Lời cảm ơn
Để hồn thành bài tiểu luận này ,tơi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ từ thầy
cô ,gia đình và bạn bè . Tơi xin chân thành cảm ơn q trình dạy dỗ của các
thầy cơ bộ mơn trong khoa DSVH tại đại học Văn Hóa Hà Nội ,đặc biệt là
của Th.s Nguyễn Anh Thư người đã định hướng nghiên cứu và chỉ dẫn về
mặt khoa học, đồng thời cung cấp nhiều tư liệu quý giá cho tôi . Tôi cũng xin
chân thành cảm ơn bảo tàng lịch sử Quốc gia Việt Nam đã tạo điều kiện thận
lợi để tơi hồn thành bài tiểu luận này.
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................4
CHƯƠNG 1. Vài nét về văn hóa Sa Huỳnh..................................................6
1.1.Lịch sử nghiên cứu và phát hiện .............................................................6
1.2.Loại hình di tích trong văn hóa Sa Huỳnh..............................................8
1.2.1. Loại hình di tích cư trú............................................................................8
1.2.2. Loại hình di tích mộ táng.......................................................................10
1.2.3. Loại hình di tích cư trú kết hợp mộ táng...............................................15
1.3. Loại hình đồ gốm trong văn hóa Sa Huỳnh.........................................16
1.3.1. Quan tài gốm ........................................................................................16
1.3.2. Đồ gốm tùy táng....................................................................................18
1.4. Niên đại....................................................................................................20
1.5. Tiểu kết....................................................................................................22
CHƯƠNG 2. Phân loại và giá trị của sưu tập đồ gốm tùy táng trong văn
hóa Sa Huỳnh tại BTLSQG Việt Nam.........................................................23
2.1. Khái quát chung về Bảo tàng Lịch sử Quốc Gia Việt Nam và khu
trưngbày.........................................................................................................23
2.1.1Khái quát chung về Bảo tàng Lịch sử Quốc Gia Việt Nam....................23
2.1.2. Gíơi thiệu về hệ thống trưng bày bộ sưu tập gốm tùy táng tại Bảo tàng
Lịch sử Quốc Gia Việt Nam............................................................................24
2.2 Phân loại hiện vật trong khu trưng bày về văn hóa Sa Huỳnh ..........25
2.2.1. Hiện vật gốm.........................................................................................25
2.2.1.1 Các dạng quan tài gốm........................................................................25
2.2.1.2 Đồ tùy táng..........................................................................................27
2.2.2. Các hiện vật khác...................................................................................31
2.2.2.1 Công cụ lao động ................................................................................31
2.2.2.2 Đồ trang sức........................................................................................31
2
2.3 Gía trị của bộ sưu tập..............................................................................32
2.3.1 Gía trị lịch sử..........................................................................................32
2.3.2 Gía trị nghệ thuật....................................................................................33
2.3.3 Gía trị văn hóa........................................................................................34
2.4 Tiểu kết.....................................................................................................35
CHƯƠNG 3. Gỉai pháp bảo và phát huy giá trị cúa sưu tập đồ gốm tùy
táng trong văn hóa Sa Huỳnh tại Bảo tàng LSQG Việt Nam....................37
3.1 Thực trạng của vấn đề bảo quản hiện vật bằng gốm tại Bảo tàng
LSQG Việt Nam ............................................................................................37
3.2 Gỉai pháp nhằm phát huy giá trị của sưu tập đồ gốm tùy táng tại Bảo
tàng LSQG Việt Nam ..................................................................................38
3.3 Tiểu kết....................................................................................................39
KẾT LUẬN....................................................................................................40
Tài liệu tham khảo.........................................................................................41
Phụ lục............................................................................................................43
3
MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Trong những thập niên đầu của thế kỷ XX ,một nhóm những nhà khảo
cổ học người Pháp đã phát hiện một số di chỉ đáng lưu ý tại miền trung Việt
Nam :”một kho chum khoảng 200 chiếc nằm cách mặt đất không sâu trong
một cồn cát ven biển vùng Sa Huỳnh ,những chum bằng đất nung có chiều
cao trung bình 0,8m và khác nhau về hình dáng chứa bên trong những chiếc
nồi ,bình bằng đất sét có chứa cát óng ánh ,những đồ trang sức ,vịng tay
bằng đồng rất trịn”[Vinet 413]. Từ phát hiện đó ,một nền văn hóa mới đã
được giới nghiên cứu biết đến :văn hóa Sa Huỳnh . Qua q trình nghiên cứu
các nhà khảo cổ học Việt Nam và nước ngoài đã phát hiện ra nhiều di chỉ
thuộc văn hóa Sa Huỳnh ở khu vực miền Trung và Nam trung bộ Việt Nam .
Đặc trưng tiêu biểu nhất của nền văn hóa Sa Huỳnh là hình thức táng thức
dùng chum ,vị gốm làm quan tài mai táng và đồ gốm làm đồ tùy táng. Chính
vì thế, khi nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến văn hóa Sa Huỳnh đồ
gốm luôn là nguồn tư liệu “gốc” được chú ý , quan tâm khai thác .
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam(trước là Viện viễn đông bác cổ Việt Nam)
là một trong những cơ quan đi đầu trong vấn đề tìm hiểu nền văn hóa Sa
Huỳnh và đã có những thành cơng nhất định .Hiện nay , tại khu vực trưng bày
tại bảo tàng có trưng bày bộ sưu tập đồ gốm tùy táng và các đồ tùy táng trong
văn hóa Sa Huỳnh chính là một trong những minh chứng cho sự thành cơng
đó . Để nắm rõ hơn về vai trị của đồ gốm trong văn hóa Sa Huỳnh tơi đã
quyết định chọn “Sưu tập đồ gốm tùy táng trong văn hóa Sa Huỳnh tại
bảo tàng lịch sử Quốc Gia “làm đề tài cho tiểu luận .
2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
_ Đối tượng nghiên cứu : đồ gốm mai táng và tùy táng trong văn hóa Sa
Huỳnh tại bảo tàng lịch sử Việt Nam .
_ Phạm vi nghiên cứu :
4
+ Không gian : nghiên cứu về đồ gốm tùy táng và mai táng trong văn hóa
Sa Huỳnh tại phần trưng bày “Việt Nam từ thời dựng nước đến triều Trần “
tại bảo tàng Lịch sử Quốc Gia .
