Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Ý thức xã hội và việc giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.76 KB, 20 trang )

Đề tài 14: Ý thức xã hội và việc giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên
hiện nay.


A. MỞ ĐẦU
Trong thế giới đương đại, nơi sự phát triển nhanh chóng của cơng
nghệ và sự biến động đa dạng của xã hội đặt ra những thách thức lớn cho
việc hình thành ý thức xã hội và đặc biệt là giáo dục ý thức pháp luật cho
sinh viên. Đề tài này đưa ra một cái nhìn sâu sắc về mối quan hệ giữa ý
thức xã hội và quá trình giáo dục pháp luật, khám phá vai trò quyết định
và ý nghĩa của việc hình thành ý thức pháp luật trong cộng đồng sinh viên
ngày nay. Trong ngữ cảnh này, chúng ta có cơ hội nhìn nhận rõ hơn về
tầm quan trọng của việc xây dựng ý thức pháp luật để định hình tương lai
của xã hội.
Với sự biến động nhanh chóng của xã hội và sự thay đổi khơng
ngừng trong cách mà thông tin được truyền tải và tiếp cận, việc hiểu rõ về
ý thức xã hội và pháp luật trở nên ngày càng quan trọng. Đặc biệt, trong
giới sinh viên - những người là những nguồn lực chủ chốt của tương lai,
quá trình giáo dục về ý thức pháp luật trở thành một yếu tố quyết định đối
với sự hình thành và phát triển của cộng đồng. Việc nghiên cứu về ý thức
xã hội và quá trình giáo dục ý thức pháp luật đưa ra cơ hội hiểu rõ về vai
trò của giáo dục trong việc xây dựng một tầng lớp sinh viên có ý thức
pháp luật, đồng thời làm nổi bật ý nghĩa của nó trong việc thúc đẩy sự
hiểu biết, trách nhiệm và tư duy pháp luật của thế hệ trẻ.


B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm ý thức xã hội
Cùng với phạm trù tồn tại xã hội, ý thức xã hội là phạm trừ của chủ nghĩa
duy vật lịch sử được vận dụng để giải quyết vấn đề cơ bản của triết học


trong lĩnh vực xã hội. Nếu "ý thức... khơng bao giờ có thể là cái gì khác
hơn là sự tồn tại được ý thức" thì ý thức xã hội chính là xã hội tự nhận
thức về mình, về sự tồn tại xã hội của mình và về hiện thực xung quanh
mình. Nói cách khác, ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội,
là bộ phận hợp thành của văn hóa tinh thần của xã hội: Văn hóa tinh thần
của xã hội mang nặng dấu ấn đặc trưng của hình thái kinh tế - xã hội, của
các giai cấp đã tạo ra nó.
2. Kết cấu của ý thức xã hội
Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội. Trong
hệ tư tưởng xã hội, quan trọng nhất là các quan điểm, các học thuyết và
các tư tưởng. Trong tâm lý xã hội có tình cảm, tâm trạng, truyền thống,...
nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội ở những giai đoạn
phát triển nhất định. V.I. Lênin viết: "Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã
hội, đó là học thuyết của Mác". Tuy nhiên, sự phản ánh này không phải là
sự phản ánh thụ động: bất động mà là một quá trình biện chứng phức tạp,
là kết quả của mối quan hệ hoạt động, tích cực của con người đối với hiện
thực.
Ý thức xã hội mặc dù có mối quan hệ hữu cơ, biện chứng với ý
thức cá nhân, cùng phản ánh tồn tại xã hội, song giữa ý thức xã hội và ý
thức cá nhân vẫn có sự khác nhau tương đối vì chúng thuộc hai trình độ
khác nhau.
Ý thức cá nhân chính là thế giới tinh thần của các cá nhân riêng lẻ
và cụ thể. Ý thức của các cá nhân khác nhau được quy định bởi những


đặc điểm của cuộc sống riêng, của việc giáo dục và điều kiện hình thành
nhân cách riêng của cá nhân. Dù ít dù nhiều, ý thức của các cá nhân khác
nhau đều phản ánh tồn tại xã hội ở các mức độ khác nhau, song khơng
phải bạo giờ nó cũng đại diện cho quan điểm chung, phổ biến của một
cộng đồng người, của một tập đoàn xã hội hay của một thời đại xã hội

