Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Giải pháp phát triển câu lạc bộ cầu lông sinh viên trường đại học sư phạm kỹ thuật hưng yên (luận văn cao học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.05 KB, 77 trang )

1

MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết: Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi
trọng công tác giáo dục thể chất (GDTC) và hoạt động TDTT trong trường học
các cấp; trong các văn kiện Nghị quyết của Đảng đã xác định tư tưởng chỉ đạo
phát triển: “Thực hiện các nhiệm vụ xây dựng con người và thế hệ trẻ thiết tha
gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội, có đạo đức trong sáng,
có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có trình độ làm chủ tri thức
khoa học và cơng nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo và có sức khỏe” [5]. “Cần
coi trọng nâng cao chất lượng GDTC trong trường học” [4].
Trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo nói chung và cơng tác giảng dạy của
các trường Đại học nói riêng, GDTC là một mặt giáo dục quan trọng khơng thể
thiếu, góp phần thực hiện mục tiêu: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài” cho đất nước, cũng như để mỗi công dân, nhất là thế hệ trẻ có
điều kiện “Phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh
thần, trong sáng về đạo đức” [1] để đáp ứng nhu cầu đổi mới của sự nghiệp phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
Hiện nay, các trường Đại học - Cao đẳng (ĐH-CĐ) trong tồn quốc nói
chung đang chịu nhiều sự chi phối của cơ chế thị trường. Cùng với sự phát triển
mạnh mẽ về quy mô, đa dạng hóa về loại hình đào tạo, sự tăng đột biến về số
lượng sinh viên thì vấn đề đảm bảo chất lượng giáo dục - đào tạo sinh viên nói
chung, trong đó có GDTC nói riêng đang đứng trước những thách thức to lớn.
Trường ĐHSPKT (ĐHSPKT) Hưng Yên được nâng cấp năm 2002, tiền
thân là Trường Cao Đẳng Sư phạm Kỹ thuật I, có đặc thù là một trường đào tạo
đa số các ngành kỹ thuật. Trường hiện có khoảng trên 12 ngàn sinh viên, trong
đó sinh viên chính quy là hơn 9000, với 13 chuyên ngành và hơn 60 chương
trình đào tạo. Tiến tới trường sẽ là nơi đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, theo chiến
lược phát triển của trường thì đến năm 2020 số lượng sinh viên sẽ tăng lên hơn
20 ngàn. Chính vì thế nhu cầu tham gia hoạt động ngoại khóa nói chung và nhu
cầu tập luyện mơn Cầu lơng nói riêng là rất lớn.




2

Nhận thấy tầm quan trọng của công tác GDTC và tổ chức các CLB thể dục
thể thao (TDTT) cho sinh viên tham gia được Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà
trường đặc biệt quan tâm. Trường ĐHSPKT Hưng Yên luôn thực hiện nghiêm
túc quy định của Bộ GD&ĐT về khung chương trình GDTC chính khóa và cũng
như các hoạt động TDTT ngoại khóa.
Cũng như các mơn thể thao khác nằm trong hệ thống các phương tiện
GDTC, Cầu lông được coi là mơn thể thao có giá trị rất lớn để phát triển thể chất
và sức khỏe cho con người. Trong nhiệm vụ GDTC nói chung và cho thế hệ trẻ
nói riêng, môn Cầu lông luôn phát huy được hiệu quả cao, được nhiều người ưa
thích tập luyện vì tính phổ thơng của nó.
Trong q trình hướng dẫn tập luyện ngoại khóa cho sinh viên Trường
ĐHSPKT Hưng Yên, chúng tôi đã nhận thấy sinh viên của trường rất hào hứng
tập luyện môn Cầu lông. Hàng năm Nhà trường tổ chức giải Cầu lông sinh viên
truyền thống, hầu hết các lớp đều tham gia hưởng ứng nhiệt tình. Tuy nhiên hoạt
động đó vẫn mang tính chất tự phát khơng đảm bảo các yếu tố cần thiết cho đặc
thù của môn Cầu lông, Sinh viên Trường ĐHSPKT Hưng n chưa có mơi
trường tập luyện thuận lợi cũng như phong trào tập luyện môn Cầu lông ở
trường chưa thật sự phát triển.
Vấn đề GDTC cho sinh viên đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu trên nhiều góc độ khác nhau như: Vũ Đức Thu (2000), Nguyễn Duy Linh
(2005), Trần Thanh Tùng (2013), Mai Ngọc Anh (2014)... Những cơng trình
trên có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao chất lượng rèn luyện của sinh viên
trong các trường Đại học và phát triển mô hình câu lạc bộ (CLB) thể thao trong
phạm vi nhất định. Song vẫn chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu ứng dụng
giải pháp phát triển CLB Cầu lông sinh viên Trường ĐHSPKT Hưng Yên.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Giải

pháp phát triển Câu lạc bộ Cầu lông sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ
thuật Hưng Yên”.


3

Mục đích nghiên cứu: Qua việc phân tích lý luận và nghiên cứu thực trạng
CLB Cầu lông sinh viên Trường ĐHSPKT Hưng Yên, đồng thời lựa chọn và
ứng dụng các giải pháp thích hợp có tính khả thi theo hướng tích cực hóa hoạt
động ngoại khóa của sinh viên, nhằm góp phần nâng cao chất lượng CLB Cầu
lơng sinh viên cũng như chất lượng công tác GDTC Trường ĐHSPKT Hưng Yên.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài
tiến hành giải quyết hai nhiệm vụ sau:
- Nhiệm vụ 1: Đánh giá thực trạng hoạt động CLB Cầu lông sinh viên
Trường ĐHSPKT Hưng Yên.
Để giải quyết nhiệm vụ trên, đề tài tiến hành tìm hiểu các nội dung sau:
- Thực trạng về công tác GDTC ở Trường ĐHSPKT Hưng Yên;
- Thực trạng của CLB Cầu lông Trường ĐHSPKT Hưng Yên.
- Thực trạng và nhu cầu tham gia tập luyện CLB Cầu lông sinh viên.
- Nhiệm vụ 2: Lựa chọn và ứng dụng giải pháp phát triển CLB Cầu lông
sinh viên Trường ĐHSPKT Hưng Yên.
Để giải quyết nhiệm vụ này, đề tài tiến hành các nội dung sau:
- Các nguyên tắc lựa chọn giải pháp;
- Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc lựa chọn các giải pháp phát triển CLB
Cầu lông sinh viên Trường ĐHSPKT Hưng Yên;
- Lựa chọn, ứng dụng và kiểm nghiệm hiệu quả các nhóm giải pháp phát
triển CLB Cầu lơng sinh viên Trường ĐHSPKT Hưng Yên đảm bảo tính hiệu
quả và khả thi trong điều kiện thực tiễn của Nhà trường.