+ Thời gian : nghiên cứu vấn đề khi bảo tàng đang thực hiện việc trưng
bày bộ sưu tập tại khu trưng bày tại bảo tàng .
3.Mục tiêu nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu ,tìm hiểu bộ sưu tập chúng ta có thể đánh giá vai
trò , giá trị của đồ gốm trong văn hóa Sa Huỳnh qua nhiều khía cạnh như: đời
sống vật chất và tinh thần .
4.Phương pháp nghiên cứu :
Để hồn thành bài tiểu luận này tơi đã sử dụng phương pháp nghiên
cứu, phân tích tài liệu để làm rõ những vấn đề có liên quan đến văn hóa Sa
Huỳnh và đặc biệt còn sử dụng một số phương pháp quan sát ,ghi chép, chụp
hình ,miêu tả hiện vật trong hoạt động điền dã thực địa .
5.Đóng góp của đề tài
Qua bài nghiên cứu này ,có thể khái quát những đặc trưng cơ bản nhất
cửa đồ gốm trong văn hóa Sa Huỳnh .Thông qua những hiện vật tiêu biểu tại
khu trưng bày tại bảo tàng ta có thể hiểu hơn về vai trò và giá trị của đồ gốm
trong văn hóa Sa Huỳnh .
6.Bố cục
Ngồi phần mở đầu và kết luận ,bài tiểu luận gồm 3 chương :
+ chương 1: Vài nét về văn hóa Sa Huỳnh
+ chương 2: Phân loại và giá trị của sưu tập đồ gốm tùy táng trong văn hóa
Sa Huỳnh tại bảo tàng lịch sử Quốc Gia
+chương 3:Giải pháp bảo quản và phát huy giá trị của sưu tập đồ gốm tùy
táng trong văn hóa Sa Huỳnh tại bảo tàng lịch sử Quốc Gia
5
.Chương 1
VÀI NÉT VỀ VĂN HÓA SA HUỲNH
1.1.Lịch sử phát hiện và nghiên cứu
Khái niệm văn hóa Sa Huỳnh lần đầu tiên được nhắc đến trong bài
thông báo của M.Colani tại Hội nghị Tiền sử Viễn Đông vào năm 1932.Tuy
nhiên ,phát hiện khảo cổ học đầu tiên đánh dấu sự xuất hiện của nền văn hóa
này là năm 1909 ,từ đó đến nay đã hơn một trăm năm phát hiện và nghiên cứu
nền văn hóa này nhưng .
Một trong những yếu tố tạo nên nền văn hóa Sa Huỳnh như ngày nay
đó là những phát hiện quan trọng và những bài nghiên cứu bước đầu của các
học giả nước ngoài .Năm 1909 ,Vinet đã phát hiện ra một “kho chum”tại ven
biển Quảng Ngãi ,những phát hiện tiếp theo tại các khu vực như : Đức
Phổ ,Đồng Nai đã sáp nhập nên nền văn hóa Sa Huỳnh tại miền Trung Việt
Nam . Chính những phát hiện bước đầu này đã tạo điều kiện trong việc tìm
hiểu và nghiên cứu nền văn hóa đặc biệt này . Tuy nhiên, những nghiên cứu
đó chỉ mang tính khái quát ,chưa đi sâu nghiên cứu vì chưa có những điều
kiện phát triển sâu hơn .
Bên cạnh những đóng góp to lớn của các học giả phương tây ,từ năm
1954 đã có một số học giả Việt Nam chú ý đến nền văn hóa này .Cụ thể là từ
năm 1976-1989,các nhà khảo cổ học trong nước đã phát hiện và khai quật
hàng loạt các địa điểm mới tại Quảng Nam ,Phú Yên (Hòa Quang ,Hiệp Hòa
Nam ),Khánh Hịa (Diên Điền ,Diên Khánh ,Ninh Thân ,Ninh Đơng ),Ninh
Thuận (Hàm Nhơn ),Bình Thuận .Đáng chú ý là trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
trong khoảng thời gian từ 1976-1986 các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều
di tích :Tam Mỹ ,Tiên Hà ,Bầu Trám ,Tam Giang ,Phú Hòa ,Bầu Nê ,Quế Lộc
và nhiều những di chỉ đáng chú ý khác ở xung quanh khu vực Đại
Lãnh .Những tư liệu về các khu vực này được tổng hợp lại trong cuốn
6
“Những di tích thời tiền và sơ sử ở Quảng Nam và Đà Nẵng “ của giáo sư
Trần Quốc Vượng chủ biên .Đóng góp quan trọng của các học giả trong nước
là đã chứng minh được tính bản địa của văn hóa Sa Huỳnh thơng qua các di
chỉ khảo cổ học mà trước đó các học giả phương tây chưa tiếp cận
được .Những thành quả trên đã được tổng hợp và phân tích trong cuốn sách
chun luận của Vũ Cơng Qúy đó là “văn hóa Sa Huỳnh “.
Trong những năm từ 1991 đến nay ,có rất nhiều cơ quan, tổ chức ,tổ
chức những hoạt động nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ hơn nền văn hóa đặc biệt
này ,tiêu biểu là Viện khảo cổ sau khi tiến hành 3 lần khai quật tại Huế đã
phát hiện di tích Cồn Ràng với một quần thể mộ chum lớn thuộc văn hóa Sa
Huỳnh ,Bảo tàng Lịch sử Việt Nam cũng phát hiện tại đây di tích Cồn Dài .
Tại Hội An , trường Đại học KHXH&NV Hà Nội tiến hành nghiên cứu theo
chương trình hợp tác của quỹ Toyota Foundation tài trợ đã phát hiện cụm di
tích xung quanh Hội An như :Hậu Xá1, Hậu Xá 2,An Bang ,Xuân Lâm,
Thanh Chiếm ... Vào những năm 1990,những di tích văn hóa Sa Huỳnh đã
được phát hiện tại Duy Xuyên như di tích mỏ Mả Vơi- Gị Miếu Ơng ,Gị
Cấm ,Thơn Tư...những di tích này đã tạo nên một phức hệ văn hóa cư trú –
mộ táng rộng lớn .
