TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
VIỆN NGHIÊN CỨU SƯ PHẠM
BÀI TIỂU LUẬN
TÂM LÝ HỌC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
GVHD: TS. Lê Thị Thanh Hà
Họ và tên: Võ Lê Anh Thư
Ngày sinh: 01/12/1998
Nơi sinh: TP. Hồ Chí Minh
Đơn vị cơng tác: Trung tâm Phổ thông Cao đẳng FPT Polytechnic Hồ Chí
Minh
I.
Đặt vấn đề
Chúng ta đã bước vào một thế kỷ mới, một thế kỷ sẽ mang lại những thay đổi
mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Trong đó, giáo dục và đào tạo đã bước
đầu hình thành các xu thế mới như đa dạng hóa các loại hình giáo dục, dạy học theo
hướng thông tin, diễn đàn khoa học mạng và được phát triển mạnh mẽ. Mục tiêu dân
giàu, đất nước công bằng, văn minh, tiến lên vững chắc chủ nghĩa xã hội, xác định rõ
mục tiêu công nghiệp hóa. Hiện đại hóa muốn thành cơng phải phát triển mạnh mẽ
giáo dục và đào tạo đóng vai trị là yếu tố cơ bản của việc phát huy nguồn nhân lực.
Chúng ta cũng có thể xác định rằng trong giáo dục - đào tạo, giáo dục đại học giữ vai
trò nòng cốt, bởi mục tiêu của giáo dục đại học là đào tạo ra những con người có tư
cách, đạo đức và liêm chính. Thực tiễn đáp ứng nhu cầu xây dựng đất nước và bảo vệ
Tổ quốc.
Những tiến bộ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là cơng nghệ thơng tin đang
làm thay đổi nhanh chóng diện mạo thế giới, đẩy nhanh tốc độ hội nhập và tồn cầu
hóa, từ đó làm thay đổi mục tiêu, nội dung của thế giới, cũng như phương pháp dạy
và học của các trường đại học. Nội dung giáo dục đại học ngày nay hiện đại và phát
triển, phương pháp giáo dục đề cao việc rèn luyện năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo
điều kiện và tiền đề để người học phát triển tư duy sáng tạo, để họ có thể học suốt
đời. Xuất phát từ yêu cầu trên, nhiều trường đại học tập trung nguồn lực cho việc đổi
mới phương pháp dạy học. Nhiều giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo đã được đề
ra, nhưng giải pháp có thể coi là cơ bản và có ý nghĩa quyết định là phải xác định và
tạo nhận thức về vai trị, trách nhiệm của người thầy trong q trình dạy học. Tích
cực đổi mới phương pháp dạy học hiệu quả, tăng cường hệ thống hóa tài liệu, thiết bị
dạy học, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi
chỉ muốn đề cập đến vai trò, trách nhiệm của giảng viên trong việc đổi mới phương
pháp dạy học đại học trên cơ sở thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục
đại học. Dạy học là một nghề đặc biệt và là một loại hình lao động, nhưng sản phẩm
là con người, cơng cụ lao động là chính nhân cách của mỗi người: “Trồng nhân cách
bằng nhân cách”. Vì vậy địi hỏi người giáo viên phải có phẩm chất đạo đức và năng
lực cao, không thể liệt kê cụ thể từng yếu tố mà chỉ xét những điểm khái quát nhất mà
người giáo viên khơng thể thiếu đó là:
- Về phẩm chất: phải có tính cách mẫu mực, u nghề, mến trẻ. Phải luôn là tấm
gương sáng cho mọi người và phải giữ gìn các hành vi đạo đức trong nhà trường, gia
đình và xã hội. Nói chung, hãy ln là một hình mẫu. Trong dạy học, lấy hiệu quả
giáo dục làm trọng, thưởng phạt rõ ràng, mọi việc đều vì lợi ích của học sinh.
- Khả năng: Tính đến cả kiến thức giáo dục và kiến thức chuyên môn - Dạy
học không chỉ là truyền đạt kiến thức chuyên môn của mình mà xét về mặt giáo dục
còn được gọi là dạy học, giáo dục con người. Khi có đủ phẩm chất đạo đức mẫu mực,
người giáo viên hướng dẫn học sinh hình thành nhân cách đạo đức tốt, tránh những
thói hư tật xấu. … Điều này luôn được đưa vào giảng dạy.
