MỞ ĐẦU
Vào thời Xuân thu-Chiến quốc, ở Trung Quốc bắt đầu bước vào
thời kỳ quá độ từ chế độ Chiếm hữu nô lệ sang chế độ Phong kiến. Bước
quá độ này, diễn ra trên nhiều mặt như: quá độ về kinh tế, quá độ về
chính trị-tư tưởng, quá độ từ lãnh chúa phân quyền đến chế độ phong
kiến Trung ương tập quyền. Cứ theo lịch sử Trung Hoa cổ đại chỉ ra thì
thời kỳ này xuất hiện sự thay đổi các quan hệ sản xuất trong phương thức
Chiếm hữu nô lệ, đã bắt đầu dẫn đến sự thay đổi kiến trúc thượng tầng
của xã hội, một loạt những học thuyết khác nhau ra đời kèm theo đó là
những luật lệ, phép tắc khác nhau được giai cấp chủ nô quý tộc ban hành
nhằm duy trì địa vị của mình. Đồng thời với quá trình thực hiện bước quá
độ này thì giai cấp thống trị lại cịn thơng qua các cuộc chiến tranh liên
miên, kéo dài hàng mấy trăm năm. Chiến tranh đưa lại nhiều đau khổ cho
người dân. Sinh mệnh con người, sự giáo dục con người, đạo đức con
người, điều kiện để quản lý con người ... luôn luôn là những vấn đề bức
xúc của xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ.
Do đó, đây là thời kỳ xuất hiện rất nhiều các trào lưu tư tưởng triết
học và chính trị-xã hội ở Trung Quốc. Đây là thời kỳ mà các học thuyết
đua nhau xuất hiện. Nổi lên là Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia.
Trong đó Nho gia là tiêu biểu hơn cả. Phải nói rằng, Nho giáo là học
thuyết triết học và chính trị-xã hội lớn nhất của Trung Quốc, đồng thời
cũng là học thuyết lớn nhất của Phương Đông. Nho giáo đã đề cập đến
nhiều phương diện của khoa học xã hội, khoa học nhân văn và cả khoa
học tự nhiên. Nhưng nổi lên trong đó là vấn đề về đạo đức xã hội, đặc
biệt là vấn đề về lòng Nhân.
1
Người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử. Khổng Tử là nhà tư
tưởng tiêu biểu nhất của giai đoạn này, bằng đức độ và tài năng của mình
ơng đã xây dựng nên học thuyết về phạm trù Nhân. Phạm trù nhân của
Khổng Tử chứa đựng một nội dung rất lớn, hầu như mọi cuốn sách về
lịch sử triết học Trung Quốc đều ít nhiều có đề cập đến. Chính vì thế mà
phạm trù Nhân được xem là phạm trù đã đặt cơ sở cho Chủ nghĩa nhân
đạo không chỉ đối với Trung Quốc cổ đại mà còn với cả Phương Đơng,
trong đó khơng thể loại trừ Việt Nam chúng ta. Vậy nên, một đề tài
nghiên cứu về phạm trù Nhân hiện nay là một việc làm cấp thiết, nó
khơng chỉ có lợi cho sự hiểu biết về đức Nhân của Nho giáo mà cịn có
lợi trong việc tìm hiểu sự kế thừa quan điểm này ở Việt Nam như thế nào
trong sự nghiệp trồng người để xây dựng con người mới Xã hội Chủ
nghĩa.
Sỡ dĩ như vậy là do thực tế cho thấy chúng ta đang sống trong một
thời đại mà trên lĩnh vực tư tưởng, sự nối tiếp giữa quá khứ với hiện tại,
sự giao lưu giữa Đông và Tây trở nên cấp thiết. Vậy nên, việc dánh giá
lại những giá trị của Nho giáo nói chung và phạm trù Nhân của Khổng Tử
nói riêng trong lịch sử tư tưởng và ảnh hưởng của nó, sự kế thừa những
yếu tố tích cực trên cơ sở có chọn lọc của Đảng và Nhà nước ta trong xã
hội ngày nay có một ý nghĩa rất to lớn.
2
Thật ra phạm trù Nhân của Khổng Tử đã có những ảnh hưởng rất
sâu sắc trong xã hội Việt Nam chúng ta. Nhưng sự đánh giá về phạm trù
Nhân này ở mỗi thời đại, ở mỗi thời kỳ lịch sử, ở mỗi tác giả là hoàn toàn
khác nhau. Sự đánh giá này cũng biểu hiện ở sự đánh giá của các tầng
lớp, giai cấp khác nhau trong xã hội. Có lúc nó được ca ngợi đưa lên đến
tận mây xanh. Nhưng cũng có lúc bị hạ nhục đến ê chề. Cũng có những
quan điểm vừa phê phán vừa ca ngợi, chỉ ra những hạn chế, những tích
cực về phạm trù Nhân của Nho giáo đối với đời sống xã hội, nhất là cuối
giữa thế kỷ XX đến nay.
I. Lý do chọn đề tài :
Với những điều đã trình bày ở trên chúng ta thấy rằng nói gì thì
nói, chúng ta không thể phủ nhận được việc những quan niệm của Nho
giáo đã từng trở thành tư tưởng thống trị ở Việt Nam từ thế kỷ XIV đến
thế kỷ XIX. Với chừng đó thời gian thì cho đến nay mặc dù chế độ phong
kiến khơng cịn tồn tại ở Việt Nam nữa, nhưng những ảnh hưởng của Nho
giáo vẫn ít nhiều còn tồn tại trong tư tưởng cư dân Việt Nam, nhất là
phạm trù Nhân trong tư tưởng triết học ấy. Chính lẽ đó, hiện nay càng cần
phải có sự đánh giá khách quan, khoa học về những mặt mạnh, mặt yếu
của Nho giáo nói chung, phạm trù Nhân của nó nói riêng. Đây là việc làm
cần thiết, nó mang ý nghĩa thiết thực trong việc góp phần xây dựng hệ
thống đạo đức mới, đặc biệt là ở sự nghiệp trồng người ở Việt Nam hiện
nay.