Ngồi ra cịn một loạt những phát hiện do trường Đại học KHXH&NV
Hà Nội kết hợp vớ Phịng văn hóa huyện Duy Xun tiến hành phát hiện và
nghiên cứu như : thôn Phú Đa , thôn Tĩnh n ,Dinh Ơng,vườn nhà ơng
Mười Linh,xã Duy Thu .Tại xã Duy Trung phát hiện các địa điểm : Gò Tây
An , Gị Bờ Rang, Gị Bà Hịm ,Gị Ơng Nhạn ,Núi Vàng []. Khảo sát các di
tích Sa Huỳnh tại huyện Điện Bàn tháng 8/2000 được thực hiện bởi các cán
bộ thuộc trường Đại học KHXH&NV Hà Nội kết hợp với Phòng VHTT
huyện Điện Bàn phát hiện các địa điểm khảo cổ : Bích Bắc( xã Điện
Hịa ),Cấm Xóm (xã Điện Tiến ),xã Điện Ngọc [].
Tại Quảng Ngãi ,Viện Khảo cổ học đã tiến hành khai quật trên đảo Lý
Sơn ở hai địa điểm Xóm Ốc và Suối Trình ,từ phát hiện này cho thấy văn hóa
7
Sa Huỳnh có khuynh hướng mở rộng ra các vùng hải đảo . Địa điểm Gò Quê
cũng được biết đến là một địa điểm có số lượng mộ đất lớn nhất thuộc văn
hóa Sa Huỳnh (13 ngơi mộ ) và với một số đồ đồng thuộc văn hóa Đơng Sơn .
Bên cạnh đó cịn có các địa điểm khác như : Gò Kim, Tịnh Thọ ,Hát Bàu Lưu,
Trảng Quỳnh .
Trên đất Bình Định ,địa điểm Động Cườm (Tăng Long) từng được
M.Colani khai quật năm 1934 đã được Viện Khảo cổ học và Bảo tàng Tổng
hợp Bình Định tiến hành khám sát nhiều lần và khai quật nhằm tìm hiểu về di
tích .
Tại Phú n , di tích mộ táng gị Bộng Dầu (còn được gọi là Rừng
Long Thủy ) đã phát hiện và khai quật năm 2002 và một số các di tích như
khe Ơng Dậu ,Suối Mây cũng được phát hiện gần đây .
Tại Khánh Hịa ,di tích Hịa Diêm (xã Cam Thịnh Đơng, Cam Ranh,
Khánh Hịa ) đã khai quật 3 lần . Đây là khu di tích cư trú –mộ táng mang
nhiều nét đặc trưng địa phương và ảnh hưởng của văn hóa phía Nam và có
mối liên quan mật thiết về tập tục cải táng và đồ tùy táng với văn hóa Đơng
Nam Á hải đảo mà tiêu biểu là văn hóa Philippines.Ngồi ra ,liền kề với địa
điểm Hịa Diêm cịn có một số di tích mới được phát hiện như Gị Duối ,Gị
Đình .
Từ những phát hiện trên đây đã cho ta thấy ,văn hóa Sa Huỳnh chủ yếu
tập trung tại khu vực miền Trung và Nam Trung Bộ Việt Nam mà đáng chú ý
là những di tích thuộc khu vực Quảng Nam ,Quảng Ngãi .
1.2 Loại hình di tích trong văn hóa Sa Huỳnh
1.2.1 Loại hình di chỉ cư trú
Cho đến nay rất ít các di tích cư trú Sa Huỳnh được phát hiện, một số di
tích cư trú đã được biết đến nhưng cũng khá mờ nhạt. Thơn Tư, Gị Cấm (lớp
dưới), Tiên Hà (Gò Miếu), Bàu Nê. Tất cả các địa điểm này đều thuộc Quảng
Nam. Ngồi ra một số di tích cư trú tại Khánh Hòa như Ninh Thân, Ninh
8
Đông, Diên Điền đã được phát hiện vào 1988 song khơng có thơng báo cụ thể
nên rất khó để tìm hiểu.
Di chỉ Bàu Nê, đã được phát hiện song khu di tích bị phá hủy nhiều,
qua khảo sát và sưu tầm các mảnh gốm xuất lộ trên bề mặt, các nhà nghiên
cứu cho rằng đây là di chỉ cư trú văn hóa Sa Huỳnh. Tư liệu về địa điểm này
đến nay khơng cịn.
Di chỉ Gị Miếu ( Tiên Hà) : di chỉ này cách di tích mộ táng Gị Quảng
khoảng 1,5km về phí đơng .Tầng văn hóa của di chỉ này dày khoảng 6080cm,chứa nhiều di vật như:công cụ đá ,đồ đồng và đồ gốm và rất nhiều viên
cuội .Từ 50-70cm của tầng văn hóa thấy nhiều tảng đá tương dối lớn ,nằm tập
trung ở vách phía đơng của hố đào ,sắp xếp theo quy luật nhóm ba.Mằn giữa
là những nồi gốm còn nguyên vẹn ,những người khai quật cho rằng : có thể
đó là khu vực bếp đun của cư dân ở đây .Theo những ghi chép nghiên cứu thì
khu vực bếp khơng có được những mơ tả chi tiết mà những di chỉ trên chỉ có
cấu tạo đơn giản ,do đó rất khó để khẳng định rằng đây là di chỉ bếp ,có thể
đây là di tích mộ đất . Theo mô tả ,cấu trúc các cụn đá –gốm đó giống những
di tích ở địa điểm mộ táng Gị Bộng Dầu ,bên cạnh đó trong lần khai quật mới
nhất vào năm 2008,theo thông báo tại Hội nghị NPHM năm 2008 thì tại Gị
Miếu có mộ huyệt đất . Vậy,một câu hỏi được đặt ra là liệu Gò Miếu có đơn
thuần chỉ là di chỉ cư trú ?
