Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

BẢO TÀNG LOUIS FINOT, SỰ HÌNH THÀNH VÀ BIẾN ĐỔI CỦA BẢO TÀNG LỊCH SỬ Ở HÀ NỘI - Full 10 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.23 MB, 15 trang )

Sự hình thành và biến đổi

của bảo tàng lịch sử ở Hà Nội,
Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO)
và việc xây dựng bảo tàng quốc gia

TS. PHILIPPE LE FAILLER

(Viện Viễn Đơng Bác cổ Pháp tại Hà Nội)

Ngồi nhiệm vụ nghiên cứu, Viện Viễn Đông Bác ở Đông Dương đã thông qua luật năm 1887 của
cổ Pháp đã thực hiện một khối lượng lớn công Pháp về các cơng trình lịch sử bằng việc công bố
việc về bảo tồn và bảo tàng (muséographie) từ một nghị định “liên quan đến việc bảo tồn các
năm 1900 đến năm 1958. Trong bài viết này, tác cơng trình và các hiện vật có giá trị lịch sử hoặc
giả tập trung giới thiệu các giai đoạn phát triển nghệ thuật”.
chính của một bảo tàng lớn ở Hà Nội - Bảo tàng
Louis Finot, hoài bão của những người sáng lập, Trong suốt một thời gian dài, EFEO thu thập
những thành tựu đạt được cũng như những lợi các hiện vật và được hưởng lợi từ các sáng kiến
thế và hạn chế của bảo tàng này trong bối cảnh của những người sưu tầm khơng chun nhưng có
lịch sử đương thời. nhiều hiểu biết - những người đã đóng góp khám
phá của họ cho Viện, ngay cả khi chúng không
* phải lúc nào cũng tiến hành theo đúng phương
pháp khoa học cần thiết. Thật vậy, Viện không tự
* * thực hiện tất cả các cuộc khai quật khảo cổ học,
điều này đơi khi bị chỉ trích và dẫn đến một cuộc
Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO) được thẩm vấn vào năm 1936. Trong bối cảnh thuộc
thành lập năm 1900, tiền thân là Phái đoàn địa thời đó, khi các quy trình khoa học yêu cầu kỹ
khảo cổ đầu tiên tại Đông Dương (1898). Như lưỡng hơn và tri thức về các nền văn hóa châu Á
vậy, căn cứ vào văn bản thành lập(1), ngồi hoạt vẫn là cơng việc của số ít các chuyên gia, mong
động nghiên cứu, phân loại các cơng trình lịch muốn nghiên cứu về mọi lĩnh vực ở tất cả các thời
sử, Viện đã được giao trọng trách về bảo tồn và kỳ gần như là nhiệm vụ khó khả thi. Nhưng Viện


trưng bày bảo tàng từ rất sớm. Năm 1900, EFEO

17

Museum Bulletin

Hình 1. Bảo tàng Louis Finot nhìn từ bên ngồi: lối vào và phía bên trái
(Nguồn: EFEO VIE08918)

đã cố gắng thực hiện điều này và vì vậy, các bộ là nơi đặt các cơ quan chủ chốt. Vì vậy thành
sưu tập của Viện ngày càng lớn theo thời gian phố này theo cảm nhận ban đầu được ưu tiên
và EFEO đã phát huy giá trị của các bộ sưu tập lựa chọn, hơn là Sài Gòn, cho việc xây dựng một
này cùng với chuỗi 8 bảo tàng, trong đó có 5 bảo bảo tàng lớn ở Đông Dương. Trước đây, Viện đã
tàng ở Việt Nam do EFEO thành lập và quản lý trưng bày các bộ sưu tập đầu tiên của mình trong
trong thời kỳ Đơng Dương Pháp. khuôn viên Viện trên đường Pellegrin ở Sài Gòn
(đường Pasteur hiện nay) nhưng Viện vẫn chưa
Bảo tàng quan trọng nhất trong số những bảo thành lập một bảo tàng thực sự. Việc buộc phải
tàng này chắc chắn là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, chuyển ra Hà Nội nhằm tạo động lực mới cho các
hiện nay nằm ở số 1 phố Phạm Ngũ Lão (Hà Nội), dự án về bảo tàng của Viện.
nơi vẫn có thể nhìn thấy biểu tượng của Viện ở
phần trên tòa nhà bát giác. Lịch sử của tòa nhà Louis Finot, giám đốc của EFEO trong một
này gắn liền với lịch sử của EFEO tại Việt Nam, thời gian dài, thực sự có nhiều hồi bão với Viện
từ đó trở thành một phần di sản kiến ​t​ rúc được của mình(2). Ấn tượng với những thành tựu của
công nhận của thủ đô. người Anh ở Ấn Độ (bảo tàng Calcutta thành
lập năm 1814, bảo tàng Colombo năm 1877) và
Những bảo tàng đầu tiên của người Hà Lan ở Indonesia (bảo tàng Batavia
thành lập năm 1778), ông nhiều lần đề nghị nhà
Năm 1902, việc đặt EFEO tại Hà Nội là kết cầm quyền phải thành lập một bảo tàng ở Đơng
quả của một lựa chọn chính trị, trong đó xác định Dương, trước hết là cho phép tập hợp các tượng
Hà Nội là thủ đô của Liên minh Đông Dương và