Đấy cũng chính là lý do mà người viết chọn tên đề tài nghiên cứu
cho luận văn tốt nghiệp của mình là: “Phạm trù Nhân của Khổng Tử với
sự nghiệp trồng người ở Việt Nam hiện nay“.
3
Mặc dầu đã là sinh viên sắp tốt nghiệp, nhưng đứng trước một đề
tài khó và rộng như thế này, quả thật tác giả cũng rất ái ngại. Nhưng được
sự động viên của q thầy cơ, gia đình, bạn bè và đặc biệt là sự giúp đỡ
trực tiếp và tận tình của thầy hướng dẫn, tác giả đã mạnh dạn thực hiện đề
tài với mong muốn được hiểu biết thêm về đức Nhân của Khổng Tử, để
từ đó góp tiếng nói chung với những ai quan tâm đến học thuyết của
Khổng Tử, đặc biệt là phạm trù Nhân của ông trong đời sống xã hội Việt
Nam hiện tại.
II.
Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn:
Tác giả chọn phạm trù Nhân của Khổng Tử và mối quan hệ của nó
đối với sự nghiệp trồng người ở Việt Nam hiện nay làm đối tượng nghiên
cứu. Từ đó thực hiện mục đích của việc nghiên cứu là nhằm nêu lên được
một cách khái quát về nội dung của phạm trù Nhân của Khổng Tử và sự
góp mặt của nó trong sự nghiệp trồng người ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả phải nghiên cứu các
tài liệu hiện có về phạm trù Nhân của Khổng Tử nói riêng và của Nho
giáo nói chung. Đặc biệt là tập trung nghiên cứu thực hiện các nhiệm vụ
sau:
1. Nêu lên một cách khái quát phạm trù Nhân của Khổng Tử.
2. Chỉ ra một số nét đặc trưng tích cực và hạn chế của phạm trù
Nhân trong triết học Khổng Tử.
3. Chỉ ra trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam, trong cơ sở nền
tảng tư tưởng của mình có chọn lọc, kế thừa nhân tố tích cực
phạm trù Nhân của Khổng Tử.
4. Chỉ ra sự góp mặt của phạm trù Nhân trong sự nghiệp trồng
người ở Việt Nam hiện nay.
III. Cơ sở lý luận:
4
Cơ sở lý luận của luận văn này là lập trường quan điểm của Chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Đường lối quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về tơn giáo và về tính nhân văn xã hội mới. Đặc
biệt là quan điểm của Bác khi khái quát về triết lý cuộc sống: “Nghĩ cho
cùng, vấn đề tư pháp cũng như mọi vấn đề khác là vấn đề ở đời và làm
người. Ở đời và làm người phải thương nước, thương dân,thương nhân
loại bị đau khổ, áp bức.”***
IV.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp xuyên suốt là biện chứng duy vật, phương pháp luận
của lịch sử triết học mác-xít về lịch sử triết học phương Đơng, trong đó
tác giả chú trọng kết hợp phương pháp logic với lịch sử, phân tích với
tổng hợp, quan điểm tồn diện kết hợp lịch sử cụ thể và phát triển, đối
chiếu với so sánh...
Từ đó thơng qua các tài liệu mà tác giả hiện có về Khổng Tử và các
vấn đề có liên quan đến phạm trù Nhân của ơng để thực hiện luận văn.
Tác giả luận văn cũng sử dụng một số các đánh giá của các nhà khoa học
mác-xít về Nho giáo xem đó như là kim chỉ nam cho luận văn của mình.
V. Ý nghĩa thực tiễn của Luận văn:
a. Về lý luận, Luận văn góp phần làm sáng tỏ những hạn chế
và tích cực trong phạm trù Nhân của Khổng Tử trong đời
sống xã hội hiện đại.
b. Về thực tiễn, Luận văn góp phần vào việc chỉ ra sự góp mặt
những giá trị của phạm trù Nhân của Khổng Tử trong sự
nghiệp trồng người ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo cho các sinh viên
khóa sau dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu về Nho giáo ở Trung
Quốc cổ đại nói riêng và Lịch sử triết học Trung Quốc nói chung.
5
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đề tài, do còn hạn chế về kiến thức,
hạn chế về tài liệu tham khảo, hạn chế về thời gian thực hiện đề tài và
những điều kiện khách quan khác, tác giả không thể khơng vấp phải những
thiếu sót nhất định. Tác giả rất kính mong nhận được sự góp ý chân thành
của quý thầy cô giáo, các bạn sinh viên và các đọc giả để việc nghiên cứu
của tác giả ngày càng tốt hơn.
VI.
Kết cấu của Luận văn:
Về kết cấu của Luận văn, ngoài phần dẫn nhập, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn có 2 chương và 5 tiết như sau:
Chương 1: Khổng Tử với Phạm trù Nhân.
1.1.
Khái lược về tiểu sử và việc xây dựng học thuyết của Khổng
Tử.
1.2.
Phạm trù Nhân trong hệ thống tư tưởng của Khổng Tử.
Chương 2: Phạm trù Nhân của Khổng Tử với sự nghiệp trồng người
ở Việt Nam hiện nay.
II.1. Khái quát về sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam.
II.2. Việt Nam trên đường đổi mới với việc chọn lọc, kế thừa phạm
trù Nhân của Khổng Tử.
II.3. Sự góp mặt của phạm trù Nhân trong sự nghiệp trồng người ở
Việt Nam hiện nay.
PHầN NộI DUNG
Chương 1: Khổng Tử với phạm trù Nhân.