nhất định nào đó.
Về mặt hình thức, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội dưới nhiều
hình thức khác nhau. Sự đa dạng các hình thái ý thức xã hội là do tính
nhiều mặt, nhiều vẻ và đa đạng của đời sống xã hội quy định; chúng phản
ánh xã hội theo những cách thức khác nhau. Tùy thuộc vào góc độ xem
xét, người ta thường chia ý thức xã hội thành ý thức xã hội thông thường,
ý thức lý luận, tâm lý xã hội và bệ tư tưởng xã hội.
Ý thức xã hội thông thường hay ý thức thường ngày là những tri
thức, những quan niệm của con người hình thành một cách trực tiếp trong
các hoạt động trực tiếp hằng ngày nhưng chưa được hệ thống hóa, chưa
được tổng hợp và khái quát hóa.
Ý thức lý luận hay ý thức khoa học là những tư tưởng, những quan
điểm được tổng hợp, được hệ thống hóa và khái quát hóa thành các học
thuyết xã hội dưới dạng các khái niệm, các phạm trù và các quy luật.
Ý thức xã hội thông thường phản ánh một cách sinh động và trực
tiếp các mặt khác nhau của cuộc sống hằng ngày của con người. Ý thức
xã hội thơng thường tuy ở trình độ thấp hơn ý thức lý luận nhưng lại
phong phú hơn ý thức lý luận. Chính những tri thức kinh nghiệm phong
phú của ý thức thông thường là chất liệu, là cơ sở và tiền đề quan trọng
cho sự hình thành ý thức lý luận.
Ý thức lý luận hay là ý thức khoa học có khả năng phản ánh hiện
thực khách quan một cách sâu sắc, chính xác, bao quát và vạch ra được
những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất yếu mang tính quy luật của


các sự vật và các quá trình xã hội. Đồng thời, ý thức khoa học có khả
năng phản ánh vượt trước hiện thực.
Tâm lý xã hội là ý thức xã hội thể hiện trong ý thức cá nhân. Tâm
lý xã hội bao gồm tồn bộ tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, thói quen, nếp
sống, nếp nghĩ, phong tục, tập quán, ước muốn, v.v. của một người, một

tập đoàn người, một bộ phận xã hội hay của toàn thể xã hội hình thành
dưới tác động trực tiếp của cuộc sống hằng ngày của họ và phản ánh cuộc
sống đó.
Hệ tư tưởng là giai đoạn phát triển cao hơn của ý thức xã hội, là sự
nhận thức lý luận về tồn tại xã hội. Hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào
bản chất của mọi mối quan hệ xã hội; là kết quả của sự tổng kết, sự khái
quát hóa các kinh nghiệm xã hội để hình thành nên những quan điểm,
những tư tưởng về chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tơn
giáo, v.v..
3. Các hình thái ý thức xã hội
Các hình thái ý thức xã hội thể hiện các phương thức nắm bắt khác nhau
về mặt tinh thần đối với hiện thực xã hội, bởi vậy, ý thức xã hội tồn tại
dưới nhiều hình thái khác nhau. Những hình thái chủ yếu của ý thức xã
hội bao gồm: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức
thẩm mỹ (bay ý thức nghệ thuật), ý thức tôn giáo, ý thức lý luận (hay ý
thức khoa học), ý thức triết học. Sự phong phú của các hình thái ý thức xã
hội phản ánh sự phong phú của đời sống xã hội.
Ý thức chính trị: Hình thái ý thức chính trị phản ánh các mối quan
hệ kinh tế của xã hội bằng ngơn ngữ chính trị cũng như mối quan hệ giữa
các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia và thái độ của các giai cấp đối với
quyền lực nhà nước. Hình thái ý thức chính trị xuất hiện trong những xã
hội có giai cấp và có nhà nước, vì vậy nó thể hiện trực tiếp và rõ nhất lợi
ích giai cấp.


Ý thức chính trị, nhất là hệ tư tưởng chính trị, có vai trị rất quan trọng
đối với sự phát triển của xã hội, bởi vì, hệ tư tưởng chính trị thể hiện
trong cương lĩnh chính trị, trong đường lối và các chính sách của đảng
chính trị, pháp luật của nhà nước, đồng thời cũng là công cụ thống trị xã
hội của giai cấp thống trị. Hệ tư tưởng chính trị tiến bộ sẽ thúc đẩy mạnh

mẽ sự phát triển các mặt của đời sống xã hội; ngược lại, hệ tự tưởng
chính trị lạc hậu, phản động sẽ kìm hãm, thậm chí kéo lùi sự phát triển đó.
Ý thức pháp quyền: Ý thức pháp quyền có mối liên hệ chặt chẽ
với ý thức chính trị. Hình thái ý thức pháp quyền cũng phản ánh các mối
quan hệ kinh tế của xã hội bằng ngôn ngữ pháp luật. Ph. Ăngghen viết
rằng, ý thức "pháp quyền của người ta bắt nguồn từ những điều kiện sinh
hoạt kinh tế của người ta": Giống như ý thức chính trị, ý thức pháp quyền
gần gũi với cơ sở kinh tế của xã hội hơn các hình thái ý thức xã hội khác.
Cũng giống như ý thức chính trị, ý thức pháp quyền ra đời trong xã hội có
giai cấp và có nhà nước, vì vậy nó cũng mang tính giai cấp. Do pháp luật
là ý chí của giai cấp thống trị thể hiện thành luật lệ cho nên trong xã hội
có giai cấp đối kháng thì thái độ và quan điểm của các giai cấp khác nhau
đối với pháp luật cũng khác nhau.
Ý thức đạo đức: Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về
thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ, công bằng, hạnh
phúc, v.v. và về những quy tắc đánh giá, những chuẩn mực điều chỉnh
hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với nhau và giữa các cá nhân
với xã hội. Lần đầu tiên chủ nghĩa Mác chỉ ra nguồn gốc hiện thực của sự
ra đời các tư tưởng và nguyên tắc, tính lịch sử, tính giai cấp, vị trí và vai
trị của đạo đức và ý thức đạo đức trong sự phát triển xã hội. Ph. Ăngghen
viết: "Con người dù tự giác hay không tự giác, rút cuộc đều rút ra những
quan niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở
cho vị trí giai cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế trong đó