4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với công tác GDTC
Giáo dục thể chất trong nhà trường là một bộ phận quan trọng không thể
tách rời trong hệ thống giáo dục quốc dân, là cơ sở của phong trào TDTT quần
chúng và thể thao thành tích cao của đất nước. Từ khi thành lập nước đến nay,
Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng công tác TDTT trường học. Quan điểm đó
xuất phát từ nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và những chính sách của
Đảng và Nhà nước ta.
Ngay từ những ngày đầu Đất nước giành được độc tập, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã quan tâm đến TDTT Việt nam, thể hiện qua lời kêu gọi toàn dân tập thể
dục. Tư tưởng của Người đã xuyên suốt cùng lịch sử cách mạng dân tộc ta, trong
việc đặt nền tảng xây dựng sự nghiệp TDTT của nước ta là: Khẳng định rõ
TDTT là một công tác cách mạng, vừa là nhu cầu, vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa
vụ của quần chúng, một sự nghiệp của toàn dân, do dân và vì dân. Mục tiêu của
TDTT là bảo vệ và tăng cường sức khỏe của nhân dân, góp phần cải tạo nòi
giống Việt Nam, làm cho dân cường, nước thịnh. Tiêu biểu cho điều mong
muốn thiết tha của Bác được thể hiện trong lời kêu gọi toàn dân tập thể dục:
“Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có
sức khỏe mới thành công, mỗi một người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu
ớt một phần, mỗi người dân mạnh khỏe tức là góp phần cho cả nước mạnh khỏe.
Vậy, rèn luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi người dân yêu
nước” [21].
Thực hiện tâm nguyện của Người, trong những năm qua Đảng ta với chủ
trương: “Để đảm bảo cho sự nghiệp TDTT của nước ta phát triển vững chắc,
đem lại những hiệu quả thiết thực, từng bước xây dựng nền TDTT xã hội chủ
nghĩa phát triển cân đối, có tính chất dân tộc, khoa học và nhân dân, công tác
TDTT cần coi trọng, nâng cao chất lượng GDTC trong trường học, tổ chức

hướng dẫn và vận động đông đảo nhân dân RLTT hàng ngày” [36].


5

Với quan điểm trên, trong suốt những năm qua, Đảng, Nhà nước ta không
ngừng quan tâm, đầu tư cho lĩnh vực TDTT. Năm 1958 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã ra Chỉ thị số 106 - CT/TW ngày 02/10/1958 về công tác TDTT.
Quan điểm phát triển TDTT của Đảng ta trong thời kỳ này là: Việc chăm sóc
sức khỏe nhân dân, tăng cường thể chất cho nhân dân là một nhiệm vụ quan
trọng của Đảng và Chính phủ. Cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta vẫn không
ngừng quan tâm, chỉ đạo ngành TDTT Nước nhà nỗ lực phấn đấu thực hiện
bằng được mục tiêu quan trọng này [1].
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW Đảng tại Đại hội Đảng VI đã
khẳng định: “Mở rộng nâng cao chất lượng phong trào TDTT quần chúng, từng
bước đưa việc rèn luyện thân thể thành thói quen hàng ngày của đơng đảo nhân
dân, trước hết là thế hệ trẻ. Nâng cao chất lượng GDTC trong trường học” [3].
Ngày 26 tháng 3 năm 1970 sau cuộc tổng tấn công tết Mậu Thân, Đảng ta
đã ra chỉ thị 180/CT-TW về tăng cường công tác TDTT trong tình hình mới, coi
TDTT quần chúng là công tác quan trọng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Chủ trương trên được cụ thể hóa về phát triển phong trào TDTT trong các
trường học đối với học sinh, sinh viên (HS - SV) [2].
Pháp lệnh TDTT đã được ủy ban thường vụ quốc hội khóa X thông qua và
ban hành: “TDTT là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân. Để phát triển sự
nghiệp TDTT; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về TDTT nhằm nâng cao
sức khỏe, phát triển thể lực toàn dân, góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân
cách con người Việt Nam, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: Nhà
nước khuyến khích và tạo điều kiện để mọi người tham gia hoạt động TDTT và
hưởng thụ giá trị TDTT; phát triển TDTT thành tích cao đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế; giữ gìn và phát triển thể thao dân tộc. Kết hợp với phát triển thể

thao hiện đại phù hợp với bản sắc văn hóa Việt Nam” [45] .
Chỉ thị số 112CT của Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng yêu cầu các cấp các
ngành thực hiện tốt nhiệm vụ và biện pháp sau: “Đối với học sinh, sinh viên
trước hết nhà trường phải thực hiện nghiêm túc việc dạy và học môn thể dục


6

theo chương trình quy định, có biện pháp tổ chức, hướng dẫn các hình thức tập
luyện và hoạt động thể thao tự nguyện ngồi giờ học” [24]. Điều đó khẳng định
sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và nhà nước với công tác TDTT và GDTC trong
nhà trường, nhiệm vụ cấp thiết liên tục của toàn Đảng, toàn dân.
Để đưa công tác GDTC trong nhà trường trở thành một khâu quan trọng,
xác định nhận thức đúng về vị trí GDTC trong nhà trường thì các cấp phải triển
khai đồng bộ với các mặt giáo dục tri thức và nhân cách từ tuổi thơ đến đại học.
Bộ GD&ĐT đã có văn bản quyết định ban hành quy chế về công tác GDTC
trong nhà trường các cấp, đã khẳng định: “GDTC được thực hiện trong hệ thống
nhà trường từ Mầm non đến Đại học, góp phần đào tạo những cơng dân phát
triển toàn diện. GDTC là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu giáo dục và đào tạo,
nhằm giúp cho con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức: thể chất - sức khỏe tốt là nhân tố
quan trọng trong việc phát triển sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc” [14].
Điều 16 - pháp lệnh TDTT đã khẳng định: “Nhà trường có trách nhiệm:
thực hiện chương trình GDTC cho người học; tổ chức hoạt động TDTT ngoại
khóa; xây dựng cơ sở vật chất cần thiết đáp ứng việc giảng dạy và hoạt động
TDTT trong nhà trường” [45].
Trong các trường ĐH - CĐ, GDTC có tác dụng tích cực trong việc hồn
thiện cá tính, nhân cách, những phẩm chất cần thiết và hoàn thiện thể chất cho
sinh viên. Việc tiến hành GDTC nhằm giữ gìn sức khỏe và phát triển thể lực,
tiếp thu kiến thức và kỹ năng vận động cơ bản và còn chuẩn bị tốt về mặt tâm lý