1.1
Khái lược về tiểu sử và việc xây dựng học thuyết của
Khổng Tử.
Nho giáo là học thuyết triết học lớn của Trung Hoa do Khổng Tử
sáng lập, là một học thuyết triết học mang tính đặc thù riêng so với các
học thuyết cùng thời không chỉ về nội dung mà còn được thể hiện ra
6
trong cả lịch sử phát triển của nó. Nếu như các học phái triết học khác
chủ yếu phát triển dừng lại ở thời kỳ Cổ Đại thì ở Nho giáo lại có lịch sử
phát triển xuyên suốt hơn 2500 năm qua.
Khổng Tử sinh vào mùa đông Tháng Mười năm Canh Tuất, là năm
thứ hai mươi mốt đời vua Linh Vương nhà Chu, tức là vào năm 551 tcn.
Ông mất năm 479 tcn. Mẹ của Ngài là bà Nhan Thị. Khi mang thai ơng,
bà có lên cầu tự trên núi Ni Khâu, nên khi sinh ngài, nhân điềm ấy mà bà
đã đặt tên cho Khổng Tử là Khâu, tên tự là Trọng Ni. Có sách cịn chép
rằng do trán Ngài khi mới sinh ra cao và gồ lên cho nên mới đặt tên là
Khâu. Khâu có nghĩa là cái gị. Theo Sử ký Tư Mã Thiên cha của Ngài là
Thúc Lương Ngột, là một vị quan nhỏ. Cha ơng có ba người vợ. Mẹ của
Khổng Tử là người vợ thứ ba được cha ông cưới vào năm 60 tuổi. Cứ
theo truyện chép trong chính sử thì khi Khổng Tử lên ba tuổi, thân phụ
của ông qua đời. Mặc dù gia cảnh lâm vào khó khăn nhưng mẹ của
Khổng Tử vẫn tạo điều kiện cho Khổng Tử ăn học nên người.
Năm mười chín tuổi, Khổng Tử cưới vợ. Đến năm 23 tuổi bắt đầu
ra nhận chức làm quan Uỷ lại coi sự gạt thóc ở kho, sau làm T ư chức lại
coi việc ni bị, dê để dùng vào việc cúng tế. Lúc ơng hai tám, hai chín
tuổi, ơng muốn đi đến học ở Lạc ấp (kinh sư nhà Chu), nhưng vì đường
xa, tiền lộ phí mất nhiều nên khơng đi được. Biết chuyện, một học trị của
ơng đã đem chuyện ấy bẩm với vua nước Lỗ là Lỗ Hầu. Lỗ Hầu đã cho
một cỗ xe với hai con ngựa kéo và những người hầu hạ đưa ơng đi. Ơng
đến đó khảo cứu mọi việc và đi xem những chế độ ở nơi miếu đường
cùng những nơi ở tế Giao, tế Xã. Ơ đâu có việc gì quan hệ đến việc tế lễ
ơng đều xem xét rất tường tận. Ơng cịn đi đến để hỏi lễ Lão Tử, hỏi nhạc
Trành Hoằng.
7
Khổng Tử ở Lạc ấp được ít lâu thì trở về lại nước Lỗ. Từ đó sự học
của ơng ngày càng rộng hơn trước, học trị theo học ơng cũng ngày càng
nhiều hơn, nhưng cho đến lúc này vua nước Lỗ vẫn không dùng ông.
Khổng Tử sinh ra vào thời đại mà như Khổng Tử đã viết là: “Quân
bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử”(1), là thời kỳ mà Vương
đạo suy vi, trật tự kỷ cương lỏng lẻo, đạo đức suy đồi. Từ đó Khổng Tử
muốn đem tài trí của mình ra để giúp vua lập lại trật tự kỷ cương, ổn định
xã hội, tìm ra phương pháp để cứu người, cứu đời. Nhưng ban đầu vua
nước Lỗ vẫn chưa tin dụng ông. Mãi cho đến khi Khổng Tử năm mươi ba
tuổi, vua Đình Cơng nước Lỗ mới sử dụng ông. Chức đầu tiên mà ông
được giao là Trung đô tể (quan cai quản ấp Trung đô). Một năm sau ông
được cải chức làm Đại tư khấu (quan nội vụ coi về hình bộ thượng thư).
Ơng đã đặt ra nhiều luật lệ để cứu giúp những người nghèo khổ, đồng
thời lập ra nhiều phép tắc khác như định rõ việc tống táng người chết, lớn
nhỏ phân biệt, gái trai không lẫn lộn, đi đường thấy của rơi khơng nhặt...
Ơng xây dựng một xã hội khơng có kẻ gian phi, hình pháp xã hội đặt ra
khơng cần dùng đến. Làm Đại tư khấu được bốn năm thì ông được cất
nhắc lên làm nhiếp tướng bộ. Theo sử cũ chép thì chỉ trong bốn năm tham
chính, Khổng Tử đã trừng trị bọn gian thần, nịnh thần, tập hợp được
nhiều người hiền tài, chấn hưng nền chính trị nước Lỗ, nước Lỗ trở thành
nước phát triển cường thịnh ở thời kỳ đó.