người ta sản xuất và trao đối". Khi xã hội xuất hiện giai cấp thì ý thức đạo
đức hình thành và phát triển như một hình thái ý thức xa hội riêng.
Sự phát triển của hình thái ý thức đạo đức không tách rời sự phát triển
của xã hội, phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các quy tắc điều chỉnh hành
vi của con người. Sự tự ý thức của con người về lương tâm, trách nhiệm,

nghĩa vụ, danh dự, v.v. nói lên sức mạnh của đạo đức, đồng thời cũng là
biểu hiện bản chất xã hội của con người. Với ý nghĩa đó, sự phát triển của
ý thức đạo đức là nhân tố biểu hiện sự tiến bộ của xã hội.
Ý thức nghệ thuật hay ý thức thẩm mỹ: Ý thức nghệ thuật hay ý
thức thẩm mỹ hình thành rất sớm, từ trước khi xã hội có sự phân chia giai
cấp, cùng với sự ra đời của các hình thái nghệ thuật.
Giống như các hình thái ý thức xã hội khác, ý thức thẩm mỹ phản ánh tồn
tại xã hội. Tuy nhiên, nếu khoa học và triết học phản ánh thế giới bằng
khái niệm, bằng phạm trù và quy luật, thì nghệ thuật phản ánh thế giới
bằng hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật là sự nhận thức, sự
lĩnh hội cái chung trong cái riêng; là sự nhận thức cái bản chất trong các
hiện tượng, cái phổ biến trong cái cá biệt nhưng mang tính điển hình.
Ý thức tôn giáo: Các nhà duy vật trước C. Mác mặc dù đã tìm
nhiều cách khác nhau để giải thích nguồn gốc ra đời và bản chất của tôn
giáo nhưng tất cả đều sai lầm. Đối với C. Mác và Ph. Ăngghen, tơn giáo
có trước triết học; nó là một hình thái ý thức xã hội trực tiếp thể hiện thế
giới quan của con người. Khác với tất cả các hình thái ý thức xã hội khác,
tơn giáo là sự phản ánh hư ảo sức mạnh của giới tự nhiên bên ngồi lẫn
các quan hệ xã hội vào đầu óc con người.
Ý thức lý luận hay ý thức khoa học: Khoa học hình thành và phát
triển ở một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội, của nhu cầu sản
xuất xã hội và sự phát triển năng lực tư duy của con người. Khoa học là
sự khái quát cao nhất của thực tiễn, là phương thức nắm bắt tất cả các
hiện tượng của hiện thực, cung cấp những tri thức chân thực về bản chất


các hiện tượng, các quá trình, các quy luật của tự nhiên và của xã hội. Vì
vậy, khoa học và tôn giáo là những hiện tượng đối lập với nhau về bản
chất. Tơn giáo thù địch với lý trí con người, trong khi đó khoa học lại là
sản phẩm cao nhất của lý trí và là sức mạnh của con người. Nếu ý thức

tôn giáo là sự phản ánh hư ảo sức mạnh của giới tự nhiên bên ngoài lẫn
các quan hệ xã hội vào đầu óc con người thì ý thức khoa học phản ánh
hiện thực một cách chân thực và chính xác dựa vào sự thật và lý trí của
con người.
Ý thức triết học: Hình thức đặc biệt và cao nhất của tri thức cũng
như của ý thức xã hội là triết học. Nếu như các ngành khoa học riêng lẻ
nghiên cứu thế giới từ các khía cạnh, từ những mặt nhất định của thế giới
đó thì triết học, nhất là triết học Mác - Lênin, cung cấp cho con người tri
thức về thế giới như một chỉnh thể thơng qua việc tổng kết tồn bộ lịch sử
phát triển của khoa học và của chính bản thân triết học. Vì vậy, khi đánh
giá mối liên hệ của tinh thần với triết học, Hegel khẳng định rằng, "xét từ
góc độ của tinh thần chúng ta có thể gọi triết học chính là cái cần thiết
nhất".
II. Vận dụng
1. Khái niệm ý thức pháp luật
Dưới góc độ triết học phạm trù ý thức nói chung thuộc lĩnh vực đời
sống tinh thần và ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội. Ý
thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan
niệm, thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật và các hiện tượng
pháp lý khác, thể hiện mối quan hệ giữa con người đối với pháp luật
(pháp luật đã qua, pháp luật hiện hành và pháp luật cần phải có) và sự
đánh giá về mức độ cơng bằng, bình đẳng; tính hợp pháp hay khơng hợp
pháp... đối với các hành vi, lợi ích hoặc quan hệ từ thực tiễn đời sống
pháp lý và xã hội.