và tinh thần của con người cán bộ tương lai.
Công tác GDTC và hoạt động thể thao trong trường học đã có nhiều khởi
sắc kể từ buổi lễ phát động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ
đại” (26/03/2000). Liên Bộ đã phối hợp xây dựng pháp lệnh TDTT và đã được
Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua, các vụ chức năng của Bộ GD&ĐT, Ủy
ban TDTT và Bộ Y tế đã phối hợp xây dựng quy chế về GDTC và Y tế trường
học được Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ký duyệt và ban hành.


7

Quy chế GDTC và Y tế trường học có ý nghĩa quan trọng tạo điều kiện để nhà
trường các cấp và các địa phương triển khai tốt công tác GDTC trong giáo dục toàn
diện cho HS - SV. Hai ngành đã và đang nghiên cứu cải tiến nội dung chương trình
và sách hướng dẫn GDTC, các hoạt động vui chơi trong ngày học, định hướng
giảm tải và nâng cao chất lượng giáo dục. Trong quy chế có quy định rõ trách
nhiệm của HS - SV: “Học sinh, sinh viên có trách nhiệm hồn thành tốt nhiệm vụ
học tập mơn thể dục và môn sức khỏe. Sinh viên các trường đại học và cao đẳng
phải có chứng chỉ GDTC mới đủ điều kiện thi tốt nghiệp” [16].
Thông tư liên tịch của Bộ GD&ĐT và Ủy ban TDTT ban hành thống nhất:
- TDTT trường học là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao
sức khỏe và thể lực, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, ý chí, giáo dục nhân cách
cho học sinh, sinh viên góp phần đáp ứng yêu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. TDTT trường học là môi trường thuận lợi và giàu tiềm năng để phát
hiện và bồi dưỡng tài năng thể thao cho đất nước.
- Phát triển giáo dục TDTT trường học theo hướng đổi mới và nâng cao chất
lượng giờ học thể dục nội khóa, đa dạng hóa các hình thức hoạt động ngoại khóa,
đồng thời tổ chức chặt chẽ việc kiểm tra tiêu chuẩn RLTT đối với người học.
- Tăng cường phối hợp liên ngành giáo dục và TDTT, đồng thời đẩy mạnh
xã hội hóa và chun mơn hóa, tranh thủ các nguồn lực từ xã hội để xây dựng và

phát triển TDTT trường học.
- Tăng cường hợp tác, giao lưu quốc tế về TDTT trường học, góp phần
nâng cao vị thế của Thể thao Việt Nam trong khu vực và thế giới [17].
Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “...Đẩy mạnh các hoạt động TDTT
cả về quy mô và chất lượng. Khuyến khích và tạo điều kiện để toàn xã hội tham
gia hoạt động và phát triển sự nghiệp TDTT. Phát triển mạnh thể thao quần
chúng, thể thao nghiệp dư, trước hết là trong thanh niên, thiếu niên. Làm tốt
công tác GDTC trong trường học...” [28]; Nghị quyết Đại hội XI của Đảng tiếp
tục khẳng định: “Phát triển mạnh phong trào TDTT đại chúng, tập trung đầu tư
nâng cao chất lượng một số mơn thể thao thành tích cao nước ta có ưu thế.” [29].


8

Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 1-12-2011 của Bộ Chính trị cũng khẳng
định: “Phát triển TDTT là một yêu cầu khách quan của xã hội, nhằm góp phần
nâng cao sức khoẻ, thể lực và chất lượng cuộc sống của nhân dân, chất lượng
nguồn nhân lực; giáo dục ý chí, đạo đức, xây dựng lối sống và mơi trường văn
hóa lành mạnh...” và “...cần quan tâm đúng mức TDTT trường học với vị trí là
bộ phận quan trọng của phong trào TDTT; là một mặt của giáo dục toàn diện
nhân cách học sinh, sinh viên...” [6].
1.2. Công tác GDTC và hoạt động TDTT trong trường Đại học và Cao đẳng
1.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ của GDTC trong trường ĐH và Cao đẳng
Phát triển TDTT và nâng cao thể lực cho sinh viên chính là mục tiêu quan
trọng, nhằm tạo ra con người đầy đủ trí và lực, đáp ứng được những yêu cầu địi
hỏi ngày càng cao của cơng cuộc cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Để thực hiện tốt các mục tiêu đó, cơng tác GDTC trong các trường ĐH CĐ phải giải quyết đồng thời các nhiệm vụ sau:
- Giáo dục đạo đức Xã hội Chủ nghĩa và rèn luyện tinh thần tập thể, ý thức
tổ chức kỷ luật, xây dựng niềm tin, lối sống tích cực, lành mạnh, giáo dục tinh
thần tự giác học tập và rèn luyện thân thể, chuẩn bị sẵn sàng phục vụ sản xuất và

bảo vệ Tổ quốc.
- Cung cấp cho HS - SV kiến thức, lý luận cơ bản về nội dung và phương
pháp tập luyện TDTT, kỹ năng vận động và kỹ thuật cơ bản của một số bộ mơn
thể thao thích hợp. Trên cơ sở đó bồi dưỡng những khả năng sử dụng các
phương pháp rèn luyện thân thể, tham gia tích cực vào việc tuyên truyền và tổ
chức các hoạt động TDTT cơ sở.
- Góp phần duy trì và củng cố sức khỏe của sinh viên, phát triển cơ thể hài
hịa, xây dựng thói quen lành mạnh và khắc phục những thói xấu trong cuộc
sống, nhằm tận dụng thời gian vào cơng việc có ích, đạt kết quả cao trong quá
trình học tập, đạt được những chỉ tiêu thể lực quy định cho từng đối tượng trên
cơ sở tiêu chuẩn rèn luyện thể thao lứa tuổi.