Sau này vì một bất bình nhỏ với vua nước Lỗ, ông bỏ sang nước
Vệ, ở nước Vệ được mười tháng. Vua nước Vệ khơng dùng. Ơng định
sang nước Trần, nhưng đến đất Khuông, người nước ấy nhận lầm ông là
Dương Hổ (một người tàn bạo) đã đem quân ra đánh. Mặc dù sự hiểu lầm
cuối cùng đã được giải quyết nhưng vì sự ngăn trở ấy nên ông về lại nước
Vệ. Ơ nước Vệ một thời gian ông sang ở nước Tống. Bị quan Tư Mã
nước Tống là Hồn Khơi muốn giết ơng nên ơng lại bỏ sang nước Trần. Ơ
8
nước Trần Được ba năm, mặc dù được trọng đãi nhưng nước ấy bị giặc
giã luôn nên ông lại trở về nước Vệ. Thấy vua nước Vệ vẫn khơng có ý
dùng, ông lại bỏ sang nước Trần một lần nữa. Được ít lâu sau ơng lại bỏ
sang nước Thái. Khi đi ngang qua nước Diệp, vua nước Sở cho người qua
đón và định phong cho ơng 700 dặm đất nhưng lại bị lệnh dỗn là Tử Tây
can ngăn, ơng lại trở về nước Vệ. Ở nước Vệ được 6 năm thì Q Tơn
Phi ở nước Lỗ cho người sang đón ông về, lúc này ngàI đã được 68 tuổi.
Vì đã già, không cầu ra làm quan nữa nên ông ở nhà dạy học và san định
các sách vở đời trước như Kinh dịch, Kinh thi, Kinh thư, Kinh lễ, Kinh
nhạc và làm sách Xuân Thu.
Các sách này được gọi chung là “Lục nghệ“, có nghĩa là sách 6
nghề, tức là sáu nghề tự do, nhưng chúng thường được hiểu là sáu kinh.
- Kinh Dịch là sách được Nho gia giải thích như một pho sách siêu
hình học nhằm nêu lên sự biến đổi của vũ trụ và nhân sinh nhưng kỳ thực
là sách dùng để bói.
- Kinh Thi là sách bao gồm các bài thơ ca dân gian đã được lưu
truyền trong lịch sử Trung Quốc. Khổng Tử đánh giá cao vai trị của Kinh
Thi là “Bất học Thi vơ dĩ ngơn”. Có nghĩa là: nếu khơng học Kinh Thi
thì khơng có gì để mà nói.(2)
Theo Khổng Tử nếu học được Kinh Thi thì sẽ phát huy được khả
năng liên tưởng, nâng cao được năng lực quan sát, rèn luyện được tính
hợp quần, học được cách châm biếm phúng thích.
- Kinh Thư: Khổng Tử đã chu du gần như khắp các nước ở thời
Xuân Thu, ông đã đọc và nghiên cứu Thi Thư của tất cả các nước ấy.
Trên cơ sở đó ơng hệ thống hố lại thành Kinh Thư của mình. Đây là bộ
Kinh dạy về phương pháp đối nhân xử thế, đường lối trị nước của các bậc
đế vương thời kỳ trước.
- Kinh Lễ: Được chia thành ba phần:
9
. Chu lễ: Ghi về sự tổ chức bộ máy hành chính của nhà Tây Chu.
. Nghi lễ: Ghi về những quy phạm đạo đức, lễ nghĩa, sự ứng xử
giữa người với người.
. Lễ ký: Là phần luận bàn về phần lễ nói chung.
- Kinh Xuân Thu: Là bộ kinh sử, nó được xem là bộ sử có tính chất
hệ thống lịch sử đầu tiên của Trung Quốc. Khổng Tử chép Lịch sử của
nước Lỗ từ đời vua Lỗ ẩn Công (năm 722 tcn) đến đời vua Lỗ Ai Công
(năm 480 tcn).
- Kinh Nhạc: Được biết là sách chép về nhã nhạc nhưng vì bị thất
lạc nên khơng đi vào chi tiết.
Trong sáu sách trên, Khổng Tử là người có cơng trứ tác kinh Xn
Thu, chú giải Kinh dịch, đính chính và san định các kinh cịn lại là kinh
Lễ, kinh Nhạc, kinhThi, kinh Thư. Tất cả sáu kinh theo Khổng Tử đều
thống nhất làm một để trị nước.
Việc trứ tác, chú giảI và san định các sách là do nhu cầu bức bách
của xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ đang bước vào thời kỳ quá độ từ xã
hội Chiếm hữu nô lệ sang xã hội Phong kiến. Xã hội Chiếm hữu nô lệ là
xã hội mà các quan hệ xã hội còn rất đơn giản. Bước sang xã hội Phong
kiến thì các quan hệ xã trở nên phức tạp hơn cùng với các điều kiện xã
hội cũng phức tạp hơn.
Khổng Tử đã tri kiến vấn đề đó và với lương tâm của mình, ơng
muốn xây dựng chủ thuyết về đạo đức, chính trị, xã hội. Đồng thời thơng
qua giáo dục để đưa chủ thuyết đó vào đời sống xã hội. Có thể nói rằng,
Khổng giáo cổ đại là học thuyết triết học hay nói cách khác là triết lý về
sự tổ chức xã hội, về sự suy luận trước sau dựa trên tri kiến để thực hiện.
Khổng Tử đã đem lại cho lịch sử Trung Quốc một hệ thống giáo dục chặt
chẽ và những quy tắc lễ nghĩa nghiêm ngặt, đặc biệt ơng cịn xây dựng
một hệ thống quy phạm đạo đức làm nền tảng cho giai đoạn Phong kiến
10
Trung Quốc với những quan hệ xã hội phức tạp để nhằm giữ tôn ti trật tự
từ trong nhà, đến làng xã, đến nước, đến thiên hạ và xây dựng một xã hội
“quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử ”.(3)
1.2
Phạm trù Nhân trong hệ thống tư tưởng của Khổng Tử.
Đóng góp nổi bật nhất trong triết học của Khổng Tử là lý luận về
xã hội và chính trị. Trên cơ sở nhu cầu của xã hội Trung Quốc về việc
chuyển giao giữa hai hình thái xã hội mà Khổng Tử trực tiếp quan sát
được, Khổng Tử mong muốn xây dựng một học thuyết để giúp vua lập lại
trật tự kỷ cương cho một xã hội lý tưởng, một xã hội mà ở đó có những
con người mẫu mực, mọi người phải sống và làm tròn hết những bổn
phận của mình. Thực chất của những bổn phận kia là “thương người”, nội
dung cốt lõi của phạm trù “nhân”.