2. Sự cần thiết của việc giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên
Mạng xã hội đang dần chiếm vị trí quan trọng, tác động (cả mặt tích cực
và tiêu cực) không nhỏ đến cuộc sống mỗi người, nhất là học sinh, sinh
viên. Song Mạng xã hội cũng là con dao hai lưỡi, lạm dung sẽ biến thành

“nô lệ" của mạng. Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ,
xuất hiện ngày càng nhiều các nền tảng Mạng xã hội đã tác động lớn đến
mọi lĩnh vực hoạt động và đời sống sinh hoạt của con người, nhất là học
sinh, sinh viên.
Bên cạnh nhiều tiện ích, mạng xã hội cũng gây ra khơng ít hệ lụy, bởi sự
ảnh hưởng của nó khơng chỉ dừng lại ở cường độ tiếp xúc, mà nguy hiểm
hơn là những nội dung thơng tin, hình ảnh khơng lành mạnh đã tác động
xấu đến giới trẻ. Việc cấm trẻ dùng Mạng xã hội là điều không thể và
không đúng, nhất là khi chúng ta đang sống trong một xã hội số ngày
càng phát triển như hiện nay. Tuy nhiên, cần lưu ý chính là mặt trái của
Mạng xã hội: mỗi ngày, một người tốn hàng tiếng đồng hồ, thậm chí
nhiều hơn cho mạng xã hội, có rất nhiều trường hợp khá đau lịng và
thậm chí có một số trường hợp các em chết gục trên bàn sau khi hàng
tuần trời chỉ ăn mì tơm và chơi game online - đây chính là đời sống ảo, nó
giúp cho người ta thăng hoa trong thế giới ảo đó nhưng lại hủy hoại về
thể chất, tinh thần con người trong đời sống thực. Chính vì vậy, việc giáo
dục pháp luật cho học sinh, sinh viên giữ vai trị quan trọng nhằm tạo ra
những cơng dân tương lai biết sống và làm việc theo hiến pháp và pháp
luật để xây dựng “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân ở nước ta. Học sinh, sinh viên là
những công dân tương lai cần phải nắm vững pháp luật và thực hiện đúng
pháp luật trong mọi hoạt động nhằm giữ vững kỷ cương, trật tự xã hội


của nhà nước pháp quyền, do đó, GDPL cho học sinh, sinh viên vừa là
mục tiêu, vừa là nhiệm vụ, nội dung giáo dục của nhà trường hiện nay.
Giáo dục pháp luật (GDPL) cho học sinh, sinh viên, giúp các em có nhận
thức đúng về tầm quan trọng của việc chấp hành pháp luật, nhận diện
được quy tắc hành vi ứng xử chấp hành pháp luật khi tham gia vào các
quan hệ xã hội nói chung và quan hệ xã hội vào các ứng dụng trên “thế

giới ảo”. Có thái độ tích cực đối với việc học tập, rèn luyện để thực hiện
đúng chuẩn mực pháp luật trong học tập, lao động, tham gia mạng xã hội
và sinh hoạt trong cuộc sống hàng ngày; tích cực tun truyền và lơi cuốn
người khác cùng tham gia chấp hành pháp luật và đấu tranh không khoan
nhượng với những hành vi vi phạm pháp luật trong thực tế cuộc sống, qua
đó tích cực tham gia đảm bảo tính kỷ cương, kỷ luật và trật tự an ninh, an
toàn trong xã hội xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Để thực hiện
được các mục tiêu trên, GDPL cho học sinh phải trở thành mục tiêu,
nhiệm vụ và nội dung giáo dục cơ bản trong trường học, đồng thời phải
có cơ chế quản lý các hoạt đó một cách hiệu quả.
Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề GDPL cho
người dân và học sinh, sinh viên luôn khẳng định coi việc triển khai mạnh
mẽ công tác tuyên truyền GDPL, huy động lực lượng của các đồn thể
chính trị, xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia cuộc vận
động thiết lập trật tự, kỷ cương và các hoạt động thường xuyên, xây dựng
nếp sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật trong cơ quan nhà nước
và trong toàn xã hội.
Quyết định số 599/QĐ-BGDĐT ngày 28/02/2023 của Bộ Giáo dục và
đào tạo về Kế hoạch về PBGDPL năm 2023 của ngành Giáo dục. Kế
hoạch đặt ra yêu cầu đối với các đơn vị nhà trường, cơ sở giáo dục trong


tồn ngành phải bảo đảm cơng tác PBGDPL được tổ chức triển khai thực
chất, bám sát nội dung, yêu cầu đổi mới công tác PBGDPL trong điều
kiện hiện nay, phù hợp với tinh thần văn kiện Đại hội XIII của Đảng,
Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới; bám sát các
nhiệm vụ trọng tâm của ngành Giáo dục năm 2023, tập trung tuyên truyền,
phổ biến quy định pháp luật mới ban hành liên quan đến quản lý nhà
nước về giáo dục và đào tạo. Các hoạt động PBGDPL cần hướng tới mục