9

- Giáo dục óc thẩm mỹ, tạo điều kiện nâng cao trình độ thể thao, các yếu tố
thể lực cho HS - SV [39].
Những năm gần đây, công tác GDTC và hoạt động TDTT đã có những bước
tiến bộ, việc dạy và học GDTC từ phổ thông đến ĐH - CĐ đã tạo điều kiện thuận
lợi thành lập các đội tuyển ở nhiều môn thể thao tham gia thi đấu các giải thể thao
do Bộ GD&ĐT tổ chức. Không dừng ở đó, Sinh viên Việt nam đã có mặt tại Đại
hội TDTD Sinh viên Đơng Nam Á. Đã có nhiều cơng trình khoa học được báo
cáo các phần nâng cao chất lượng giảng dạy và chăm sóc sức khỏe cho sinh viên.
1.2.2. Nhiệm vụ của GDTC trong các trường Đại học và Cao đẳng
GDTC là một lĩnh vực TDTT xã hội với nhiệm vụ là: “Phát triển toàn diện
các tố chất thể lực và trên cơ sở đó phát triển các năng lực thể chất, đảm bảo
hồn thiện thể hình, củng cố sức khỏe, hình thành theo hệ thống và tiến hành
đến mức cần thiết các kỹ năng và kỹ xảo quan trọng cho cuộc sống. Đồng thời,
giáo dục các phẩm chất đạo đức giáo dục ý thức và nhân cách”[30]. Chương
trình GDTC trong các trường đại học nhằm giải quyết các nhiệm vụ giáo dục:

“Trang bị kiến thức, kỹ năng và rèn luyện thể lực của sinh viên”[44].
Nội dung chương trình GDTC trong các trường ĐH - CĐ được tiến hành
trong quá trình học tập của sinh viên trong nhà trường bằng hai hình thức:
- Giờ học TDTT chính khóa:
Là hình thức cơ bản của GDTC được tiến hành trong kế hoạch học tập
của nhà trường. Vì việc đào tạo cơ bản về thể chất, thể thao cho HS - SV là
nhiệm vụ cần thiết, nên trước hết phải có nội dung thích hợp để phát triển các tố
chất thể lực và phối hợp vận động cho HS - SV. Đồng thời, giúp các em có trình
độ nhất định để tiếp thu được các kỹ thuật động tác TDTT.
Với mục tiêu chính của việc đào tạo cơ bản về thể chất và thể thao trong
trường học là: “Xúc tiến q trình đào tạo năng lực đạt thành tích trong thể chất
và thể thao của HS - SV, phát triển các tố chất thể lực, phát triển năng lực tâm
lý, tạo ý thức tập luyện TDTT thường xuyên, giáo dục được đức tính cơ bản và
lịng nhân đạo cho học sinh, sinh viên” [25].


10

Do vậy, giờ học chính khóa TDTT mang tính hành chính pháp quy, quy
định đối với HS - SV và cán bộ giảng dạy. Đó là, giờ học theo chương trình có
quy định thời gian và quy cách đánh giá chất lượng, được bắt đầu từ tập làm
quen từ mẫu giáo, sau đó là dạy TDTT theo chương trình ở các cấp, bậc học.
Giờ học TDTT quan trọng với quản lý và giáo dục con người. Việc học
tập các bài tập thể dục, các kỹ thuật động tác là điều kiện để con người phát triển
cơ thể một cách hài hịa, bảo vệ và củng cố sức khỏe, hình thành năng lực chung
và chun mơn, những phẩm chất ý chí của con người như: lịng dũng cảm, tính
mạnh dạn quyết đốn, tính kiên trì và khả năng tự kiềm chế...được hình thành và
hồn thiện. Các giờ học có vai trị rất lớn trong việc giáo dục lòng yêu nước, tinh
thần tập thể, sự thẳng thắn, trung thực.
- Giờ học ngoại khóa.

“Giờ học TDTT ngoại khóa là hình thức GDTC quan trọng, có tác dụng
hỗ trợ trực tiếp cho giờ học TDTT nội khóa, nhằm giúp cho sinh viên tiếp tục
luyện tập và hồn thiện kỹ thuật các mơn thể thao theo u cầu của chương
trình”[19].
Giờ học ngoại khóa giúp cho một bộ phận HS - SV có nhu cầu và ham
thích tập luyện TDTT trong thời gian nhàn rỗi với mục đích và nhiệm vụ là góp
phần phát triển năng lực, thể chất một cách tồn điện, đồng thời góp phần nâng
cao thành tích thể thao của HS - SV. Giờ học ngoại khóa nhằm củng cố và hồn
thiện các bài học chính khóa và được tiến hành vào giờ tự học của HS - SV dưới
sự hướng dẫn của giáo viên TDTT. Ngồi ra cịn các hoạt động thể thao quần
chúng ngoài giờ học bao gồm: luyện tập trong các CLB, các đội đại biểu từng
môn thể thao, các bài tập thể dục vệ sinh chống mệt mỏi hàng ngày, cũng như
giờ tự luyện tập của HS - SV, phong trào tự luyện tập, rèn luyện.
Hoạt động ngoại khóa với chức năng là vận động, lôi kéo nhiều người
tham gia tập luyện các mơn thể thao u thích, rèn luyện thân thể, tham gia cổ
vũ phong trào rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp.