1.2.1 Những nội dung cơ bản của phạm trù Nhân của Khổng Tử .
Điều “nhân” là hạt nhân cơ bản trong học thuyết chính trị của
Khổng Tử. Trong Luận ngữ (một kinh điển của Nho gia) Khổng Tử đã
nhắc đến 104 lần chữ “nhân”. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, chữ “nhân”
đó khơng chỉ riêng cho một đức tính nào mà chỉ chung cho mọi đức tính.
Người có “nhân” là người hồn thiện nhất, do đó chúng ta có thể hiểu
“nhân” theo nghĩa rộng nhất là đạo làm người, là cách cư xử với mình và
cách cư xử với người. “Nhân” là mục đích cao nhất của sự tu dưỡng đạo
đức. Kẽ sĩ khơng vì sống mà hại điều “nhân”, có khi cịn lấy cái chết để
làm điều “nhân”; Phải luôn nuôi dưỡng đức “nhân” với tất cả sự hăm hở.
“Nhân” là khái niện xuất hiện trước thời Xuân Thu. Khái niệm “nhân”
này đặt vấn đề quan hệ con người với nhau trên cơ sở coi con người với
đúng tư cách là con người lúc đó. Đây là ý niệm mới bởi vì đến thời Tây
Chu mới có sự phân biệt gĩưa con người tự nhiên và con người xã hội. Sở
dĩ mãi cho đến lúc này mới có sự phân biệt trên là vì do từ chỗ con người
sống trong quan hệ tông tộc trên dưới. cho nên để khái niệm về con người
11
được xác định không phải dễ dàng mà phải qua đấu tranh lâu dài đến mấy
thế kỷ mới có được.
Theo Khổng Tử, bản tính con người khi sinh ra đều giống nhau,
đều là tính thiện “ Nhân chi sơ tính bản thiện” ( 4 ) nhưng do các tập
nhiễm xã hội mà họ trở nên xa nhau hơn và làm cho họ khác nhau; rằng ở
con người có một cái gì đó làm nên nhân cách khơng thể phá bỏ được,
điều này có nghĩa là sự thừa nhận nhân cách cá tính, ý hướng độc lập của
con người. Mặt khác , thì Khổng Tử khẳng định cái đức lớn của trời đất là
sự sinh, thì theo đó đạo người phải theo đạo trời đất mà bồi dưỡng sự sinh
ấy. Đạo người bao gồm bốn đức : Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí, như vậy chúng ta
thấy rằng Nhân là đạo đứng đầu các đức thiện ấy. Ngồi ra về mặt văn tự
thì chữ Nhân của Khổng Tử cũng có một hàm ý rất sâu xa và mang ý
nghĩa cao. Theo cụ Phan Bội Châu đánh giá thì :
“Chữ Nhân (
nét ngang nhau (
), bên tả là chữ “nhân đứng “ (
), bên hữu là hai
), có ý nghĩa rằng cái giống để làm người tức là Nhân,
mà ai nấy cũng bình đẳng như nhau. Cịn ví như hạt mộng các thức trái ta
cũng gọi bằng Nhân ... thì xem đó chúng ta thời khơng hiểu được chữ
Nhân kia rồi.” (5)
Còn theo Trần Trọng Kim trong quyển “Nho giáo xưa và nay” thì :
“Chữ Nhân” (
chữ nhị (
) được hợp lại là một chữ hội ý từ chữ nhân (
) và
) , nghĩa là nói cái thể và cái đức chung của mọi người đều
có với nhau như một . Bởi vậy hiểu rõ nghĩa chữ Nhân, thì hiểu rõ cáI
tơng chỉ nhất thể của Khổng giáo.”(6 )
Vậy thế nào là Nhân ?
Theo Khổng Tử người có Nhân trước hết phải làm những việc khó
sau đó mới hưởng các thành quả mới có thể gọi là Nhân; người Nhân còn
là Người sẵn sàng vui vẻ sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù là vinh hoa
hay nghèo đói; là người biết tự kiềm chế được mình để tuân theo các quy
12
phạm xã hội, để vững vàng trước mọi thử thách của cuộc đời. Có thể nói
rằng chữ Nhân của Khổng Tử khơng được Khổng Tử nói nó bao gồm
những nội dung gì. Nhưng khi được hỏi về Nhân thì Khổng Tử tùy thuộc
vào hoàn cảnh, vào tư cách và học lực của mỗi người để trả lời cho phù
hợp và những lời giải thích đó hồn tồn khác nhau.
Với Nhan Tử, Khổng Tử đã dạy rằng phải trị hết cái bệnh tư dục
của mình là khắc kỷ, hồi phục cho được cái chân lý của trời là phục lễ thế
mới là Nhân.
“Khắc kỷ phục lễ vi nhân”(7)
(Tự sữa mình theo nghĩa là Nhân)
Theo Khổng Tử thì đã sữa được mình theo lễ tức đức Nhân trong
mình sẽ được trau dồi và hồn thiện. Và việc chúng ta có thể trở thành có
nhân hay khơng, khơng phải nhờ cậy vào ai mà lịng Nhân vốn dĩ đã được
trời phú cho mình, đức Nhân sẵn có trong lịng mình do đó việc có trở
thành người có Nhân hay khơng là do mình chứ khơng do ai khác. Nhân
như thế nào thì được gọi là khắc được kỷ, phục được lễ ? Theo Khổng Tử
thì nhãn, khẩu, nhĩ, thân là kỷ, muốn khắc được kỷ thì phải chính, hễ cái
gì khơng đúng với lẽ trời tức là phi lễ, đã phi lễ thì sẽ rơi vào tư dục. Để
khắc kỷ, phục lễ thì không chiều theo tư dục. Khổng Tử cho dục vọng
con người là tự nhiên, ông không chủ trương diệt dục mà trái lại thừa
nhận nó, nhưng phải lấy lễ để quy định nó, tức là thừa nhận nó trong
phạm vi của lễ, khi trái lễ phải chống lại. Và theo Khổng Tử thì quá trình
“khắc kỷ phục lễ phải đến tuổi bảy mươi mới thành đấy là quá trình theo
lễ một cách tự nhiên. Ở đây Khổng Tử đã đem Nhân vào làm nội dung
cho lễ, coi lễ là biểu hiện của Nhân, Nhân không phải quy định mà phải
được quán triệt vào nội dung bên trong của lễ và lấy lễ để ước thúc Nhân.