đích tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và ý thức tuân thủ, chấp
hành, tự giác học tập, tìm hiểu pháp luật, xây dựng lối sống và làm việc
theo pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức, nhà giáo, người lao
động, người học trong nhà trường. Sự tác động mạnh mẽ của Cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0), đã đặt ra
những vấn đề mới về chấp hành pháp luật và GDPL cho học sinh, sinh
viên đặc biệt là vấn đề an ninh mạng và vấn đề sử dụng công nghệ số.
Thực hiện Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) năm 2012, thời
gian qua công tác giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh viên đã được các
nhà trường quan tâm, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau nên kết
quả giáo dục chưa đạt được mục tiêu mong muốn, một trong những
nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên là do một phần công tác quản lý chưa
thực sự được coi trọng.
Cùng với đó, Pháp luật về công tác GDPL cho học sinh, sinh viên là một
biện pháp tác động quan trọng, minh bạch, hiệu lực hiệu quả nhằm nâng
cao hiểu biết, ý thức tuân thủ pháp luật của người trẻ trong xã hội ngay từ
khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Luật PBGDPL năm 2012 có chương
riêng về cơng tác PBGDPL trong nhà trường. Bộ Giáo dục và Đào tạo có
vai trị hết sức quan trọng trong việc nâng cao hiểu biết, ý thức tuân thủ
pháp luật của người trẻ trong xã hội ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà


trường. Cùng với sự tiến bộ của xã hội, Internet nói chung, các trang
mạng xã hội nói riêng ngày càng phát triển, đây là xu thế tất yếu khách
quan. Để giúp cho thanh niên tham gia và sử dụng các trang mạng xã hội
một cách lành mạnh, tích cực, hữu ích thì điều quan trọng trước hết là các
bậc cha mẹ, thầy cô giáo và lãnh đạo, thủ trưởng cơ quan, đơn vị phải làm
tốt công tác giáo dục, hướng dẫn cho họ hiểu rõ về các trang mạng xã hội,
thấy được những tiện ích và hạn chế của nó để chủ động tham gia và sử
dụng một cách tích cực, hiệu quả, phục vụ tốt nhất cho sinh hoạt, học tập,

công tác chuyên môn.
3. Thực trạng chấp hành ý thức pháp luật của sinh viên hiện nay
Sự văn minh của một quốc gia được đánh giá dựa trên nhiều phương diện
khác nhau mà trong đó ý thức pháp luật đóng một vai trị khơng hề nhỏ.
Ý thức pháp luật là nền móng của lối sống tuân theo luật pháp. Nó được
cấu thành dựa trên nền tảng của sự hiểu biết về pháp luật, thái độ tâm lý
của cá nhân đối với pháp luật và khả năng áp dụng những hiểu biết pháp
luật đó vào thực tế. Ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật có một
mối quan hệ mật thiết đến một mức độ nhất định, bởi nếu mất đi ý thức
pháp luật thì hiển nhiên sẽ khơng thể có một lối sống tn thủ pháp luật
được. Nhưng ở một khía cạnh khác, ý thức pháp luật cao không đồng
nghĩa với một lối sống tuân theo pháp luật và ngược lại, nghĩa là ý thức
pháp luật không phải lúc nào cũng tỉ lệ thuận với lối sống pháp luật. Điều
này có thể lý giải được vì mỗi yếu tố đều có tính độc lập tương đối và sự
tồn tại của nó lại có sự tác động đa chiều của rất nhiều yếu tố chủ quan
lẫn khách quan.
Từng ngày một, hệ thống giáo dục đang dần được hoàn thiện, cải
tiến hơn. Song song với việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ
chun mơn thì các trường Đại học, Cao đẳng đã dần dành nhiều sự chú ý
hơn đối với việc giáo dục các giá trị đạo đức, lối sống pháp luật cho sinh


viên với nhiều nội dung được cập nhật theo xu thế xã hội thơng qua nhiều
hình thức khác nhau. Phần lớn các sinh viên Việt Nam có ý thức phấn đấu,
chăm chỉ nỗ lực học tập để trở thành những cơng dân có ích, khơng
những có tài mà cịn có đức, sống có hồi bão và lý tưởng. Đó là lối sống
có mục đích, là lối sống phù hợp với xu thế chung của sự vận động xã hội.
Dẫu vậy, bộ phận xã hội nào cũng sẽ có những mặt khác nhau, lượng lớn
sinh viên có thái độ học tập, động cơ sai lệch, thiếu tơn trọng nền giáo
dục nói chung cũng như thờ ơ các vấn đề chính trị, mơ hồ về lý tưởng