- Kiến thức chuyên môn: Rõ ràng phải có kiến thức sâu rộng, nắm vững kiến
thức chuyên môn, phương pháp giảng dạy khoa học, không ngừng đổi mới. “Biết
mười dạy một, học mười biết mười”. Để biến tất cả thành hiện thực, tơi nghĩ mình
phải thắp đuốc lên và đi tìm nó, nhưng khơng phải là không thể. Điều tôi đề xuất là
cái chung nhất mà một giáo viên cần phải có và phải biết vận dụng vào từng hoàn
cảnh cụ thể.
II.
Nội dung
1. Khái niệm, đặc điểm của tâm lý học giáo dục
1.1. Khái niệm
Tâm lý học giáo dục là một trong những ngành khoa học tâm lý được ứng
dụng sớm nhất. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học giáo dục là các quy luật tâm
lý trong quá trình dạy dỗ, giáo dục trẻ em từ lứa tuổi mẫu giáo đến sinh viên. Cụ
thể, tâm lý giáo dục đi tìm cơ chế tâm lý của q trình học sinh lĩnh hội văn hóa vật
chất xã hội và văn hóa tinh thần và biến chúng thành vốn tự có của mình; phát hiện
mối quan hệ giữa tri thức đã lĩnh hội được với sự phát triển các chức năng tâm lý
nâng cao của học sinh; cơ chế tiếp nhận của phân khúc tổ chức các hoạt động phù
hợp với sự phát triển trí tuệ và tâm lý. Nghiên cứu những vấn đề này cho thấy có
mối liên hệ mật thiết giữa tâm lý lứa tuổi và tâm lý giáo dục sư phạm.
Muốn giáo dục con người trước hết phải hiểu con người một cách toàn diện,
nếu nắm được các quy luật sinh lý hay các hình thức, tốc độ của các phản ứng vận
động thì người thầy sẽ nắm được các quy luật của đời sống tinh thần, con người và
tài liệu học tập. Vì vậy, các hiện tượng tâm lý trẻ em và thanh niên xảy ra trong quá
trình giáo dục và giáo dục ở nhà trường phải được nghiên cứu riêng và trở thành
một môn học của tâm lý học sư phạm. Tâm lý sư phạm chủ yếu tập trung vào việc
vận dụng tri thức khoa học về tư duy, nhân cách của con người vào quá trình sư
phạm, bao gồm động cơ, định hướng, kiểm tra, đánh giá... Mục đích của tâm lý sư
phạm cịn là biết học sinh và q trình học sinh là gì, định hướng phát triển và
trưởng thành nhờ quá trình này. Vì vậy, nhiệm vụ của Tâm lý học sư phạm là chọn
lọc, sắp xếp, giải thích và kết hợp các sự kiện, tài liệu, kỹ thuật và nguyên tắc từ lâu
đài tâm lý học khổng lồ để áp dụng chúng vào thực tế trong quá trình học. Như vậy,
tâm lý giáo dục nhằm cung cấp cho giáo viên những hiểu biết khoa học về tâm lý trẻ
em và thanh thiếu niên; quan điểm về bản chất của việc học; hiểu biết vững chắc về
ý nghĩa của sự khác biệt cá nhân, kiến thức về sự tăng trưởng và phát triển của trẻ
em, hiểu biết về các vấn đề hành vi của trẻ em và thanh thiếu niên và khả năng giải
quyết chúng. Do đó, giáo viên và nhà sư phạm, những người hiểu các nguyên tắc cơ
bản của việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình sư phạm và học tập, có
thể đánh giá các phương tiện được sử dụng để đạt được mục tiêu giáo dục.
1.2. Đặc điểm
Lao động của người thầy giáo có những đặc điểm:
1.2.1 Nghề làm việc trực tiếp với con người
- Đối tượng của lao động sư phạm chủ yếu: những người trẻ tuổi, những em
học sinh đang trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
- Nghề dạy học là nghề có trách nhiệm cao nhất bởi lao động của nhà giáo có
vai trị hình thành nhân cách của thế hệ trẻ.
- Nhà giáo phải có: hiểu biết về con người, tơn trọng con người và có khả năng
tác động hình thành nhân cách con người tương lai với những phẩm chất và năng
lực phù hợp.