11

Tác động của GDTC và các hình thức sử dụng TDTT có chủ đích áp dụng
trong các trường đại học là tồn diện, góp phần đóng góp phương tiện để hợp lý
hóa chế độ hoạt động, nghỉ ngơi tích cực, gìn giữ và nâng cao năng lực hoạt
động, học tập của HS - SV trong suốt thời kỳ học tập trong nhà trường, cũng
như đảm bảo chuẩn bị thể lực chung và chuẩn bị thể chất chuyên môn phù hợp
những điều kiện của nghề nghiệp trong tương lai.
Chương trình học gồm có hai phần: Nội dung cơ bản và nội dung tự chọn với
những nội dung: thức cơ sở về TDTT, điền kinh, thể dục cơ bản, nhào lộn và thể
dục dụng cụ, các mơn bóng, võ thuật...trong đó kiểm tra đánh giá thành tích mơn
học thể dục là một bộ phận cấu thành nhằm đánh giá công tác TDTT trường học và

hiệu quả giáo dục toàn diện với học sinh [15].
Căn cứ vào cơ sở lý luận đánh giá chất lượng giáo dục, mục đích u cầu của
chương trình GDTC theo quyết định 203/QĐ TDTT ngày 23/01/1989 của Bộ Đại
học - trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (nay là Bộ giáo dục và đào tạo), đánh
giá chất lượng GDTC của HS - SV tiến hành theo các nội dung.
- Kiến thức lý luận về GDTC được quy định theo chương trình.
- Kỹ năng thực hiện kỹ thuật các môn thể thao.
- Thực hiện các chỉ tiêu thể dục theo nội dung tiêu chuẩn rèn luyện thân thể.
- Tính chuyên cần và hứng thú tập luyện, thi đấu thể thao [15].
1.2.3. Hoạt động thể thao ngoại khóa trong các Trường Đại học, Cao
đẳng và chuyên nghiệp
Hoạt động thể thao ngoại khóa của các trường ĐH - CĐ và chuyên nghiệp ở
các khu vực chủ yếu do Hội đồng thể thao đại học và chuyên nghiệp các cấp chủ
trì và phối hợp của đoàn thể quần chúng trong trường (Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh, Hội sinh viên, Cơng đồn) qua các hoạt động chủ yếu:
- Ở trường: Phong trào rèn luyện thân thể và tập luyện các môn thể thao,
phong trào các CLB và đội tuyển.
- Đại hội thể thao cấp trường hằng năm hoặc hai năm một lần.


12

- Ở khu vục trường: Do các hội thể thao đại học và chuyên nghiệp tỉnh,
thành phố chủ trì.
+ Hàng năm, tại các khu vực được tổ chức nhiều hoạt động thể thao theo
chương trình chung của Trung ương hội và các môn thể thao truyền thống khác
của địa phương.
+ Một số khu vực như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, TP.Hồ Chí Minh,
Cửu Long Giang cịn tổ chức Đại hội thể thao sinh viên hai năm/lần hoặc 4
năm/lần.

- Hoạt động thể thao toàn quốc.
Hội thể thao đại học và chuyên nghiệp Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Bộ
GD&ĐT đã phát động phong trào và tổ chức định kỳ các hoạt động sau:
+ Hội thi nghiệp vụ sư phạm, văn nghệ, TDTT khối các trường sư phạm
được tổ chức quy mơ tồn quốc và định kỳ 4 năm/lần.
+ Đại hội TDTT sinh viên toàn quốc 4 năm/lần.
Phong trào này đã trở thành truyền thống và thực sự có tác dụng cổ vũ đông
đảo sinh viên tham gia và tạo sân chơi rèn luyện thân thể và nâng cao thành tích
thể thao cho sinh viên.
- Hoạt động thể thao quốc tế.
Hội thể thao Đại học và Chuyên nghiệp Việt Nam là tổ chức Hội có mối
quan hệ quốc tế rộng rãi, là thành viên chính thức của Liên đồn thể thao đại học
thế giới FISU, của liên đoàn thể thao đại học Châu Âu và hội đồng thể thao Đại
học Đông Nam Á.
Hội được phép của Bộ GD&ĐT đã chuẩn bị và cử nhiều đoàn thể thao đi
tham dự đại hội thể thao sinh viên thế giới (Universiad), các giải vô địch từng
môn thể thao sinh viên thế giới, các đại hội thể thao và giải vô địch từng môn
thể thao của khu vực ASEAN.
Hội đã tiếp nhiều đoàn thể thao sinh viên các nước ở Việt Nam và đặc biệt
năm 2006, dưới sự chỉ đạo của Bộ GD&ĐT, sự phối hợp giúp đỡ của Uỷ ban


13

TDTT và các ngành liên quan, hội đã đăng cai tổ chức thành công Đại hội thể
thao sinh viên Đông Nam Á lần thứ 13 tại Hà Nội.
Tuy vậy, phong trào thể thao quần chúng ngoại khoá của HS - SV trong
trường tồn tại một số hạn chế:
+ Số HS - SV có điều kiện và tự giác tham gia rèn luyện thân thể và hoạt
động thể thao còn thấp.

+ Điều kiện về cơ sở vật chất, điều kiện học tập, đời sống cả về huấn luyện
dành cho thể thao thành thích cao của HS - SV cịn q nhiều hạn chế khó khăn.
1.2.4. Cơng tác tổ chức, quản lý phong trào tập luyện TDTT
Quản lý TDTT góp phần đắc lực vào việc thực hiện mục tiêu xã hội của
Đảng và Nhà nước, xúc tiến quá trình phát triển xã hội, qua đó xác định các mục
tiêu thực tế có nhu cầu cho TDTT, phối hợp với các cơ quan Nhà nước và tổ
chức xã hội, đảm bảo các điều kiện cần thiết như: công tác tư tưởng, cán bộ, vật
chất, kỹ thuật để giải quyết các nhiệm vụ, mục tiêu của TDTT.
Tổ chức quản lý phong trào phải đảm bảo tiến hành một cách khoa học, kết
hợp chặt chẽ giữa giờ học chính khố và thể thao ngoại khố. Tập luyện ngoại
khố là nhu cầu và ham thích của một bộ phận HS - SV trong khi nhàn rỗi, góp
phần phát triển năng lực thể chất và nâng cao thành tích thể thao của HS - SV.
Khoa học quản lý TDTT đã chỉ rằng công tác GDTC trong nhà trường hay
là TDTT trong thế hệ trẻ có mục đích và nhiệm vụ chính là: góp phần phát triển
năng lực toàn diện và đặc thù của mỗi em. Đồng thời góp phần vào việc hồn
thiện thể chất, khả năng đạt thành tích thể thao cho các em.
Trong đó, mục tiêu chính của việc đào tạo cơ bản về thể chất và thể thao
trong trường học là:
+ Xúc tiến quá trình đào tạo việc đạt thành tích trong thể chất và thể thao
của HS - SV;
+ Phát triển các tố chất thể lực và chức năng của cơ thể;
+ Phát triển tố chất phối hợp các động tác;