Di chỉ Thơn Tư, tầng văn hóa dày khoảng từ 25- 80 cm , các mảnh gốm
Sa Huỳnh phân bố rải rác khắp bề mặt hố trong các lớp đào và cũng có một số
nằm co cụm thành từng đám, từng dải, điển hình như dãy gốm xuất lộ ở lớp 3
ở các ô f1, g1 và d2 của hố II, hoặc những cá thể gốm bị vỡ in situ và mảnh
văng ra xung quanh. Bên cạnh gốm cịn có đồ đồng, đồ sắt, trang sức bằng đá
Jade, Nephrite, và một số vết tích của nghề đúc đồng như mảnh đồng vụn,
mảnh nồi nấu đồng, bọt xỉ đồng, giọt đồng và nhiều tảng đất bị nung cháy
(chủ yếu ở hố II) . Di tích cư trú này nằm trong tổ hợp di tích cư trú- mộ
9
táng.“Đồ gốm tìm thấy trong di chỉ cư trú có nhiều nét tương đồng với đồ
gốm tìm thấy ở những khu vực mộ chum Gị Mả Vơi, Gị Miếu Ơng”1.
Như vậy, dấu tích cư trú của người Sa Huỳnh vẫn rất mờ nhạt, không tương
xứng với các địa điểm mộ táng.Nơi cư trú có lẽ thường nằm ở khu vực gần
dịng chảy, thấp hơn so với nơi chơn cất, tầng văn hố khơng dày, dễ bị bào
mịn và làm xáo trộn. Trong khi đó với đặc tính của các dịng sông miền
Trung là ngắn, độ dốc lớn kết hợp với “nhữngcơn lũ miền núi đột ngột và
hung dữ, gây những hiện tượng lở bờ, đất đổ và đất trượt thì khả năng nhiều
di tích cư trú bị lở xuống sơng mất hết dấu tích là rất lớn, hiện tượng đó đến
nay vẫn tiếp tục xảy ra”2. Do đó nơi cư trú của người Sa Huỳnh rất ít khi được
phát hiện được .
1.2.2. Loại hình di chỉ mộ táng
- Các di chỉ mộ táng
+ Mộ quan tài gốm:
Biên mộ: Phần lớn các chum mộ văn hóa Sa Huỳnh khơng tìm được biên
mộ, song cũng có một số địa điểm đã thấy biên mộ. “ Ở địa điểm An Bang tất
cả các mộ chum đều có biên mộ hình ơ van, có trường hợp 2 mộ chung trong
một biên mộ.Một số mộ ở Gị Mả Vơi biên mộ hình trịn, có đường kính lớn
hơn chum khoảng 10cm”3.
Phân bố chum trong khu nghĩa địa: Sự phân bố các chum mộ rất đa
dạng, không theo một quy luật nhất định .“Trong từng khu mộ táng, các mộ
được chôn riêng lẻ hoặc tạo thành các cụm- mỗi cụm gồm 3, 4 hoặc 5 ngôi
mộ như ở địa điểm Cồn Ràng;mỗicụm được chôn thành một hoặc hai hàng
thẳng như ở Cồn Ràng một nhóm gồm 4 mộ chum thẳng hàng nhau, ở Gị
Dừa các ngơi mộ chum cũng tạo thành cụm gồm 2 hàng thẳng nhau…)” 4. Có
trường hợp phân bố thành ơ bàn cờ hoặc kẻ ô vuông với khoảng cách đều
Lâm Thị Mỹ Dung ,2007,Tr85
Lê Bá Thảo ,1996,Tr192.
3
Nguyễn Chí Trung và nnk,1999,Tr128
4
Bùi Văn Liêm và nnk,2005,tr237
1
2
10
nhau như ở Đồi Vàng và Gị Đình (Đại Lãnh) “Cứ khoảng 1m 2 là người Sa
Huỳnh đương thời chôn đến 4 ngơi mộ chum ở 4 góc” 5. Đa số các ngôi mộ
không cắt phá hoặc chôn chồng lên nhau (mặc dù nhiều mộ nằm rất sát nhau)
điều này cho thấy các ngơi mộ có thể đã được đánh dấu, tuy vậy vẫn có một
số trường hợp các mộ cắt hoặc chơn chồng lên nhau như ở Gị Mả Vơi, An
Bang …” Đặc biệt có mộ song táng phát hiện ở Bình Yên gồm một mộ chum
hình trụ và một mộ nồi đặt ngay trên một phần của miệng chum” 6, “mộ song
táng ở Cồn Dài gồm một mộ chum hình trụ và một chum hình trứng, mộ
Động Cườm- một mộ nồi chôn úp gần như nằm kẹp giữa 2 mộ chum, mộ nồi
được đặt ngang tầm với phần vai cổ của 2 mộ chum”7 .
Quan tài:
giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng “quan tài gốm gồm có
các kiểu loại khác nhau như: mộ chum hình trụ với nhiều biến thể (là loại phổ
biến nhất) , mộ chum hình trứng, mộ nồi-/vị . Quan tài hình trụ có nắp đậy
dạng hình nón cụt, dạng bát/mâm bồng đặt úp hoặc ngửa, có nắp kép (nắp
hình nón cụt ở trong và hình chậu ở ngồi); quan tài dạng nồi/ vị có nắp đậy
là mâm bồng, dạng chã hoặc nắp hình nón cụt hoặc nồi chôn úp nhau .Các
dạng quan tài này có khi cùng tồn tại xen kẽ trong một khu mộ song cũng có
thể được chơn trong một khu riêng, như khu mộ Tam Giang là khu mộ nồi”8.
Các phương thức mai táng bằng quan tài: Táng thức chủ đạo của người
Sa Huỳnh là mộ chum đơn, song cũng có những mộ chum lồng đơi (dạng
trong quan ngồi qch). Đặc biệt có trường hợp lồng ba như ngơi mộ ở
B’rang.
Chum lồng đôi: dạng quan tài này không phổ biến, đến nay táng thức
này được phát hiện trong 4 địa điểm Hậu Xá I, Tabhing Gị Miếu Ơng và Gị
Dừa. Mộ quan tài gốm dạng chum lồng đơi gồm có 2 chum, chum nhỏ bên
trong và chum lớn bên ngoài, đồ tuỳ táng được đặt trong và trên nắp chum
bên trong. Các ngôi mộ chum lồng được phát hiện trong hai địa điểm Hậu Xá
Trần Quốc Vượng ,1995
Bùi Chí Hồng va nnk,2004,tr944
7
Phạm Thị Ninh,Pham Vũ Sơn ,2004
8
Trần Quốc Vượng ,1995,tr76
5
6
11
I, Tabhing, Gị Miếu Ơng đều là những trường hợp đơn lẻ được chôn xen kẽ
trong các mộ khác. Tuy nhiên tại Gị Dừa, mộ chum lồng đơi được phát hiện
là một quần thể 5/6 mộ là chum lồng.