- Người giáo viên cần quan tâm những điều sau khi làm việc với học sinh:
Phẩm giá con người, thấu hiểu đồng cảm, nhận thức sự khác biệt cá nhân, yếu tố
môi trường sống, giao tiếp và làm việc nhóm
1.2.2 Nghề tái sản xuất sức lao động xã hội, đào tạo ra những con người có
năng lực học tập suốt đời
- Nghề dạy học có ý nghĩa chính trị và kinh tế to lớn vì giáo dục tạo ra sức lao
động mới trong từng con người. Đó là nghề tái sản xuất, mở rộng sức lao động xã
hội.
- Giáo viên có nhiệm vụ cao cả bồi dưỡng và phát huy năng lực ở mỗi học
sinh của mình. Để làm việc đó, người học phải có kiến thức, có động lực học tập và
có kỷ luật cao.
- Với yêu cầu, đòi hỏi của người học và của xã hội, người giáo viên tham gia
trực tiếp vào tái sản xuất sức lao động xã hội nhưng với những thách thức mới là
đào tạo ra những con người lao động có khả năng học tập suốt đời.
1.2.3 Nghề mà công cụ chủ yếu là năng lực và nhân cách của nhà giáo
- Sản phẩm hoạt động của người thầy giáo: tri thức, kỹ năng, kĩ xảo và các
phẩm chất nhân cách được hình thành ở học sinh.
- Bằng năng lực và nhân cách của chính mình, người giáo viên đã giúp người
học chuyển tải nền văn hóa xã hội vào bên trong những phẩm chất, năng lực thông
qua hoạt động học tập của chính học sinh.
→ Công cụ lao động chủ yếu của người giáo viên là chính năng lực và nhân
cách của họ.
1.2.4 Nghề lao động trí óc chun nghiệp
- Lao động trí óc có 2 đặc điểm nổi bật:
+ Phải có một thời kì khởi động (như lấy đà trong thể thao), nghĩa là có một thời kì rèn
luyện để cho lao động đi vào nề nếp, tạo hiệu quả.
+ Có “qn tính” của trí tuệ.
→ Cơng việc của người thầy giáo khơng đóng khung trong lớp học, trong một thời
gian nhất định, mà ở khối lượng và chất lượng và tính sáng tạo của cơng việc. Cơng
việc địi hỏi tìm một luận chứng, cách giải một bài toán, xác định một biện pháp sư
phạm cụ thể trong một hoàn cảnh sư phạm nhất định, nên đòi hỏi người thầy giáo phải
tự trau dồi tri thức suốt đời.
1.2.5 Nghề địi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo
- Tính khoa học: Muốn dạy học và giáo dục có hiệu quả người giáo viên phải
nắm được bộn mơn khoa học mình phụ trách, nắm được quy luật phát triển tâm lí
học sinh để hình thành nhân cách cho chúng theo mục tiêu của từng cấp học.
- Tính nghệ thuật: Cơng tác dạy học và giáo dục đòi hỏi giáo viên phải khéo
léo trong ứng xử sư phạm, vận dụng các phương pháp dạy học và giáo dục. Tính
nghệ thuật được thể hiện thông qua giao tiếp, qua sự tương tác hai chiều giữa hai
chủ thể: người giáo viên với học sinh và ngược lại. Người giáo viên thông qua giao
tiếp sư phạm tác động làm thay đổi nhận thức, kĩ năng, tư duy của học sinh, nhằm
tạo ra cấu thành tâm lí mới; học sinh ở chiều ngược lại cũng tác động tới giáo viên
qua thông tin phản hồi làm thay đổi nhận thức của giáo viên về đối tượng hoạt động
của mình, qua đó có phương pháp sư phạm thích hợp.
- Tính sáng tạo: Mỗi học sinh là một nhân cách đang hình thành, khả năng
phát triển đang bỏ ngỏ, sự phát triển đầy biến động, vì thế lao động của người giáo
viên khơng cho phép dập khn, máy móc mà địi hỏi phải có nội dung phong phú,
cách thức tiến hành sáng tạo ở từng tình huống sư phạm. Hoạt động của người giáo
viên được kích thích bởi động cơ tự thân, bởi những cuốn hút do tình huống sư
phạm tạo ra; sự thấu hiểu qua những phát hiện và sự phát triển của học sinh là
những động lực quan trọng nhất trong hoạt động của người giáo viên.