cách mạng. Thực trạng ý thức pháp luật của sinh viên Việt Nam có những
mặt tích cực và hạn chế xét trên những yếu tố khách quan và chủ quan
được thể hiện trong những nội dung sau:
Thực trạng nhận thức và hiểu biết pháp luật của sinh viên Việt Nam
Nhận thức pháp luật có thể hiểu rằng đó là sự hiểu biết về các quy
định của Hiến pháp cũng như các quy định cụ thể của luật pháp. Trong
những năm qua, nhờ những nỗ lực không ngừng nghỉ cùng sự quan tâm
sâu sát của Đảng uỷ, nhà trường, sự vươn lên của đội ngũ giảng viên cùng
sự nỗ lực phấn đấu của sinh viên trên cả nước, công tác triển khai, nâng
cao ý thức pháp luật của sinh viên đã đạt được nhiều điểm tích cực. Trước
tiên, trình độ hiểu biết về pháp luật của sinh viên đang ngày một cao hơn,
được cập nhật kịp thời và chính xác. Phần lớn sinh viên đã nắm rõ và hiểu
được những vấn đề nền tảng, cơ bản của pháp luật như là hiểu được khái
niệm của pháp luật đó là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt
buộc chung do nhà nước ban hành, và cũng có thể vận dụng những kiến
thức đó vào cuộc sống thực tiễn để những khái niệm khơng cịn q mơ
hồ.
Tuy nhiên, cấp độ hiểu biết pháp luật của sinh viên Việt Nam nói
chung vẫn chỉ ở mức trung bình. Bởi dẫu nhận thức chung đã được nâng
cao nhưng những hiểu biết về quy định pháp luật cụ thể thì sinh viên vẫn
còn hời hợt. Khi đi vào những nội dung cụ thể của một số ngành luật như


bộ luật hình sự, dân sự, hơn nhân hay khiếu nại thì sinh viên vẫn chưa
nắm rõ được. Bên cạnh đó, với sự phát triển nhanh chóng của cơng nghệ
thơng tin, khi việc kiểm sốt và xét duyệt những thơng tin trên mạng xã
hội vẫn gặp trở ngại lớn thì việc gặp phải những kiến thức pháp luật bị
bóp méo, xuyên tạc sai sự thật sẽ khiến sinh viên trở nên lúng túng và
phân vân khơng xác định được tính xác thực.
Thực trạng về thái độ đối với pháp luật của sinh viên Việt Nam

Từ những ngày đầu hình thành nên khái niệm pháp luật, nó đã
đóng một vai trị vô cùng quan trọng trong cuộc sống và sự phát triển của
xã hội. Phải có một hệ thống pháp luật chặt chẽ, nghiêm minh và việc
thực hiện, tôn trọng pháp luật phải đúng thì xã hội mới văn minh và ngày
càng tiến bộ được. Vậy nên đó là lý do mà Đảng và nhà nước luôn chú
trọng và ngày càng nâng cao tầm quan trọng của việc giáo dục ý thức
pháp luật trong không những môi trường sư phạm mà cịn trong nhiều
khía cạnh của cuộc sống. Giáo dục ý thức pháp luật là cơ sở cho việc
hoàn thiện nhân cách của học sinh, sinh viên khi vẫn còn ngồi trên ghế
nhà trường, giảng đường. Nhận được sự giáo dục ý thức pháp luật đúng
đắn giúp sinh viên hoàn thiện nhân cách của mình, trang bị cho sinh viên
những tri thức pháp luật, xây dựng, hình thành ở cá nhân sinh viên một
thái độ với pháp luật, lối sống và làm việc theo hiến pháp với đầy đủ
trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của cơng dân. Qua tìm hiểu, sinh
viên Việt Nam có thái độ tơn trọng pháp luật, việc tôn trọng pháp luật
được thể hiện ở đa phương diện như chấp hành nội quy, quy chế nhà
trường, tôn trọng các quy tắc ứng xử của cộng đồng và cũng như các quy
định của pháp luật.
Dẫu vậy, chúng ta cũng không thể bỏ qua một số bộ phận sinh viên
với ý thức pháp luật vẫn còn hạn chế. Nhiều sinh viên vẫn khơng dành
nhiều lịng tin đối với pháp luật, tình cảm và sự nhận thức vẫn cịn thấp.
Trong thế giới quan của số sinh viên đó, pháp luật là điều gì đó ngoại lai,


khơng hiện hữu và liên quan gì đến cuộc sống cá nhân của mình. Điều
này dẫn đến một hệ luỵ đó là sinh viên khơng những khơng nắm rõ mà
cịn khơng chủ động tìm hiểu, chưa có thói quen sử dụng pháp luật, chưa
củng cố niềm tin, thái độ và tâm lý đối với pháp luật. Bên cạnh đó, một số
sinh viên do tâm lý lứa tuổi hoặc chịu sự tác động và ảnh hưởng từ gia
đình mà đã có thái độ coi thường pháp luật, không tôn trọng và không