Mộ chum lồng ba: trường hợp duy nhất đến này được phát hiện trong văn
hóa Sa Huỳnh tại địa điểm B’rang xã Cà Di , đã phát hiện một mộ chum lồng
3- chiếc nhỏ ở trong chiếc lớn ở ngoài. Trong bài thơng báo tác giả khơng nói
chi tiết về loại hình quan tài và táng thức.
Các dấu vết khác: Thông thường, các chum mộ được đặt trực tiếp trên
các lớp đất hoặt cát. Tuy vậy trong một số địa điểm đã phát hiện được những
dấu tích như than tro bên ngồi chum, mộ chum được kê trên nền đá, gốm.
Mộ được kê trên nền đá, được phát hiện ở Gò Mả Vơi, Gị Miếu Ơng, An
Bang hay mộ kè đá ở Cồn Ràng.“Tại Gị Mả Vơi, một ngơi mộ quan tài gốm
được kê bằng 2- 3 lớp đá. Đá kê quan tài là những cục vụn kết thạch anh có
kích thước trung bình khoảng 10 cm, được xếp cẩn thận, khít vào nhau tạo
thành một khối hình trụ cao khoảng 25cm và đường kính khoảng 60cm.”9“Ở
Gị Miếu Ơng, mộ số 3 được đặt trên một lớp đá kè xếp khá ẩu, loại đá cát kết
chẻ thành miếng hình dạng khơng đồng nhất.Lớp đá kè mộ này có dạng hình
trịn, kích thước rộng 69- 73cm, dày 18cm” 10 .” Trong địa điểm An Bang, có
lớp đá lót màu vàng- nâu sẫm dày khoảng 20- 40cm. Có mộ chum ở Cồn
Ràng có hiện tượng xếp kè đá xung quanh hình chữ nhật “11.
Mộ được kê trên lớp gốm: hiện tượng này ít gặp, “tại Gị Miếu Ơng dưới
đáy ngơi mộ số 2 có nhiều mảnh gốm của các kiểu nồi, đèn, bát bồng, chân
đế… xếp chồng lên nhau tạo thành một lớp có kích thước 45- 54cm, dày
19cm , ở Động Cườm có mộ được đặt trên một lớp gốm gồm những mảnh
nhỏ được đập từ một nồi gốm”12
Vết tích than tro: Đã được phát hiện ở Cồn Dài , Gò Dừa, An Bang, Lai
Nghi và Động Cườm.” Tại An Bang, một số chum xung quanh có nhiều tro,
Nguyễn Chiều ,2002,tr181
Lâm Thị Mỹ Dung và nnk ,2004,tr244
11
Bùi Văn Liêm ,2004,tr238
12
Những phát hiện khảo cổ học 2003,tr244
9
10
12
than, đặc biệt ở chum AB-H2/C16 có vỉa than tro lớn, dày 20- 30cm bó xung
quanh miệng chum, sâu xuống 40- 50cm (than cục to, chứng tỏ được đốt ngay
tại đây, từ những đoạn gỗ to)”13. “Ở địa điểm Lai Nghi, than tro có ở hầu hết
các mộ, thường tập trung ở dưới và xung quanh đáy chum, gồm nhiều cục
than cịn khá lớn.Có chum được kê bằng một lớp than tro dày tới hàng chục
cm “14. “Trong khu mộ Động Cườm, có mộ nằm dưới lớp cát có nhiều than
đen”15.
Đồ tuỳ táng: Đồ tùy táng gồm có đồ gốm (nồi, bình, bát/ mâm bồng, dọi
se chỉ, bát, đĩa…), đồ sắt (rìu, giáo, dao quắm, thuổng, dao, kiếm…), đồ trang
sức (các loại hạt chuỗi, hạt cườm, khuyên tai bằng các chất liệu đá, mã não,
thủy tinh, vàng…), đồ đồng (rìu, lao, giáo, bát/ âu, gương…), đồ xương, đá….
Đồ gốm phần lớn trong chum, một số được xếp trên nắp chum hoặc úp sát
vào ngang thân bên ngoài, đồ trang sức và đồ kim loại luôn được đặt trong
chum .
Xương cốt: Rất ít địa điểm phát hiện được dấu tích xương cốt người, đến
nay chỉ có các địa điểm Bình n, Lai Nghi, Gị Dừa, Gị Mả Vơi, Hậu Xá II,
Gị Quê, Động Cườm. “Hầu hết chum chỉ có đồ tùy táng khơng có xương cốt,
cũng có chum bên trong chỉ có cát trắng như mộ chum ở Hậu Xá. Ở Gị Mả
Vơi, một số mộ thấy ít xương chi đã mục nát hoặc những chiếc răng hàm
người đã bị mất hết phần chân răng “ 16. “Mộ chum lồng tại Hậu Xá II, dưới
đáy có chứa than tro lẫn với răng và một ít mẩu xương vụn, kết quả phân tích
cho thấy đây là răng hàm trẻ em và xương động vật” 17. Trong một mộ chum ở
Gò Quê phát hiện được một chiếc răng hàm dưới có 3 chân răng cháy (đây có
thể là mộ chum hỏa táng).