14

+ Phát triển năng lực tâm lý cho các em, sẵn sàng tập luyện, phấn đấu trong
tập luyện, thi đấu;
+ Tạo cho các em ý thức tập luyện, TDTT thường xuyên, xây dựng hứng
thú bền vững, lâu dài cho HS - SV;

+ Giáo dục đạo đức thể chất cho HS - SV.
Do đó, nhiệm vụ của cơng tác tổ chức quản lý phong trào luyện tập TDTT
trong nhà trường phải đưa chương trình dạy thống nhất có tính kế thừa theo đặc
điểm lứa tuổi. Đồng thời, việc xác định mục tiêu công tác TDTT trong thế hệ trẻ
không chỉ xác định mục tiêu kiến thức không mà phải đảm bảo thống nhất giữa
các mặt: kiến thức, thể lực và kỹ thuật động tác. Cần đưa chương trình dạy thể
dục ở Phổ thông đến Đại học thành pháp lệnh, kế hoạch, cần có chế độ thích hợp
để động viên việc tổ chức hướng dẫn hoạt động ngoại khoá TDTT cho HS - SV.
Trong công tác GDTC, phải đảm bảo thực hiện tốt công tác tập luyện, giảng
dạy, huấn luyện, thi đấu thể thao trong HS - SV tổ chức các CLB thể thao, các
lớp tự tập luyện, các đội tuyển các môn thể thao. Đồng thời công tác tập luyện
huấn luyện thi đấu phải đóng góp vào các hoạt động văn hố tinh thần của đơng
đảo HS - SV.
1.2.5. Những yếu tố đảm bảo cho công tác GDTC
GDTC là một mặt giáo dục đào tạo trong nhà trường, do vậy, cần phải có
sự đầu tư trang thiết bị những điều kiện đảm bảo cần thiết phục vụ cho công tác
giảng dạy và học tập ngoại khoá, cũng như tự rèn luyện thể thao và hoạt động
văn hoá - thể thao của HS - SV. “Từng trường có định mức kinh phí phục vụ
cho cơng tác GDTC và hoạt động văn hố thể thao của HS - SV trong quá trình
giáo dục. Từng trường phải đảm bảo yêu cầu tối thiểu về các phương tiện dụng
cụ phục vụ dạy học và học TDTT theo chương trình GDTC và hoạt động thể
thao của nhà trường”.
Do vậy, phải tạo mọi điều kiện cần thiết và cơ sở vật chất và kinh phí để thực
hiện việc dạy và học thể dục bắt buộc tất cả các trường học. Ban quy hoạch xây dựng
và nâng cấp trường phải đảm bảo sân chơi, bãi tập cho HS - SV.


15

Các văn bản pháp quy, quy chế quy định tính bắt buộc thực hiện cơng tác

GDTC trong nhà trường. Đó cũng là những Chỉ thị, hướng dẫn của Đảng, Nhà
nước và lãnh đạo Bộ GD&ĐT về tổ chức hướng dẫn thực hiện công tác GDTC
và các quy phạm đánh giá, cũng như những văn bản chế độ chính sách động
viên, chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật về các tổ chức, cá nhân tham gia thực
hiện công tác GDTC để GDTC là một cơng tác của tồn xã hội.
Cơng tác cán bộ giảng dạy và quản lý phong trào TDTT trong các trường
ĐH - CĐ là nhân tố quyết định công tác GDTC, tiến hành việc dạy và học thể
dục theo chương trình quy định, tổ chức hướng dẫn các hoạt động ngoại khoá và
huấn luyện các đội tuyển thể thao HS - SV, tổ chức ngày hội thể thao của nhà
trường và tham gia các hoạt động chung của ngành, địa phương và toàn quốc.
Đồng thời phối hợp với cơ quan y tế tổ chức khám và phân loại sức khoẻ cho
học sinh, để có biện pháp tập luyện riêng cho những HS - SV sức khoẻ yếu, phát
hiện và bồi dưỡng những HS - SV có năng khiếu về thể thao.
1.3. Cơ sở lý luận về Câu lạc bộ TDTT cơ sở
1.3.1. Khái niệm về Câu lạc bộ TDTT cơ sở
Khái niệm CLB TDTT hoặc CLB TDTT cơ sở có cùng một bản chất, trên
thế giới và Việt Nam đã có những tác giả phân tích khái niệm này. Trong cuốn
giáo trình “Hoạt động quản lý TDTT ở Cộng Hòa Dân Chủ Đức” của trường Đại
học TDTT Leipzig đã xác định “Các CLB TDTT cơ sở được coi như những
trung tâm và nền tảng của việc tập luyện TDTT trong Liên đoàn TDTT Đức, để
tổ chức lĩnh vực thể thao cho con người. Trong CLB TDTT bao gồm những vận
động viên, một mặt nhằm phát huy những sở trường thể thao của họ trong các bộ
môn thể thao hay các nhóm thể thao và mặt khác để hướng dẫn, thu hút cả người
dân tham gia tập luyện TDTT”. Tương tự Klaus Wuhrl - Struller trong cuốn
sách “Phương án quản lý chiến lược đối với Hội thể thao Đức” đã coi: “Đơn vị
TDTT cơ sở (hay CLB TDTT cơ sở) là nền tảng của Hội thể thao Đức, nếu
khơng có nó và hoạt động của nó thì khơng thể đánh giá được những hoạt động
của hội thể thao Đức”.