2. Những phẩm chất và năng lực của một người giảng viên
2.1 Phẩm chất
2.1.1 Khái niệm
Phẩm chất là thái độ của con người đối vối hiện thực (tự nhiên, xã hội, người
khác, bản thân); là hệ thống những thuộc tính tâm lý biểu hiện các mối quan hệ xã
hội cụ thể của người đó; thường thể hiện qua hành động, hành vi, cách ứng xử…, là
thế giới quan khoa học, lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ, lòng yêu trẻ, lòng yêu nghề
nghiệp, những phẩm chất đạo đức phù hợp với hoạt động của người thầy
Phẩm chất của nhân cách gồm: ý thức, niềm tin đạo đức (nhận thức), tình cảm
đạo đức, ý chí dạo đức
2.1.2 Những phẩm chất của người giảng viên
a. Thế giới quan khoa học:
- Thế giới quan khoa học là yếu tố quan trọng trong cấu trúc nhân cách, nó quyết
định niềm tin chính trị, tồn bộ hành vi cũng như ảnh hưởng của thầy giáo đối với
trẻ. Thế giới quan vừa là hiểu biết, quan điểm, vừa là sự thể nghiệm, tình cảm sâu
sắc về tự nhiên, xã hội và con người. Thế giới quan của người thầy giáo là thế giới
Mác – Lê-nin, bao gồm quan điểm duy vật biện chứng về quy luật phát triển của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Thế giới quan của người thầy giáo chi phối nhiều mặt hoạt
động như thái độ về việc lựa chọn nội dung, phương pháp dạy và giáo dục, kết hợp
giáo dục với thực tiễn, với chính trị.
b. Lý tưởng đao tạo thế hệ trẻ:
Đây là yếu tố hạt nhân trong cấu trúc nhân cách của người thầy giáo. Lý tưởng
người thầy giáo ln ln đi về phía trước, thấy hết giá trị lao động của mình đối
với thế hệ trẻ, lý tưởng của thầy giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân
cách của học sinh. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ của người thầy giáo biểu hiện bằng
niềm say mê nghề nghiệp, lòng yêu trẻ. Lương tâm nghề nghiệp, tận tụy với công
việc, lối giản dị, giúp cho người thầy giáo vượt qua những khó khăn của cuộc sống
đời thường làm việc tốt, yêu thương học sinh. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ được hình
thành và phát triển trong hoạt động tích cực trong công tác giáo dục, nếu nhận thức
về nghề càng cao thì tình cảm nghề nghiệp càng sâu sắc
c. Lòng yêu trẻ:
Đây là một phẩm chất cao quý của người thầy giáo, một phẩm chất đặc trưng trong
nhân cách của người thầy giáo. – Người thầy giáo có tình thường đối với con người,
đối với trẻ mới có sự sáng tạo trong nghề sư phạm. Tài sản vô giá của người thầy
giáo là tình người, lịng nhiệt tình thái độ ân cần, chu đáo và vị tha. Lòng yêu trẻ
của thầy giáo được thể hiện: thầy giáo cảm thấy sung sướng khi tiếp xúc với trẻ, khi
đi sâu vào thế giới độc đáo của trẻ, sung sướng khi thấy trẻ lớn khơn, tâm hồn trong
sáng, trí tuệ được phát triển. Thầy giáo luôn quan tâm đầy thiện ý với trẻ, đối sử
công bằng với các em, chân thành, giản dị, nghiêm khắc, yêu cầu cao đối với các
em.
d. Lòng yêu nghề: muốn hoạt động trong một nghề nao đó có hiệu quả thì người đó
phải có lịng u nghề. Nghề sư phạm cũng vậy, người hoạt động phải có lịng u
nghề, trên cơ sở lịng u trẻ người thầy giáo có động lực để yêu nghề, say xưa với
nghề, có sáng kiến với công việc để hoạt động tốt phục vụ thế hệ trẻ. Lòng yêu nghề
của người thầy được thể hiện: tận tụy với công việc, luôn nghĩ đến công việc cống
hiến cho giáo dục. Trong công việc, người thầy luôn làm việc với tinh thần trách
nhiệm cao, luôn cải tiến nội dung và phương pháp dạy học. Không thỏa mãn với
trình độ hiểu biết của mình, tay nghề của mình, ln học hỏi và tự rèn luyện để hồn
thiện mình. Ln rút ra kinh nghiệm để hoạt động sư phạm ngày càng tốt hơn , phục
vụ các em nhiều hơn, vui mừng khi giao tiếp với các em nhiều hơn, cống hiến cả
cuộc đời cho sự nghiệp giáo dục.
e. Một số phẩm chất đạo đức cần có của người thầy giáo:
Hoạt động của người thầy giáo là nhằm thay đổi nhân cách học sinh, do đó mối
quan hệ giữa thầy và trò ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dạy học và giáo dục.