+ Mộ đất: Các địa điểm mộ táng có mộ đất rất ít, đến nay đã phát hiên
được 7 di tích mộ táng có mộ đất là Cồn Ràng, Gị Mả Vơi, Lai Nghi, Hậu Xá
Nguyễn Đức Minh ,2006,tr128
Đoàn khai quật Lai Nghi 2003,2004,tr241
15
Phạm Thị Ninh,2003
16
Nguyến Chiều 2002,tr181
17
Nguyễn Trung Thành ,Nguyễn Đức Minh ,2002,Tr26
13
14
13
I, Tiên Lãnh, Thạch Bích, Gị Q. Các địa điểm này phân bố trong khu vực
đậm đặc số lượng các di tích mộ táng, chủ yếu ở vùng đồng bằng ven sơng,
biển. Mộ đất trong văn hóa Sa Huỳnh có số lượng rất ít so với mộ chum và
được chơn xen kẽ cùng các mộ quan tài gốm không theo quy luật nào. Tại
Cồn Ràng có 6/ 264 mộ, Gị Mả Vơi 4/ 20 mộ, Lai Nghi 8/63 mộ, Gị Quê
13/31 mộ, Tiên Lãnh 4/7 mộ… Có thể phân chia mộ đất theo các loại sau:
Mộ khơng cịn xương cốt nhưng cấu trúc mộ khá rõ ràng, đồ tùy táng
tương đối ngun vẹn được bố trí cẩn thận, có chủ ý, cách sắp đặt và phạm vi
phân bố đồ tùy táng phù hợp với một tử thi . Trong một số mộ, đồ gốm được
đập vỡ trước khi chôn, hoặc có lớp gốm vỡ rải mộ. Loại mộ đất này được phát
hiện ở các di tích như: Gị Mả Vơi, Lai Nghi, Tiên Lãnh, Gị Q.
Mộ chỉ là một cụm đồ gốm khá nguyên, loại hình thường thấy là dạng
bát/ mâm bồng và bình, nồi… đặt úp hoặc nằm nghiêng: Lai Nghi, Hậu Xá I,
… Loại mộ này được cho là mộ “biểu tượng”.
Đồ tùy táng:
Đối với dạng mộ đất “biểu tượng”, đồ tùy táng là một cụm gồm các đồ
gốm nguyên đặt nghiêng hoặc úp.Đó là các bình, bát/ mâm bồng và nồi, thậm
chí là nắp chum. Các mộ cịn lại có đặc điểm: Đồ tuỳ táng luôn được sắp xếp
cẩn thận, đồ gốm thường được đặt thành cụm ở đầu hoặc dưới chân hài cốt,
trong nhiều mộ lại được xếp thành một hoặc hai hàng thẳng song song dọc
theo tử thi và luôn nằm nghiêng hoặc úp; đồ kim loại được đặt ở phía trong và
dưới đồ gốm. Mộ Tiên Lãnh - thanh kiếm đặt ở khoảng giữa theo mô tả và
bản vẽ sắp sếp các hiện vật trong mộ thì có thể đó là phần giữa ngực . Hay ở
Gị Mả Vơi, lưỡi rìu đồng được đặt ở giữa khoảng 2 đầu gối tử thi .
Cũng giống như trong các mộ chum, đồ tuỳ táng trong các mộ đất thuộc
văn hoá Sa Huỳnh rất phong phú về số lượng và loại hình, gồm đồ gốm, cơng
cụ và vũ khí bằng sắt, đồng, đồ trang sức (đối với các mộ nói chung). Đồ gốm
có các loại nồi, bình, bát/mâm bồng, dọi se chỉ, bát, các mảnh gốm vỡ. Phần
lớn các hiện vật gốm đều có dấu hiệu đập hoặc ghè vỡ trước khi chôn . Đồ
14
đồng bao gồm các loại cơng cụ rìu (mang dấu ấn văn hóa Đơng Sơn), vũ khí
như mũi tên, mũi lao, mũi giáo và đồ sinh hoạt (âu đồng mang ảnh hưởng văn
hóa Hán). Đồ sắt gồm đồ sinh hoạt (dao, liềm, rìu, cuốc…), vũ khí (dao,
kiếm, giáo…). Các hiện vật kim loại thường có dấu hiệu bị gãy hoặc bị bẻ
cong trước khi chơn (Gị Q). Đồ trang sức gồm các hạt cườm, hạt chuỗi mã
não, thủy tinh….
1.2.3. Loại di tíchcư trú kết hợp mộ táng
Theo những nghiên cứu mới nhất của một số học giả thì loại di chỉ này
có ở 3 địa điểm Xóm Ốc, Suối Chình (Quảng Ngãi), Hồ Diêm (Khánh
Hịa) ,chúng đều thuộc loại hình di tích cồn cát ở hải đảo hoặc ven biển nam
Trung bộ.
Về mộ táng, trong các địa điểm cư trú- mộ táng này đều có loại mộ đất
chơn xen kẽ với các mộ vò/ nồi gốm.
+ Mộ quan tài gốm: Đặc trưng của các địa điểm này là quan tài gốm
được dùng để chơn người chết là dạng vị/ nồi gốm, vắng mặt loại hình quan
tài điển hình của văn hóa Sa Huỳnh là chum hình trụ. Ở Hịa Diêm phổ biến
kiểu vò (những người khai quật gọi là chum) mà phần miệng đã bị ghè bỏ đi
chỉ còn phần thân có nắp đậy dạng bát bồng hoặc mộ nồi chơn úp nhau. Mộ
nồi/ vị ở di tích Xóm Ốc: dạng vị có nắp đậy là bát/ mâm bồng bên trong có
xương cốt trẻ em. Mộ Suối Chình có dạng nồi úp nhau bên trong cũng có
xương cốt trẻ em.
+ Mộ đất được chia thành các nhóm sau:
Mộ cịn xương cốt nguyên hoặc gần nguyên vẹn theo tư thế giải
phẫu- loại mộ chơn hung táng: tiêu biểu Hịa Diêm, Xóm Ốc.
Mộ có một vài mẩu xương cháy cùng với xương động vật và gốm vỡ:
Hòa Diêm (hoả táng).
15
Mộ cịn xương cốt nhưng cách bố trí, sắp xếp các xương không theo
trật tự, đồ tùy táng xung quanh được đặt nghiêng hoặc úp dọc theo thân
người- dạng mộ đất cải táng: Hòa Diêm
Mộ chỉ còn lại ít xương cốt, không đồ tùy táng. Tiêu biểu ở Hịa
Diêm có mộ chỉ cịn vài mẩu xương vụn, có hiện tượng rải gốm. Đây là ngôi
mộ cải táng tử thi không đầy đủ các bộ phận, không đồ tùy táng.