thấy hết trường đảm nhiệm.
Thực trạng việc thực hiện pháp luật của sinh viên Việt Nam
Vấn đề vi phạm pháp luật từ trước đến nay đã khơng cịn xa lạ
trong xã hội, việc vi phạm pháp luật có thể được thực hiện bởi nhiều độ
tuổi, tầng lớp khác nhau và thanh thiếu niên nói chung, sinh viên nói
riêng cũng nằm trong số đó. Trong những năm qua, bên cạnh việc tập
trung xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và nhà nước vẫn ban hành
nhiều chủ trương, chính sách và pháp luật nhằm đảm bảo cho việc thanh
niên sẽ được phát triển một cách toàn diện. Thực tế cho thấy đa số sinh
viên Việt Nam có ý thức chấp hành pháp luật, tuân thủ quy định một cách
tự giác, biết vận dụng tình cảm, tâm lý, sự hiểu biết pháp luật vào cuộc
sống thực tế.
Sinh viên là thế hệ cốt lõi của một xã hội, là nguồn lao động và là
những chủ nhân tương lai của xã hội, thế nhưng thời gian gần đây việc
sinh viên vi phạm pháp luật đã diễn biến càng ngày càng phức tạp, tinh vi
và có xu hướng gia tăng về số lượng, mức độ, tính chất và nó làm ảnh
hưởng khơng nhỏ đến an ninh, an toàn của xã hội cũng như của sự phát
triển kinh tế. Thống kê của Bộ Công an cho thấy, từ năm 2018 đến quý I2021, cả nước ghi nhận hơn 10.000 vụ người chưa thành niên vi phạm
pháp luật, với 16.000 đối tượng có liên quan. Trong đó, nữ giới chiếm 5%,
nam giới chiếm đến 95%. Riêng tại Hưng Yên, từ tháng 12-2020 đến
tháng 11-2021 xảy ra 53 vụ vi phạm trật tự xã hội, trong đó có 227 đối
tượng là người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Xã hội chúng ta đang


được sống và phát triển là một xã hội văn minh và ngày càng hiện đại
nhưng kèm theo đó là nhiều những vấn đề phát sinh. Đạo đức của một bộ
phận sinh viên là một trong số đó. Việc suy đồi đạo đức, lối sống của sinh
viên trở nên đáng báo động hơn bao giờ hết.
4. Giải pháp tăng cường giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên
Để tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và ý thức tự giác học tập,

tìm hiểu pháp luật, xây dựng lối sống và làm việc theo pháp luật trong
toàn xã hội, nhất là đối với học sinh, sinh viên, Thủ tướng Chính phủ đã
ký quyết định ban hành Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai
đoạn 2017 - 2021.
Việc xây dựng ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên chính là tạo
dựng một nền tảng thực thi pháp luật hiệu quả trong tương lai, tạo cơ sở
để làm lành mạnh hóa đời sống xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, giúp cho công tác quản lý, vận hành Nhà nước pháp quyền được
hiệu quả. Việc tăng cường giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên Việt
Nam hiện nay cần thực hiện các giải pháp sau đây:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của chính quyền đối
với cơng tác nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên. Để tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, cần quán triệt Chỉ thị số 32/CT-TW của ban Bí thư về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cơng tác phổ biến, giáo dục pháp
luật, qua đó tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của các tổ
chức cơ sở Đảng và đảng viên về công tác giáo dục pháp luật. Các cấp ủy
Đảng phải ln xác định vai trị gương mẫu của các đảng viên và vai trò
tiên phong của họ trong việc tuyên truyền giáo dục pháp luật. Các cấp ủy
Đảng cũng phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát hoạt động giáo
dục pháp luật, kịp thời đôn đốc, chỉ đạo, xử lý những vướng mắc nảy sinh
trong quá trình giáo dục pháp luật. Hoạt động kiểm tra, giám sát, sơ kết,


đánh giá công tác giáo dục pháp luật không chỉ qua báo cáo mà phải kết
hợp việc kiểm tra trên thực tế.
Hai là, tích cực đổi mới nội dung bồi dưỡng ý thức pháp luật cho phù hợp
với từng nhà trường, từng đối tượng trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Trong q trình thực hiện, phải ln bám sát các nội dung văn bản, chỉ thị
và hướng dẫn của cơ quan cấp có thẩm quyền về pháp luật. Căn cứ vào
đặc điểm, tình hình của từng nhà trường để xác định nội dung bồi dưỡng

cho phù hợp. Cần chú trọng đến các nội dung có liên quan đến trách
nhiệm, nghĩa vụ của công dân; các văn bản liên quan đến quyền lợi và
nghĩa vụ cơng dân nói chung và sinh viên, thanh niên nói riêng…Đây là
những nội dung quan trọng trong bồi dưỡng ý thức pháp luật, xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh trong nhà trường. Nội dung này không chỉ
giúp sinh viên chấp hành nghiêm pháp luật, hạn chế tội phạm xảy ra, mà
còn thiết thực chấp hành pháp luật của Nhà nước và góp phần xây dựng
Nhà nước vững mạnh toàn diện, quản lý xã hội bằng pháp luật.
Ba là, kết hợp nhiều hình thức, phương pháp bồi dưỡng ý thức pháp luật
cho phù hợp để sinh viên dễ tiếp thu, dễ nhớ, dễ vận dụng. Các văn bản
quy phạm pháp pháp luật thường có nhiều thuật ngữ khó, nội dung nhiều
và khơng dễ tiếp thu, trong khi đó thời gian giành cho bồi dưỡng ý thức
pháp luật là có giới hạn. Do vậy, thường xuyên kết hợp nhiều hình thức,
phương pháp bồi dưỡng cho phù hợp, tạo ra nhiều “kênh” thông tin về
pháp luật cho sinh viên là rất cần thiết. Ngoài việc bồi dưỡng pháp luật
theo chương trình, cịn cần phải thường xun lồng phép bồi dưỡng ý
thức pháp luật với các hình thức hoạt động công tác giáo dục, đào đạo của
nhà trường; tăng cường tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến về
pháp luật; giữ nghiêm kỷ cương trong các hoạt động ngoại khóa; tổ chức
các hoạt động thi đua trong các tháng cao điểm về chấp hành pháp luật;