Đồng thời người thầy luôn là tâm gương sáng để học sinh noi theo về mọi mặt. Vì
vậy, người thầy giáo cần phải có những phẩm chất đạo đức y chí sau:
-
Tinh thần trách nhiệm, lịng nhân đạo , lịng tơn trọng, sự cơng bằng ,thẳng
thắn, giản dị khiêm tốn…
Tính ngun tắc, mục đích, kiên trì, tính tự kiềm chế, tính tự chủ, kỹ năng tự
điều chỉnh tâm trạng của mình cho phù hợp với các tình huống sư phạm.
2.2 Năng lực
2.2.1 Khái niệm
Năng lực là mặt hiệu quả của tác động (tác động vào con người, vào sự việc).
Năng lực sư phạm: năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục,
tri thức, tầm hiểu biết, năng lực chế biến tài liệu học tập, năng lực dạy học, ngôn
ngữ, vạch dự án phát triển nhân cách học sinh, giao tiếp sư phạm, “cảm hóa” học
sinh, tổ chức hoạt động sư phạm…
Năng lực gồm: năng lực trí tuệ (nhận thức), tình cảm trí tuệ và hành động trí
tuệ (ý thức).
2.2.2 Năng lực của người giảng viên (năng lực sư phạm)
Có 3 nhóm năng lực sư phạm:
-
Nhóm năng lực dạy học
+ Dạy học là quá trình thống nhất giữa hoạt động dạy và hoạt động học, trong
đó thầy giáo là người tổ chức, điều khiển hoạt động của trẻ và trị là người chủ động
tích cực sáng tạo để chiếm lĩnh nền văn hóa xã hội. Vậy hoạt động dạy học chỉ đạt
được kết quả cao khi q trình đó thực sự là quá trình điều khiển, tức là thầy giáo
phải hiểu học sinh trong quá trình dạy học. Năng lực hiểu học sinh là khả năng thâm
nhập vào thế giới bên trong của học sinh, sự hiểu biết tường tận về nhân cách của
chúng, có năng lực quan sát tinh tế những biểu hiện tâm lý trong quá trình dạy học
và giáo dục.
+ Biểu hiện năng lực hiểu học sinh của người thầy giáo:
Khi chuẩn bị bài có tính đến trình độ nhận thức và khả năng phát triển của học
sinh, hình dung được cái gì các em có thể hiểu được, cái gì các em khó hiểu.
Khi chế biến tài liệu , trình bày tài liệu phải biết đặt mình vào địa vị người
học. Đặc biết biết suy nghĩ về đặc điểm của nội dung, biết xác định khối lượng và
mức độ khó khăn, đưa ra cách trình bày kiến thức mới sao cho học sinh dễ hiểu,
giúp cho học sinh lĩnh hội được.
Đưa ra những câu hỏi phù hợp với từng học sinh để các em có thể trả lời được,
biết được những vướng mắc của các em.
Người giáo viên cịn dự đốn được trước những thuận lợi và khó khăn, xác
định đúng mục đích căng thẳng cần thiết khi thực hiện các nhiệm vụ nhận thức. Vậy
để có năng lực nay người thầy giáo phải có năng lực, trách nhiệm, yêu thương đi
sâu, đi sát học sinh, nắm vững chuyên môn, am hiểu tâm lý học sinh, tâm lý lứa
tuổi. Cần phải có một số phẩm chất tâm lý cần thiết như óc quan sát tinh tế, óc
tưởng tượng, có khả năng phân tích và tổng hợp……
- Nhóm năng lực giáo dục
+ Tri thức và tầm hiểu biết của người thầy giáo: đây là một năng lực cơ bản
Người thầy giáo phải có tri thức sâu về chun mơn và có tâm hiểu biết rộng bởi vì:
Người thầy giáo phải có nhiệm vụ hình thành và phát triển nhân cách cho học
sinh (thế hệ trẻ). Để thực hiện nhiệm vụ đó thầy giáo phải trang bị cho họ những tri
thức, kỹ năng, kỹ sảo, quan điểm va thái độ….(nhất là tri thức khoa học do mình
phụ trách).