Mộ chỉ là một cụm đồ gốm khá nguyên, loại hình thường thấy là dạng
bát/ mâm bồng và bình, nồi… đặt úp hoặc nằm nghiêng. Mộ tiêu biểu ở Hòa
Diêmphát hiện ở độ sâu 30cm, đáy mộ sâu 50cm. Di vật được xếp theo hướng
Đông Bắc- Tây nam, gồm nhiều bát bồng chân đế cao xếp úp, bình gốm đặt
nằm nghiêng Như vậy ,phần lớn các di tích thuộc văn hóa Sa Huỳnh đều là di
tích mộ táng với nhiều loại hình mộ táng ,ngồi ra cịn một ,số ít các di chỉ cư
trú và di chỉ kết hợp giữa mộ táng và cư trú .
1.3 Loại hình đồ gốm trong văn hóa Sa Huỳnh
1.3.1 Quan tài gốm
Quan tài gốm là loại hình đặc trưng của văn hóa Sa Huỳnh, là loại đồ
đựng được dùng để mai táng người chết (có thể là hung táng, cải táng, hỏa
táng hoặc tượng trưng) cùng với các đồ tùy táng khác.Đây là loại đồ gốm có
kích thước lớn nhất trong các loại đồ gốm ở Việt Nam thời tiền- sơ sử. Về
hình dáng, quan tài gốm có nhiều kiểu dáng khác nhau được phân thành các
kiểu loại chính sau: quan tài dạng chum và quan tài dạng nồi/vò gốm. Trên
thực tế ,quan tài gốm nhìn chung có 4 kiểu chính : Mộ chum hình
trụ ,mộchum hình trái đào , mộ chum hình trứng và dạng mộ chum có vành
miệng loe .
- Kiểu 1: Mộ chum hình trụ là kiểu chum phổ biến nhất trong các địa
điểm mộ táng văn hóa Sa Huỳnh .Thân chum hình trụ cao tương đối thẳng,
miệng loe, vành miệng phía trong thường có gờ (chủ yếu) hoặc khơng có gờ
đỡ nắp.Đa số thân bên ngồi được trang trí hoa văn thừng, chải. Kiểu chum
16
này thường có kích thước lớn với nhiều biến thể và có nắp đậy hình nón cụt,
nắp hình lồng bàn hoặc mâm bồng. Kiểu chum này gồm các dạng: Chum có
gờphân biệt giữa thân và vai;Chum khơng có vai(hoặc vai và thân khơng có
sự phân biệt) dáng chum thn dài, đường kính thân nhỏ; Chum gần hình trụ
(chum hình trụ biến thể).Kiểu mộ chum này xuất hiện nhiều ở khu vực Trung
bộ .
- Kiểu 2:Mộchum hình trứng là loại chum có kích thước lớn, dáng cao,
cổ thắt, vai xi trịn, phần đáy cũng thu vào cong tròn. Kiểu chum này cũng
có thể coi là một dạng chum hình trụ biến thể. Loại mộ chum này thường có
ba dạng chính đó là:Chum có vành miệng loe xiên thẳng, độ xiên lớn; Chum
có tỷ lệ giữa chiều cao và đường kính thân (rộng nhất) khơng chênh lệch
nhiềuvà Chum hình trứng miệng loe xiên, cổ thắt, vai phình rộng và thu dần
về đáy, đáy tròn lồi. Kiểu chum này xuất hiện tại các di chỉ : Hậu Xá ,Tam
Mỹ,Gị Mả Vơi ,Gị Miếu Ông, Cồn Ràng...
- Kiểu 3: Chum hình trái đào, đây là kiểu chum mới thấy xuất hiện ở
Gị Mả Vơi (4 chiếc), có dáng hình cầu đáy nhọn. Chum màu nâu, vành
miệng loe xiên, cổ gãy góc, vai phình rộng cong tròn, giữa thân thu nhỏ và vát
nhọn dần về phía đáy.
- Kiểu 4: Là kiểu quan tài có vành miệng loe xiên, cổ thắt, thân cong
phình ở giữa và thu dần về đáy, trên thân có gờ gãy góc hoặc khơng, đáy trịn
hoặc bằng. Kiểu quan tài này dáng thấp, kích cỡ nhỏ hơn hẳn các kiểu quan
tài trên.Về hình dáng, cơ bản giống dáng nồi nhưng có kích cỡ lớn hơn nhiều.
Nắp đậy của quan tài khá đa dạng, có thể là bát/ mâm bồng, nắp dạng chậu
gốm, nắp đôi khi là chiếc nồi nhỏ úp lên, hoặc có cả dạng nắp hình nón cụt,
nhiều chiếc khơng có nắp. Đến nay, kiểu quan tài này có các tên gọi khác
nhau song chưa có một tiêu chí phân loại cụ thể.Có các cách gọi khác nhau
như chum hình cầu, nồi táng, vò táng.Quan tài dạng nồi gồm các dạng nồi/ vò
17
có thân hình cầu đáy trịn hoặc bằng, thân phình rộng phần đáy, vai hẹp, hoặc
nồi ngang thân có gờ gãy góc.
Thơng thường các quan tài gốm đều có nắp, tuy nhiên rất nhiều chiếc
nắp đã bị phá hủy, sập vào trong lòng chum và vỡ nát. Nắp đậy thường là đặt
úp trên miệng chum, cũng có trường hợp nắp để ngửa . Nắp quan tài gốm
thường có hai kiểu phổ biến là : nắp hình nón cụt và nắp hình lồng bàn .
1.3.2 Đồ gốm tùy táng
Đồ tùy táng bằng gốm trong các ngơi mộ văn hóa Sa Huỳnh có trong cả
mộ đất và mộ quan tài gốm.Gồm có các loại nồi, bình, bát/ đĩa, bát/mâm
bồng, cốc, dọi se chỉ, đồ trang sức.
- Nồi: Nồi có chiếm số lượng lớn nhất, có mặt phổ biến với nhiều kiểu
dáng đa dạng. Có thể nhận thấy tính chất của các loại nồi trong các mộ gồm
nồi mang tính chất thực dụng và nồi minh khí.Nồi mang tính chất thực dụng
là loại nồi đã qua sử dụng trước khi được làm đồ tùy táng, trên thân nồi
thường để lại vết ám khói và có kích thước lớn hơn.Nồi minh khí là loại nồi
có kích thước nhỏ và được nặn sơ sài. Trong một số địa điểm, những người
khai quật đã xác định rõ và phân chia hai loại nồi này, song trong nhiều địa
điểm khác nhóm nồi minh khí hoặc khơng có hoặc chưa được phân chia rõ
ràng. Nồi là loại đồ đựng dùng để đun nấu, vì vậy nồi thường khơng có chân
đế. Có thể phân làm các kiểu chính gồm nồi có thân khơng gãy góc và nồi có
thân gãy góc.