Do vậy, Khổng Tử đã khun rằng:
“Sắc chi khơng phảI lễ thì đừng nhìn
13
Tiếng chi khơng hợp lễ thì đừng nghe
Lời chi khơng hợp lễ thì đừng nói
Việc chi khơng hợp lễ thì đừng làm”(8)
Qua đó chúng ta thấy rằng việc muốn trở thành người có Nhân là
do mình làm lấy, nếu như ta khơng tận tâm thì dẫu có nhiều thầy hiền,
đơng bạn tốt đến mấy cũng không thể trở thành người có Nhân được.
Nhân hay khơng Nhân phải bàn đến động cơ và công phu tu dưỡng.
Người làm đIều Nhân phảI ln giữ mình trung tín, cung kính, nói năng
thận trọng. Cơng phu ấy có tính chất hướng nội, khơng lo buồn. Tuy làm
đIều Nhân là việc mang tính hướng nội nhưng phải biết nhìn đến hiệu
quả, nếu có tâm mong thành Nhân thì mới có Nhân được.
“Nhân viên hồ tai? Ngã dục Nhân, tư Nhân chí hỷ”(9)
(Đức Nhân đó có xa xi gì đâu, hễ trong lịng ta hăng hái việc
Nhân thì Nhân tức khắc đến ngay)
Đối với Khổng Tử người có Nhân phải là người biết yêu thương
người khác. Khi Phàn Trì hỏi về Nhân, ngài chỉ nói rằng đó là “ái nhân”
(u người). Để giải thích cho điều này thì Khổng Tử đã dạy rằng người
có Nhân phải là người muốn tự lập lấy mình thì phả lo lập cho người,
muốn mình thành đạt thì cũng phải mong cho người thành đạt. Chung quy
lại, muốn làm điều gì cho mình thì phải nghĩ cho người trước, ứng xử với
mình như thế nào thì ứng xử với người như thế đó.
“Kỷ dục lập nhi lập Nhân
Kỷ dục đạt nhi đạt Nhân”(10)
Theo Khổng Tử đã là người Nhân, trọn đời phải theo chữ “thứ”, có
nghĩa là điều gì mình khơng muốn người làm cho mình thì mình đừng
làm cho người. Ngồi ra khi nói đến Nhân là nói đến hành động của con
người ta, các hành động đó phải hợp với Thiên mệnh và phải bỏ hết tư
14
tâm tư ý để từ đó khiến cho đối với mình cũng như đối với người lúc nào
cũng kính cẩn và thân ái như một vậy.
“Kỷ sở bất dục vật thi ư Nhân”(11)
Kẻ có Nhân là người tình cảm chân thực, hết lịng vì nghĩa. Vậy
nên chữ Nhân của Khổng Tử hàm cả ý của chữ “ái”. Vì có Nhân mới có
ái, có ái mới có lịng thương người u vật; muốn cho vạn vật lúc nào
cũng được vui sướng mà sống ở đời. Nhờ có lịng Nhân nên con người ta
mới hợp quần với nhau, mới có lịng bác ái, mới coi nhau như anh em
một nhà, xem tập thể như một người, xem thiên hạ như một nhất thể. Vậy
nên đã là Nhân thì yêu người, yêu vật; lịng u thương ấy đều xuất phát
từ tự nhiên, khơng có sự miễn cưỡng chút nào và phẩm chất chất phát,
tình cảm chân thực là đIều kiện cần thiết để trau dồi đức Nhân.
“Mộc nột cận Nhân”(12)
Cịn những người thích trau chuốt, hình thức nói năng đưa đẩy,
thay đổi sắc mặt, quá khéo léo là những người ít đức Nhân.
“Xão ngơn lệnh, sắc tiễn hỷ Nhân”(13)
Khổng Tử cịn cho rằng nếu tâm của con người ln hướng về
Nhân thì khơng bao giờ con người nghĩ đến chuyện phản loạn, do vậy sẽ
khơng nói bậy và khơng làm việc ác. Đối với những người cầm quyền thì
đức Nhân là thành trì để giữ gìn và bảo vệ những gì họ đã đạt được. Tuy
nhiên do hạn chế của lập trường giai cấp, học thuyết Nhân của Khổng Tử
có nội dung rất rõ ràng. Ơng cho rằng chỉ có người qn tử (tức giai cấp
thống trị) mới có thể có được đức Nhân, cịn kẻ tiểu Nhân (nhân dân lao
động) thì khơng thể có được đức Nhân ấy.
“Quân tử nhi bất Nhân giả hữu hĩ
Vị hữu tiểu nhân, nhi nhân giả dã”(14)
Như vậy đạo Nhân chỉ là đạo của người quân tử, của giai cấp thống
trị. Do đó, theo quan niệm của Khổng Tử thì Nhân là đạo cao nhất, rộng
15
nhất của đạo làm người mà trước hết thì bậc quân tử phải hội nhập được.