16

Theo từ điển thuật ngữ nước ngoài Nhà xuất bản Matxcơva năm 1975 định
nghĩa CLB: “Câu lạc bộ là tổ chức xã hội liên kết nhóm người với mục đích giao
lưu, trao đổi với nhau những vấn đề chính trị, khoa học, văn hóa, nghệ thuật,
nghề nghiệp, tâm tư, tình cảm, ham muốn, hành vi, cuộc sống của con người”.
Trong cuốn sách “Quản lý học thể dục thể thao” (tài liệu giảng dạy tại các học
viện TDTT Trung Quốc) do nhà xuất bản TDTT xuất bản năm 1996 có đề cập:
“CLB Văn hóa thể thao là một hình thức tổ chức hoạt động TDTT xã hội” [38].
Trong luật TDTT được Quốc hội thơng qua ngày 29/11/2006 có xác định
“CLB TDTT là loại hình cơ sở thể thao” [36].
Trong cuốn sách “Lý luận và thực tiễn lập kế hoạch Quản lý thể dục thể
thao” (sách chuyên khảo giảng dạy đại học và sau đại học) - Nhà xuất bản
TDTT năm 2009 có đề cập về CLB thể dục thể thao: “Hình thức tổ chức hoạt
động TDTT của những người cùng hứng thú đạt đến mục tiêu của TDTT được
thành lập theo trình tự quy định, có cơ sở vật chất hoặc sân bãi tương đối ổn
định, được tổ chức hướng dẫn theo kế hoạch” [22].
Thông tư số 18/2011/TT-BVTTL ngày 02/12/2011 quy định mẫu về tổ
chức và hoạt động của CLB TDTT cơ sở thì “CLB TDTT cơ sở là tổ chức tự
nguyện, được thành lập tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị lực lượng vũ trang,
trường học, doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ...” [20].
Từ các phân tích về khái niệm CLB TDTT của các nhà khoa học và các
giáo trình, văn bản pháp quy trong và ngồi nước, có thể hiểu khái niệm CLB
TDTT như sau:
Là một tổ chức xã hội về TDTT;
Là nền tảng, tế bào của hệ thống tổ chức, quản lý TDTT, là đơn vị cơ sở
TDTT;
Người tập trong CLB là những người có cùng sở thích về hoạt động TDTT
trên cơ sở tự nguyện, tự giác;
Tổ chức quản lý và hoạt động có tổ chức theo quy chế (pháp luật hiện

hành) có kế hoạch chương trình hoạt động thiết thực.


17

Như vậy CLB TDTT là đơn vị cơ sở TDTT có trình độ tổ chức cao và
hồn thiện ở cơ sở.
Đây là định nghĩa rất chung và rất rộng trong thiết chế xã hội. Trong các
khái niệm đều thể hiện CLB là tổ chức xã hội nhằm truyền bá, giáo dục, đào tạo,
xây dựng con người phát triển về các mặt chính trị, tư tưởng, văn hóa nghệ
thuật, TDTT, nghề nghiệp và lối sống. Đây là tổ chức giáo dục mang tính chất
xã hội [20].
Để giáo dục và đào tạo con người về một lĩnh vực nào đó, góp phần xây
dựng con người phát triển tồn diện thì có hai hệ thống giáo dục: Hệ thống giáo
dục chính thống của Nhà nước bắt buộc; Hệ thống giáo dục xã hội dựa trên sự tự
nguyện ham thích của mỗi người dân, còn gọi là hệ thống giáo dục tự nguyện.
CLB trong xã hội là một loại hình giáo dục tự nguyện nằm trong hệ thống giáo
dục xã hội.
1.3.2. Vị trí Câu lạc bộ TDTT cơ sở
Vị trí của CLB TDTT trong hệ thống tổ chức - quản lý TDTT được thể hiện
ở các điểm sau:
- CLB TDTT là tế bào, là nền tảng của hệ thống tổ chức quản lý TDTT, nên
nó quyết định tính hiệu quả, tính hợp lý, tính hệ thống của một tổ chức TDTT;
- CLB TDTT là nơi trực tiếp triển khai việc huấn luyện, tập luyện một cách
có mục đích đến VĐV, người tập và chính ở đây VĐV, người tập được thụ
hưởng các lợi ích của TDTT;
- Khơng có các hoạt động của CLB TDTT thì khơng thể đánh giá chính xác
và khoa học hiệu quả quản lý phong trào TDTT;
- Mạng lưới CLB TDTT càng rộng, càng tổ chức chặt chẽ, càng thu hút
được nhiều người tập, tạo cơ sở để nâng cao thể chất, phát triển toàn diện lực

lượng lao động xã hội, góp phần nâng cao năng suất lao động, cơng tác...
Bản chất của CLB TDTT: Xét một cách toàn diện theo hướng phát triển
kinh tế thị trường có định hướng XHCN thì CLB TDTT được thành lập xuất
phát từ nhu cầu, nguyện vọng của những nhóm người, nhóm VĐV để phát huy


18

và hưởng thụ những lợi ích của TDTT, từ đó mục đích của từng người, nhóm
người được thỏa mãn. Mặc dù mục đích của vận động viên là phát triển thành
tích thể thao, cịn mục đích của người tập hay nhóm người tập là nâng cao sức
khỏe hoặc giải trí thì hoạt động của CLB TDTT phải đảm bảo theo nguyên tắc
tự nguyện, tự giác, tích cực và tuân thủ quy chế và pháp luật hiện hành.
Hiệu quả hoạt động của CLB TDTT cơ sở quyết định sự tồn tại hay không
tồn tại của CLB TDTT cơ sở, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý TDTT.
1.3.3. Những đặc điểm cơ bản và cơ cấu tổ chức quản lý của Câu lạc bộ
TDTT cơ sở
1.3.3.1. Những đặc điểm cơ bản của Câu lạc bộ TDTT cơ sở
Tổng hợp và hệ thống hóa các tài liệu có liên quan [8],[9],[10] đã rút ra
những đặc điểm của CLB TDTT sau:
- Đặc điểm quần chúng, tự nguyện, tự giác: Đối tượng tham gia để trở
thành thành viên CLB TDTT rất đa dạng, không phân biệt giới tính, độ tuổi,
nghề nghiệp đối với VĐV thì mục đích của họ là nâng cao thành tích thể thao
cịn người tập phổ cập thì mục đích của họ là nâng cao sức khỏe hay giải trí. Đặc
điểm quần chúng thể hiện tính tự giác cao, tính tự nguyện sâu sắc.
- Trình độ tổ chức quản lý CLB TDTT: CLB TDTT cơ sở là loại hình tổ
chức người tập có trình độ quản lý tổ chức cao nhất trong các tổ chức người tập
ở cơ sở. Các hình thức tổ chức người tập ở cơ sở có quy mơ đơn giản là: Gia
đình thể thao, tổ nhóm tập luyện thể thao, đội thể thao. Còn CLB TDTT ở cơ sở
là tổ chức gồm tất cả các hình thức tổ chức người tập đơn giản nói trên. Vì vậy,