-Bình: là loại đồ đựng thường có chân đế, phần thân trên có nhiều kiểu
dáng rất giống nồi, đây là nhóm đồ đựng được trang trí cầu kỳ nhất và khá
phổ biến trong các địa điểm với nhiều kiểu dáng khác nhau. Đây là loại đồ
gốm tùy táng có số lượng nhiều sau nồi.Bình cũng có hai kiểu chính là : bình
có thân gãy góc và bình có thân khơng gãy góc
18
- Mâm/bát bồng: Kiểu dáng của bát và mâm bồng giống nhau gồm có
phần thân trên miệng loe hoặc khum, khơng có cổ thuộc dạng bát đĩa để đựng
và phần chân đế cao. Nhiều chiếc khó phân chia tách rõ ràng thuộc loại mâm
hay bát bồng, thường những chiếc có kích thước lớn, lịng rộng được xếp vào
loại mâm bồng cịn kích thước nhỏ hơn. Loại bát và mâm bồng thường được
trang trí hoa văn cầu kỳ, đặc biệt là mâm bồng.Mâm bồng được chia thành 2
kiểu thân gãy góc và khơng gãy góc.
-Bát: Có ba kiểu bát chính đó là : Bát đáy bằng , bát đáy tròn hoặc trịn
dẹt và kiểu bát có gờ gãy góc trên thân . Mỗi kiểu bát lại có nhiều dạng khác
nhau làm tăng tính nghệ thuật trong hiện vật .
-Cốc (Ly): Cốc là loại đồ đựng chân đế cao, phần thân nhỏ, thường
được trang trí hoa văn. Loại hình hiện vật này khơng phổ biến.Cốc có hai kiểu
tiêu biểu là kiểu thân cốc có gờ gãy góc và thân cốc khơng có gờ gãy góc .
- Đèn: loại hình hiện vật này rất đặc trưng cho văn hóa Sa Huỳnh, song
chức năng thực sự của nó chưa xác định chính xác được, có mặt trong các địa
điểm văn hố Sa Huỳnh nhưng với số lượng rất ít. Loại hiện vật này thường
được trang trí rất cầu kỳ trong các mộ táng, có thể đây là đồ gốm mang tính
nghi lễ hoặc vật biểu trưng sự giàu có .Có bảy kiểu đèn khác nhau đó là : Đèn
có dáng cân đối , chân đế cao; đèn có phần thân trên của đèn sâurộng ,chân đế
thấp ; Đèn có phần thân trên khum gần tròn, vành miệng đắp thêm xiên
ngang. Chân đế cao; Đèn có phần thân trên khum gập, vành miệng đắp thêm
xiên ngang, chân đế thấp; : Dáng tương đối giống kiểu trên, song thấp hơn,
phần thân sát đáy thắt nhỏ, chân đế thấp; : Đèn dáng nhỏ, thân và chân đế uốn
cong đều, phía ngồi khơng có sự phân biệt. Ngồi những hiện vật tiêu biểu
trên , còn rất nhiều những hiện vật đặc trưng cho văn hóa Sa Huỳnh với nhiều
hình dạng khác nhau .
19
1.4 Niên đại
Song song với việc phát hiện ra những di chỉ thuộc văn hóa Sa Huỳnh
các học giả cũng quan tâm đến việc xác định niên đại của nền văn hóa này .
Thơng qua những hiện vật phát hiện trong các di chỉ và nhờ vào công nghệ
hiện đại mà những học giả đã có những đánh giá về niên đại của văn hóa này .
Trong cuốn “văn hóa Sa Huỳnh “ Vũ Công Qúy chia khung niên đại của
văn hóa Sa Huỳnh thơng qua việc tổng hợp những tài liệu nghiên cứu và dựa
trên tiêu chí loại hình cơng cụ thuộc thời đại đồng thau .Theo đó, ơng đá xác
định văn hóa này chia làm ba loại .
_Loại thứ nhất :coi văn hóa Sa Huỳnh thuộc văn minh Đông Sơn và thuộc
Bàu Trám –Sa Huỳnh với sáu giai đoạn phát triển liên tục kế tiếp nhau từ sơ
kì thời đại đồng thau đến sơ kì thời đại sắt .
_Loại thứ hai: coi văn hóa Sa Huỳnh chỉ bao hàm những di tích thuộc thời
đại sắt,cịn những di tích sớm hơn ,trong phạm vi phân bố của văn hóa Sa
Huỳnh như : Long Thạnh ,Bình Châu...là tiền Sa Huỳnh hay sơ Sa Huỳnh .
_Loại thứ ba : Phần lớn các nhà khảo cổ học coi tất cả những di tích đã được
nghiên cứu trên đều thuộc văn hóa Sa Huỳnh với 2 hay3 giai đoạn phát triển
Xung quanh việc xác định và phân kì niên đại văn hóa Sa Huỳnh của tác giả
Vũ Cơng Qúy đã có nhiều ý kiến bàn cãi và đặt ra nhiều vấn đề khác nhau về
niên đại của văn hóa Sa Huỳnh .Có người quan niệm văn hóa Sa Huỳnh chỉ là
văn hóa thời đại sắt ,cái mà nhiều người gọi là văn hóa Sa Huỳnh cổ
điển .Cịn các văn hóa tiến lên Sa Huỳnh cổ điển thì gọi là văn hóa tiền Sa
Huỳnh . Một số người khác thì quan niêm văn hóa Sa Huỳnh rộng rãi
hơn .bao gồm các di tích sớm hơn Sa Huỳnh thời đại đồ sắt như :Long
Thạnh ,Bình Châu thuộc thời đại đồng thau
Nhà nghiên cứu Phạm Thị Ninh đã chia các văn hóa tiền Sa Huỳnh
thành các văn hóa như: văn hóa Long Thạnh ,văn hóa Bình Châu.
20