Tuy nhiên người có Nhân phải là người có trí, có thể có người trí mà
khơng có Nhân chứ khơng thể có người có Nhân mà khơng có trí. Nhưng
theo Khổng Tử trí khơng phảI tự nhiên mà có, mà muốn có trí thì phải
qua học tập, tu dưỡng, với Khổng Tử việc học tập, tu dưỡng không phải
là một sớm một chiều mà phải lâu dài và bền bỉ.
“Hiếu học cận hồ tri”(15)
(Ham học hỏi bao nhiêu thì gần với tri thức, với hiểu biết bấy
nhiêu)
Khi nói đến đức Nhân của người quân tử, Khổng Tử cịn nói rằng:
“Qn Tử vơ chung thực chi gian vi Nhân,
tháo thứ tất ư thị, điên bái tức ư thị”(16)
Ở đây, Khổng Tử muốn nói rằng người quân tử ngay trong bữa ăn
cũng không trái với Nhân, vội vàng cũng phải theo Nhân, hoạn nạn cũng
phải theo Nhân, vậy bao nhiêu việc, bao nhiêu hành vi đạo đức căn bản
điều từ Nhân mà ra cả.
Qua đó, chúng ta thấy rằng Nhân trong triết học của Khổng Tử
được xem là sự thăng hoa về triết học của con người. Triết học Nhân sinh
trong triết học của Khổng Tử bao hàm một nội dung rất rộng. Phạm trù
Nhân của Khổng Tử nó chi phối đến tất cả các hoạt động của đời sống xã
hội. Nhân là một thể yên lặng như núi, bao nhiêu đức tín khác điều bởi đó
mà sinh ra. Trong cái thể yên tĩnh ấy có cái tính sáng suốt, cái đức mạnh
mẽ, có điều gì cũng biết rõ ràng ngay, nhờ đó mà việc làm được điều tiết
thích hợp với Thiên mệnh tự nhiên. Nhân là cái gốc lớn của sự sinh hóa
trong trời đất. Thế gian nhờ đó mà đứng, vạn vật nhờ đó mà sinh, quốc
gia nhờ đó mà cịn, lễ nghĩa nhờ đó mà phát hiện ra. Vì thế mà Nhân
được xem là tư tưởng cốt lõi trong quan niệm về Triết học con người của
Khổng Tử.
16
“Nhân giả Nhân dã”(17)
(Kẻ có Nhân thì u con người)
Muốn trở thành người có lịng Nhân thì đối với mọi người phảI
thực hiện cho được năm điều là Cung (cung kính), Khoan (độ lượng), Tín
(giữ lời hứa), Mẫn (siêng năng) và Huệ (làm lợi cho người khác). Sở dĩ
phải thực hiện cho được năm điều ấy là vì cung kính thì khơng bị khinh
nhờn, khoan hậu thì được lịng mọi người, thành tín thì được người ta tín
nhiệm, cần mẫn thì thành cơng cịn tư huệ thì sử dụng được người.
Trong gia đình Nhân là hiếu đễ; đối với ơng bà, cha mẹ, anh chị thì
phải hiếu; đối với bậc ngang hàng thì phải đễ. Hiếu đễ là gốc của đức
Nhân, khiến cho người ta bao giờ cũng có đầy những tình cảm rất hậu và
thành thực. Bởi vì có lịng u kính cha mẹ và mọi người trong gia đình
thì mới biết u thương người ngồi, mới có lịng từ ái và trung thứ được.
Nếu ở với cha mẹ mà khơng hiếu thảo, ở với anh em khơng kính thuận,
tức là tình cảm của ta rất bạc như thế thì làm sao có thể trở thành người
Nhân được. Cịn đối với quốc gia thì Nhân là trung, nhờ có trung mà giữ
được uy quyền, đất nước thái bình thịnh trị, trên dưới một lòng chung
lưng đấu cật, xây dựng giang sơn.
Người Nhân còn là người biết yêu ghét một cách sáng suốt. Tuy
nhiên trong đó thì “ái nhân” là chủ yếu và sự yêu thương này cũng có
những mức độ khác nhau. Cũng từ quan niệm trên mà Khổng Tử chia
những người có đức Nhân ra thành bậc Thánh Nhân và bậc Nhân.
- Bậc thánh là những người thi ân bố đức cho khách dân gian và trợ
giúp cho dân chúng.
- Bậc Nhân là những người tín thiện đầy đủ và có mọi hành vi hợp
với ý lành.
Khi nói về người Nhân, Khổng Tử còn cho rằng những người có
Nhân thì có trực giác rất sáng suốt, nhìn đâu biết đấy, cái gì cũng thấy,
17
cái gì cũng hay thống một cái là đã có thể nắm bắt được chân lý, chứ
không phải theo lý trí để lần tìm từng mối một. Cịn với những người bất
Nhân thì trực giác mờ tối, do đó phải nhờ vào lý trí để suy tính, mà sự
suy tính này cũng chỉ nhằm vào những điều tư lợi mà thơi.
Qua việc trình bày một số nội dung cơ bản trên có thể thấy rằng,
phạm trù Nhân có nội dung khá phong phú, nó xâm nhập tất cả các lĩnh
vực của cuộc sống thời bấy giờ. Trong một chừng mực nhất định, tất
nhiên người viết khơng thể trình bày một cách đầy đủ và chi tiết hết toàn
bộ nội dung của nó nhưng với chừng ấy nội dung cũng đủ để chúng ta
nhận thấy rằng phạm trù Nhân của Khổng Tử là sự kết tinh rực rỡ nhất và
cũng là sự phản ánh rõ nét nhất sắc thái triết học của Khổng Tử _ Triết
học Nhân sinh.
1.2.2
Những ưu điểm và hạn chế về phạm trù nhân của
Khổng Tử.
