các thành viên trong nhóm cũng như vị thế, vai trị của
nhóm trong xã hội. Trong khi đó, cộng đồng (community) lại được hiểu như là một kiểu tổ chức xã hội
được hình thành trong một quá trình lịch sử lâu đời. Đặc trưng của nó là sự cố kết, sự thống nhất của mọi
thành viên trên cơ sở cùng chia sẻ về mặt trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mọi thành viên trên một
phạm vi lãnh thổ nhất định. Đặc trưng đầu tiên của cộng đồng là độ dài đáng kể về mặt thời gian trong
suốt lịch sử tồn tại và phát triển của mình. Một cộng đồng có thể có chiều dài lịch sử hàng nghìn năm.

- Phân loại nhóm: Căn cứ vào cơ chế hình thành, nhóm được phân chia thành hai loại: nhóm sơ cấp
và nhóm thứ cấp. Căn cứ vào quy mơ, nhóm được chia thành hai loại là nhóm nhỏ và nhóm lớn. Cụ thể
như sau:
Nhóm sơ cấp cịn gọi là nhóm gốc, nhóm ngun sinh. Nhóm này thường là nhóm tương đối nhỏ
trong đó các thành viên có quan hệ trực tiếp với nhau, có mục tiêu chung, có quan hệ tình cảm với nhau.
Nhóm thứ cấp là nhóm được thành lập nhằm những mục đích nhất định. Nhóm thứ cấp thường là
nhóm lớn với nhiều thành viên, do vậy các cá nhân khó có thể trực tiếp gặp gỡ, trao đổi với nhau. Mối
quan hệ trong nhóm lớn thường được ràng buộc bởi các qui tắc nhất định của tổ chức.
Nhóm lớn hay nhỏ đều có thủ lĩnh là người có quyền lực, uy tín và năng lực có thể ảnh hưởng trực
tiếp đến các thành viên.
4. Thiết chế xã hội


Thiết chế xã hội là là hệ thống các cách thức, các quy tắc chính thức và phi chính thức được con
người tạo ra để điều chỉnh hành vi, hoạt động của các cá nhân, các nhóm, các tổ chức nhằm đáp ứng
những nhu cầu cơ bản nhất định của xã hội.
- Phân loại thiết chế xã hội:
Căn cứ vào các nhu cầu cơ bản của xã hội, có thể phân loại thiết chế xã hội thành các loại thiết chế cơ
bản như thiết chế kinh tế, thiết chế chính trị, thiết chế tôn giáo, thiết chế pháp luật, thiết chế giáo dục,
thiết chế văn hố, thiết chế gia đình, thiết chế khoa học - công nghệ. Xã hội phát triển những nhu cầu mới
cơ bản, do vậy xuất hiện những thiết chế mới như thiết chế du lịch, thiết chế mạng xã hội.
- Chức năng của thiết chế:
Các thiết chế xã hội đều có chung các chức năng cơ bản như định hướng, kiểm soát, điều chỉnh, điều
tiết hành vi, hoạt động của các cá nhân, các nhóm người và các tổ chức trong xã hội. Các chức năng này
có thể nhóm lại thành hai nhóm là nhóm chức năng tạo điều kiện để đáp ứng nhu cầu xã hội và nhóm
chức năng kiềm chế việc đáp ứng nhu cầu. Điều này thể hiện rất rõ ở ở trong bất kỳ một thiết chế nào
cũng đều có những quy tắc khuyến khích hành động và những quy tắc cấm vi phạm, những quy tắc về
hành vi bị cấm nếu vi phạm thì bị trừng phạt.
Mỗi thiết chế xã hội là một tiểu hệ thống rất to lớn, rất phức tạp, có lịch sử hình thành, biến đổi,...
Nên khơng dễ xóa bỏ, thay đổi.