địi hỏi trình độ tổ chức, quản lý của CLB phải rất khoa học và chặt chẽ. Để đảm
bảo và đáp ứng các nguyện vọng của các loại đối tượng người tập thì cơng việc
xây dựng văn bản pháp quy quản lý CLB phải khoa học. Xây dựng cơ cấu bộ
máy CLB phải phù hợp với năng lực và đối tượng tham gia. Các hoạt động quản
lý của CLB phải hoàn chỉnh như: xây dựng kế hoạch, chương trình tập luyện
cho các loại đối tượng với mục đích khác nhau, cơng tác kiểm tra giám sát,


19

hướng dẫn phải có khoa học. Do đó trình độ tổ chức quản lý và hoạt động của
CLB TDTT phải ở trình độ cao và phức tạp hơn.
Trình độ tổ chức và hoạt động của CLB TDTT được thể hiện ở các mặt sau:
Người tập TDTT trong tổ chức hợp pháp chính thống trong xã hội (có quy
chế hoạt động được sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, cơ
quan chức năng, tổ chức xã hội). Người tập được đảm bảo cơ sở vật chất và chỗ
tập để tập luyện (tại các cơng trình TDTT hoặc nơi công cộng). Người tập được
tập luyện một cách khoa học, có người hướng dẫn (HDV), tập theo chương trình
khoa học, được chăm sóc y học và kiểm tra đánh giá sức khỏe. Người tập được
khuyến khích tham gia thi đấu TDTT. Người tập được tham gia các hoạt động
phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước và địa phương (các ngày kỷ
niệm lớn, lễ hội truyền thống, giao lưu văn hóa - TDTT).
- Đặc điểm phi lợi nhuận của CLB TDTT: Mục tiêu của CLB TDTT là
phấn đấu đáp ứng mọi nhu cầu của các đối tượng (VĐV) hay quần chúng mà
không được quá thiên về lợi nhuận kinh tế (trừ CLB TDTT của tư nhân). Khi xã
hội thừa nhận những lợi ích của CLB TDTT đem lại và đáp ứng mục đích của
người tập, đương nhiên họ sẽ tự nguyện và đáp ứng những nhu cầu của CLB (Ví
dụ: qun góp, tài trợ, xây dựng cơ sở vật chất…)
- CLB TDTT là trung tâm để triển khai việc tập luyện, huấn luyện và thi
đấu thể thao: Tập luyện, huấn luyện và thi đấu thể thao là 3 nội dung hoạt động

chính của các loại hình CLB TDTT. Đây là 3 nội dung cơ bản, không thể thiếu
để duy trì và tồn tại của CLB TDTT. Chỉ khi người tham gia CLB được hướng
dẫn tập luyện, được huấn luyện nâng cao thành tích thể thao để tham gia thi đấu
các giải thể thao do nội bộ CLB tổ chức hoặc do cấp trên tổ chức thì khi đó mới
tạo ra tính tích cực hăng say tập luyện của người tập. Đồng thời chỉ thông qua
các giải thi đấu thể thao thì mới quản lý chỉ đạo duy trì hoạt động thường xuyên
của CLB.
- Đặc điểm tự quản trong quản lý, tự bảo đảm nguồn lực cho hoạt động của
CLB TDTT cơ sở: CLB TDTT phải tuân thủ hình thức bầu cử để bầu ra Ban chủ


20

nhiệm CLB và các tiểu ban chuyên môn. Việc tuân thủ và vận dụng tri thức
quản lý TDTT đòi hỏi mỗi cá nhân, tập thể Ban chủ nhiệm phải năng động, sáng
tạo, tự bồi dưỡng, học tập và tìm tịi các biện pháp quản lý cho thích hợp. Hợp
tác và phân công lao động là bản chất của quản lý. Trong điều kiện tự quản thì
muốn bảo đảm được các nguồn kinh phí cho các hoạt động của CLB TDTT và
tạo được nền tảng cơ sở vật chất cần thiết thì họ phải rất sáng tạo trong hợp tác
và phân công lao động hợp lý, biết tranh thủ sự hỗ trợ và giúp đỡ đắc lực của
Nhà trường, biết khai thác các nguồn lực xã hội và các tổ chức kinh tế có mối
quan hệ với Nhà trường.
- Đảm bảo tính khoa học trong huấn luyện và hướng dẫn tập luyện cho
người tập: Thực tiễn trên thế giới và trong nước, khi thành lập CLB về nguyên
tắc trong mỗi CLB TDTT đều có những VĐV làm nịng cốt vừa để huấn luyện
nâng cao thành tích mơn thể thao đó cho những VĐV đó, đồng thời học lại là
những HDV, người tuyên truyền thu hút người tập cho CLB.
1.3.3.2. Cơ cấu tổ chức quản lý của Câu lạc bộ TDTT cơ sở
Cơ cấu tổ chức quản lý của Câu lạc bộ TDTT cơ sở gồm các thành phần sau:
1/ Hệ thống mục tiêu của CLB TDTT đều có mục tiêu cần đạt tới là: Tăng

cường sức khỏe, phát triển thể lực - thể chất, vui chơi giải trí, nghỉ ngơi tích cực,
nâng cao thành tích, tài nghệ thể thao góp phần tăng năng suất lao động, xây
dựng đời sống văn hóa và đào tạo con người mới phát triển toàn diện.
2/ Đối tượng và sản phẩm cụ thể của CLB TDTT là con người thuộc các
tầng lớp xã hội, giới tính, lứa tuổi, trình độ tập luyện, tình trạng sức khỏe và thể
lực của người tập. Sản phẩm là số người tập TDTT thường xuyên, số người đạt
tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, VĐV và thành tích thi đấu.
3/ Cơ cấu tổ chức và cán bộ chuyện môn TDTT và các bộ phận khác nằm
trong cơ cấu tổ chức của CLB TDTT.
4/ Hệ thống cơ sở vật chất, dụng cụ, kinh phí hoạt động nhằm đảm bảo cho
CLB TDTT hoạt động và mục tiêu đề ra.



×