ngoài ra các nhà trường phải thường xuyên tổ chức cho sinh viên hoạt
động về các chuyên mục tìm hiểu, giải đáp pháp luật…
Bốn là, kết hợp nâng cao ý thức pháp luật với giáo dục tư tưởng, chính trị
đạo đức, lối sống cho sinh viên. Muốn nâng cao ý thức pháp luật cần phải
đặt trong mối quan hệ với các hình thái ý thức xã hội khác, nhất là mối
quan hệ với ý thức chính trị, ý thức đạo đức. Pháp luật là sự thể chế hóa
đường lối chính trị, là phương tiện để các đường lối chính trị được thực
hiên nghiêm chỉnh trong xã hội. Do vậy, nâng cao ý thức pháp luật là

giáo dục chính trị, đường lối, chủ trương quan điểm của Đảng và cũng
qua việc giáo dục chính trị để nâng cao nhận thức, thái độ đối với các quy
định của pháp luật, biến thành những hành vi ứng xử đúng đắn trong cuộc
sống. Nhà trường cũng cần chú ý đến việc bồi dưỡng nhân sinh quan, thế
giới quan khoa học cho sinh viên thông qua giảng dạy và phổ biến những
vấn đề lý luận của chủ nghía Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tuyên truyền, giảng dạy pháp luật hiệu quả sẽ góp phần tạo dựng nên nền
tảng văn hóa pháp lý cho xã hội, để mọi người dân đều có ý thức tuân thủ
pháp luật. Tuy nhiên, để công tác phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật cho
sinh viên trong các nhà trường đạt hiệu quả thì các trường cần phải nhận
thức đầy đủ hơn nữa tầm quan trọng của môn học giáo dục pháp luật,
giáo dục chính trị tư tưởng. Các trường cũng cần đổi mới nội dung,
phương pháp theo hướng không chỉ đáp ứng nhu cầu kiến thức cơ bản về
pháp luật, mà còn đáp ứng nhu cầu thực tiễn, bảo đảm thiết thực, một mặt
nâng cao trình độ nhận thức cho các đối tượng, nhất là học sinh, sinh viên,
mặt khác giúp họ có khả năng vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cuộc sống.


C. KẾT LUẬN
Trong bối cảnh thời đại hiện nay, với sự đa dạng và phức tạp của
xã hội, nhu cầu về hiểu biết ý thức xã hội và giáo dục ý thức pháp luật
cho sinh viên trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Triết học Mác-Lenin đã
để lại những hệ tư duy mạnh mẽ và đặc trưng, giúp sinh viên khơng chỉ
nắm bắt được lý thuyết mà cịn có khả năng áp dụng linh hoạt vào thực tế.
Việc tìm hiểu về ý thức xã hội từ góc độ này giúp sinh viên nhận ra tầm
quan trọng của sự hiểu biết và hình thành ý thức xã hội tích cực, giúp họ
trở thành những cơng dân có trách nhiệm trong cộng đồng.
Hơn nữa, giáo dục ý thức pháp luật không chỉ giúp sinh viên hiểu
rõ về quy định pháp luật mà cịn khuyến khích họ thực hành và tn thủ
các nguyên tắc đạo đức pháp luật. Sự nhất quán giữa triết học Mác-Lenin

và việc giáo dục ý thức pháp luật là chìa khóa để sinh viên có thể đóng
góp tích cực vào xã hội, xây dựng một cộng đồng công bằng và phồn
thịnh. Đồng thời, nó cũng là nền tảng để hình thành những thế hệ người
trí thức với ý thức và trách nhiệm xã hội, đồng lòng xây dựng một tương
lai tốt đẹp hơn cho cả xã hội chúng ta.


D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình triết học Mác- Lênin (Dành cho
bậc đại học hệ khơng chun lý luận chính trị), Chính trị Quốc gia Sự
thật, 2021.

2. Hồ Chí Minh tồn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2000.
3. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
4. C.Mác và Ph.Ăng-ghen : Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1993, t 23, tr 175.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
7. Trần Ngọc Liêu (2013), Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
Nhà nước với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Thanh tra Việt Nam, TS. Trần Văn Duy, bài viết: “Sự cần thiết tăng
cường hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh viên”,
2023.




×