Câu 2: Các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản mà Xã hội học nghiên cứu hiện nay
Theo giác độ tiếp cận nghiên cứu của xã hội học, mỗi xã hội luôn là một hệ thống đa cơ cấu tự nhiên.
Đối với xã hội Việt Nam hiện nay, các nhà xã hội học thường nghiên cứu sáu phân hệ cơ cấu cơ bản sau
đây:
1. Cơ cấu xã hội - giai tầng
Cơ cấu xã hội giai tầng là cơ cấu các giai cấp, tầng lớp xã hội. Trước đây, ở Việt Nam nói đến cấu
trúc giai cấp chủ yếu nói đến cơ cấu – giai cấp với trọng tâm là khối liên minh công – nông, liên minh giai
cấp công nhân và giai cấp nơng dân. Cùng với tiến trình đổi mới từ năm 1986 nhằm xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã xuất hiện các tầng lớp xã hội mới như doanh nhân, lao động tự
do, chuyên gia kỹ thuật… Từ năm 2016 đến nay từ ngữ "giai tầng xã hội" được chính thức sử dụng trong
văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
Nghiên cứu cơ cấu xã hội giai tầng cần được xem xét ở 2 phương diện:
* Thứ nhất: Cần làm rõ các thành tố và các mối quan hệ giữa các thành tố của cơ cấu xã hội để chỉ ra:
- Vị thế, vai trò, tương quan của các giai cấp trong xã hội,
- Tỷ trọng, tính cơ động của từng giai tầng xã hội,
- Vị trí trung tâm của một giai cấp nhất định nào đó,
- Sự liên minh của giai cấp trung tâm với các giai tầng khác
- Sự thay đổi về lợi ích, xu hướng biến đổi vị thế, vai trò của các giai tầng trong xã hội.
* Thứ hai: Nghiên cứu cơ cấu xã hội giai tầng còn hướng vào việc nghiên cứu những giá trị, chuẩn
mực trong từng giai cấp, tầng lớp xã hội nhằm chỉ ra:
- Sự khác biệt với những ảnh hưởng qua lại về mặt văn hoá, lối sống và những khuôn mẫu hành vi
giữa các giai tầng trong xã hội.
- Sự chuyển dịch của một số thành viên của giai tầng xã hội này sang giai tầng xã hội khác.
- Quan hệ nội bộ và mức độ liên minh của các giai tầng trong xã hội.
Nghiên cứu cấu trúc xã hội - giai tầng nhằm cung cấp thông tin về các giai cấp, tầng lớp trong xã hội,
dự báo xu thế biến đổi của nó và đưa ra các kiến nghị nhằm xây dựng một cấu trúc xã hội phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của xã hội, đất nước góp phần tiến hành thắng lợi sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.

2. Cơ cấu xã hội-nghề nghiệp
Cơ cấu xã hội nghề nghiệp là cơ cấu xã hội của các nhóm xã hội nghề nghiệp, gọi ngắn gọn là nhóm
nghề nghiệp của xã hội. Trong cơ cấu xã hội này có nhóm nghề nghiệp chiếm vị thế cao trong xã hội và
có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế-xã hội. Trong xã hội nông nghiệp truyền thống ở Việt Nam
trước đây, cơ cấu xã hội nghề nghiệp là " sĩ - nơng - cơng - thương", trong đó, nghề nghiệp trí thức chiếm
vị trí hàng đầu, tiếp đến là nghề nông, tiếp nữa là nghề tiểu thủ công nghiệp và cuối cùng là nghề thương
nghiệp.
Hiện nay, theo kết quả điều tra lao động, việc làm năm 2016 của Tổng cục Thống kê, cấu trúc xã hội
nghề nghiệp của Việt Nam bao gồm chín nhóm nghề nghiệp, trong đó đứng đầu là nghề nghiệp "lãnh đạo,
quản lý" chỉ chiếm khoảng 1%, tiếp đến là nghề nghiệp "chuyên môn kỹ thuật bậc cao" chiếm khoảng 7%
và đứng cuối cùng là nghề nghiệp " lao động giản đơn" chiếm khoảng 40%. Điều quan trọng là trong cơ
cấu xã hội nghề nghiệp có một số nghề nghiệp suy giảm về số lượng và tỉ trọng như nghề nghiệp giản
đơn, nghề nghiệp nông lâm ngư nghiệp. Một số nghề nghiệp tăng lên về cả số lượng và tỉ trọng như nghề
nghiệp chuyên môn kỹ thuật bậc cao. Đặc biệt từng nhóm nghề nghiệp cũng thay đổi theo hướng chun
mơn hố, chun nghiệp hố, định hướng thị trường và tăng hàm lượng khoa học, công nghệ bậc cao.
Đồng thời, một số nghề nghiệp mới xuất hiện thay chỗ các nghề nghiệp cũ ví dụ các nghề nghiệp dựa vào
công nghệ thông tin.
3. Cơ cấu xã hội - dân số
Cơ cấu xã hội - dân số hay còn gọi là cơ cấu xã hội - nhân khẩu là một trong những phân hệ cấu trúc
xã hội cơ bản nói lên q trình, đặc điểm phát sinh, phát triển, cấu tạo và di biến động dân số của một
quốc gia, dân tộc, vùng lãnh thổ.



×