Cùng với sự phân tích trên về phạm trù Nhân, có thể dễ dàng nhận
thấy một số ưu điểm và hạn chế của Khổng Tử. Tuy nhiên ở đây người
viết khơng có tham vọng đi sâu vào phân tích ảnh hưởng của những ưu
điểm và hạn chế ấy một cách toàn diện mà chỉ nêu một vài ví dụ để thấy
được những mặt tiêu cực và tích cực ấy mà thơi. Cụ thể như sau:
- Về mặt ưu điểm:
Đương thời Hồ Chủ tịch đã có nhận xét: “Học thuyết của Khổng Tử
có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân”.(18)
Quả đúng vậy thông qua việc hướng dẫn con người thực hiện đức
Nhân, trước hết, Khổng Tử đã chú ý đến việc tự khẳng định mình của mỗi
thành viên trong xã hội, nó cũng cho thấy một số quan điểm về tính tích
cực, về vai trị tự ý thức, tự giáo dục của chủ thể trong cuộc sống cộng
đồng. Nó hướng con người đến một thể giới đại đồng, ở đó con người
sống với nhau tràn ngập tình u thương, sự chia sẽ giúp đỡ lẫn nhau.
18
Đồng thời với đó là việc xác định những nguyên tắc trong quan hệ xã hội
đã thể hiện cái nhìn sâu sắc của Khổng Tử về sợi dây liên kết nội tại của
những con người cá thể với nhau, với gia đình và với xã hội. Với việc xây
dựng phạm trù Nhân trong học thuyết của mình đã phần nào khắc phục
được trật tự xã hội đường thời, cái trật tự mà “Quân bất quân, thần bất
thần, phụ bất phụ, tử bất tử”.
Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm đó thì khi bàn đến đIều Nhân
Khổng Tử khơng thể tránh khỏi những hạn chế. Nếu như đức Nhân đòi
hỏi con người phải qn chính bản thân mình để quay về với đạo lý
đương thời (Khắc kỷ, phục lễ) và nếu đức Nhân đòi hỏi mọi người phải
chấp nhận bất kỳ một hoàn cảnh nào để chỉ vui với cái cao cả nhất là đức
Nhân của mình thì chính điều Nhân đã khơng đem lại cuộc sống thái bình
một xã tắc an vui như Khổng Tử tưởng mà nó trở thành một sợi xích vơ
hình trói chặt và ràng buộc thần dân dưới sự thống trị của giai cấp cầm
quyền. Bởi theo Khổng Tử chỉ những người quân tử mới có đức Nhân
cịn kẻ tiểu nhân thì khơng có đức Nhân. Bậc qn tử ở đây khơng là ai
khác mà chính là những người nằm trong giai cấp thống trị (là số ít) cịn
kẻ tiểu nhân lại là số đơng bì trị _ là số đông nhân dân lao động của xã
hội Trung Hoa lúc bấy giờ.
Xét đến cùng thì đạo Nhân của Khổng Tử có tính chất là đem nhân
đạo đIều hồ với thiên đạo, làm cho đời người có cái vẻ ung dung thư
thái. Nhưng trong cái tính chất ấy nó đã làm cho đạo Nhân khơng trở nên
phổ biến được cho tuyệt đại đa số dân chúng, mà chỉ có một phần ít người
có tư cách đặc biệt mới tu được đến bậc nhân mà thôi, như vậy số đơng
dân chúng khơng tu thành bậc nhân thì trở thành kẻ bất nhân cả sao? Quả
thật, tuy là đạo thánh hiền hay thật nhưng không thi hành được khách
thiên hạ thì cũng vơ dụng mà thơi.
19
Mặc khác, với việc Khổng Tử thừa nhận người có Nhân suy nghĩ
bằng trực giác cịn người khơng có Nhân suy nghĩ bằng lý trí cũng là một
hạn chế của Khổng Tử. Như chúng ta đã biết, theo chủ nghĩa Marx Lénine nói riêng và chủ nghĩa Duy vật biện chứng nói chung _ là thế giới
quan và phương pháp luận khoa học nhất thì quá trình tư duy sẽ làm: “Từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận
thức thực tại khách quan”(19). Như vậy giữa trực giác và lý trí khơng hề
có sự tách biệt nào trong quá trình nhận thức, cùng với thực tiễn chúng có
mối quan hệ liên hồn với nhau chứ khơng có sự tách biệt và phân chia
theo kiểu Khổng Tử.
Do đó với những quan niệm trên thì Khổng Tử đã đưa học thuyết
về Nhân của mình đến đIểm hạn chế lớn nhất. Tuy nhiên, với hạn chế đó
chúng ta khơng thể phủ nhận những đóng góp mà phạm trù Nhân của
Khổng Tử đã mang lại cho lịch sử Trung Hoa nói riêng và lịch sử nhân
loại nói chung.
1.3
Tiểu kết:
Với phạm trù nhân của mình mặc dầu có những ưu đIểm và hạn chế
nhất định nhưng chừng đó cũng đủ làm cho Khổng Tử và học thuyết của
ông được nhiều nơi trên thế giới biết đến.
Như chúng ta đã phân tích ở trên thì điểm xuất phát của quan điểm
Nho gia là Nhân, mà Nhân là do con người tu dưỡng đạo đức mà có cũng
xuất phát từ Nhân mà con người thấu hiểu cuộc sống. Tuy nhiên, sự hiểu
biết về cuộc sống của Nho giáo có vẻ nơng cạn hơn so với sự hiểu biết
của các tôn giáo khác. Triết lý lòng Nhân của Khổng Tử cũng chỉ xuất
phát từ sự khẳng định Nhân tính bản thiện, cịn ví như trí tuệ nhân sinh
của Cơ đốc giáo thì xuất phát từ quan điểm nhân sinh bản ác; Nên trong
giáo lý của đạo cơ đốc điều là những câu khuyên nhủ người đời đều xoay
20