Thầy giáo là người tổ chức quá trình tái tạo những tri thức loài người để phát
triển tâm lý con người mới.
Thấy giáo là nhà giáo dục có hoạt động rất đa dạng va phong phú, không chỉ
giảng dạy chuyên mơn mà cịn hình thành thế giới quan cho trẻ. Đồng thời người
thầy giáo có tri thức và tầm hiểu biết để tạo ra uy tín của mình.
+ Người thầy giáo có tri thức và tầm hiểu biết được thể hiện:
Nắm vững và hiểu biết rộng mơn mình phụ trách.
Thường xuyên theo dõi xu hướng, những phát minh khoa học thuộc mơn mình
phụ trách và mơn học khác. Đồng thời biết tiến hanh nghiên cứu khoa học và hứng
thú đối với nó.
Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để hồn thiện trí thức cho mình. Vậy để có
năng lực này người thầy giáo phải có nhu cầu mở rộng tri thức và tầm hiểu biết của
mình, ln ln cố gắng học hỏi và tự học để đào sâu và mở rộng tri thức. Đồng
thời thầy giáo phải tự rèn luyện cho mình kỹ năng tự học
- Nhóm năng lực tổ chức hoạt động sư phạm
+ Người thầy giáo không phải truyền đạt một cách máy móc và rập khn
từng câu, từng chữ trong sách giáo khoa hay tài liệu, mà phải biết chế biến tài liệu
sao cho phù hợp với logic phát triển khoa học, vừa phải hợp với nhận thức của học
sinh để giúp cho học sinh dễ hiểu và nắm chắc hơn.
+ Người thầy giáo biết tổ chức chương trình học tập được thể hiện:
Đánh giá đúng tài liệu: xác lập được mối yêu cầu kiến thức của chương trình
với trình độ nhận thức của học sinh. Để đảm bảo được yêu cầu chung về kiến thức
của chương trình, làm cho tài liệu đó vừa sức với học sinh
Người thầy giáo biết tổ chức cho trẻ gìanh được tri thức khoa học đã được gởi
gắm trong tài liệu, truyền được sức sống của kiến thức đó có ý nghĩa sâu sắc đối với
cuộc sống của họ. Người thầy giáo phải nắm bắt được logic phát triển của tri thức,
hiểu thấu đáo, chính xác tài liệu phải biết chế biến nhào nặn bổ sung tài liệu
Thầy giáo phải có khả năng phân tích, hệ thống hóa kiến thức. Đồng thời có
sáng tạo khi chế biến tai liệu để cung cấp cho học sinh những kiến thức chính, bổ
ích, chính xác, có liên hệ giữa kiến thức cũ với mới, kiến thức bộ môn nay với kiến
thức bộ môn khác, biết vận dụng vào thực tiễn cuộc sống
Nắm vững kỹ thuật dạy học mới là kết quả chiếm lĩnh đối tượng học tập phụ
thuộc vào phương pháp dạy của thầy, do đó thầy phải biết cách dạy, nâng cao trình
độ dạy. Tức là thầy phải nắm vững kỹ thuật dạy học mới. Kỹ thuật dạy học mới là
thầy tổ chức, điều khiển hoạt động của trò nhắm giúp trò chủ động, tích cực, sáng
tạo lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Người thầy giáo nắm vững những kỹ thuật
dạy học mới tạo cho học sinh ở vị trí người phát minh trong quá trình dạy học,
truyền đạt tài liệu rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức với học sinh, gây
được hứng thú và kích thích học sinh suy nghĩ tích cực và độc lập, tạo ra tâm thế có
lợi cho sự lĩnh hội, học tập.
3. Kết luận
Như vậy cấu trúc chức năng thay đổi theo các nhu cầu xã hội và yêu cầu cụ thể
của từng trường. Tuy vậy, dù trong cấu trúc nào, cả ba chức năng Giảng Dạy –
Nghiên Cứu Khoa Học – Dịch Vụ đều thể hiện rõ nét vì giữa chúng có mối liên hệ
tương hỗ hết sức chặt chẽ, cái này bổ sung và làm phong phú cái kia. Thực hiện đầy
đủ và toàn diện cả ba nhóm chức năng nêu trên quả là một thách thức lớn không chỉ
cho từng giảng viên mà cho cả hệ thống giáo dục.