18

Thông báo khoa hoc

điêu khắc và bi ký Chăm thu thập được trong các chỉ Khmer và Chăm. EFEO đang nghĩ đến việc
mùa khai quật đầu tiên - những hiện vật không trưng bày các triển lãm lâu dài tại Nhà đấu xảo,
thể được bảo tồn tại chỗ. nơi đã được hứa hẹn sẽ trở thành bảo tàng của
Viện ngay khi kết thúc Hội chợ Hà Nội 1902.
Các nhà chức trách thuộc địa sau đó muốn Nhưng một cơn bão đã làm thay đổi kế hoạch.
gây ấn tượng với công chúng nên đã tổ chức Vào ngày 7 tháng 6 năm 1903, sức gió lớn đã
một cuộc hội chợ lớn vào năm 1902 và EFEO phá hủy một phần tịa nhà, chính xác là nơi lưu
phải tham gia vào sự kiện này(3). Hội chợ đầu trữ các bộ sưu tập của EFEO.
tiên được tổ chức gấp rút ở cánh trái của Nhà
đấu xảo, nơi trưng bày các tác phẩm được mang EFEO do đó đã chuyển đến số 26 đại lộ
về từ Sài Gòn (đồ sứ Trung Quốc, ngọc thạch, Carreau (phố Lý Thường Kiệt hiện nay) vào năm
tranh vẽ, tiền cổ và một số bản thảo quý hiếm). 1905, là trung tâm chính của Viện cho đến năm
Trong số này có thêm tượng của các vị thần 1957. Thư viện, phòng học và văn phịng cịn
được người Việt tơn thờ mà Gustave Dumoutier ít chỗ trong khi các hiện vật của bảo tàng lại
(1850-1904) đã giao cho nhà điêu khắc Việt chất thành đống, cho đến năm 1908, vì thiếu
Nam Nguyễn Đăng Chinh thực hiện (BEFEO không gian nên EFEO đã từ bỏ việc mua các
1902: 419) cũng như sơ đồ và hình ảnh về các di hiện vật lớn.

Hình 2. Tịa nhà chính của bảo tàng cũ của Viện tại Hà Nội năm 1913, nhìn từ mặt phía Tây
(Nguồn: EFEO VIE08775)

19

Museum Bulletin


Năm 1908, các nhà chức trách cho phép Hình 3. Cuốn sách “Hướng dẫn tham quan Bảo tàng” của
EFEO đặt bảo tàng bên bờ sông Hồng, trên vị trí H. Parmentier được Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp xuất bản
của Phủ Tồn quyền Đơng Dương trước đây - nơi năm 1915
nhượng địa đầu tiên của Pháp được thành lập vào
năm 1873(4). Tòa nhà hai tầng này từng là nơi ở vật chính trị, quân sự người Pháp (nhà khảo cổ
của Lãnh sự Pháp cho đến năm 1883, sau đó là học Charles Carpeaux, nhà thám hiểm Prosper
Quan Tổng Trú sứ từ 1884 đến 1887 và cuối cùng Odend’hal, nhà tự nhiên học Henri Mouhot,
là Tồn quyền từ 1888 đến 1907, sau đó Trường Paul Bert, Francis Garnier, Henri Rivière ... Bảo
Đại học Đông Dương chuyển đến đây một thời tàng phần lớn phục vụ các chuyên gia và chỉ mở
gian ngắn. Do đó, EFEO được thành lập tại một cửa cho công chúng vào thứ Năm và Chủ Nhật)
địa điểm “lịch sử” của thuộc địa Pháp, vì là nơi mà (BEFEO 1911: 480).
Henri Rivière đã sống và Paul Bert đã làm việc và
qua đời tại đây. Tòa nhà được tân trang lại vào năm 1915, các
bộ sưu tập được sắp xếp lại, và bảo tàng một lần
Trong cuốn “Hướng dẫn tham quan Bảo tàng” nữa được khánh thành vào ngày 28 tháng 11 năm
xuất bản năm 1915 của mình, Henri Parmentier, 1915 bởi Tồn quyền Roume. Chính trong dịp này,
người đứng đầu Ban Khảo cổ học của EFEO và cuốn Hướng dẫn tham quan Bảo tàng đầu tiên do
sau đó là Giám đốc Bảo tàng EFEO, đã viết: “Về Parmentier biên soạn đã được xuất bản. Cần lưu
mặt lịch sử, địa điểm này ở một cấp độ cao vì bây ý rằng các chỉ dẫn của bảo tàng bằng tiếng Pháp,
giờ Hoàng thành đã biến mất, các tường hào bị mặc dù Parmentier đưa ra các chỉ dẫn bằng "ký
phá hủy, chùa Báo Ân vơ tình bị san lấp, cơng tự" mà khơng có thêm giải thích rõ ràng. Nhưng
trình cổ kính này và Ơ Quan Chưởng (porte Jean các bộ sưu tập ngày càng nhiều và cần phải được
Dupuis) là một trong những dấu tích cuối cùng sắp đặt lại vào năm 1922.
của Hà Nội xưa” (Parmentier H. 1915: 7). Do đó,
khá hợp lý khi bảo tàng nằm trong tịa nhà đáng
kính này, một nơi chứa nhiều ký ức bị mất đi nằm
giữa những hàng phượng vĩ khổng lồ.

Năm 1909 sau đó, nhà trưng bày đầu tiên
này được Henri Parmentier sắp xếp lại và lấy

tên là Bảo tàng Khảo cổ học và Dân tộc học Hà
Nội. Các bộ sưu tập của bảo tàng được chuyển
từ đại lộ Carreau đến phố Concession (nay là
phố Phạm Ngũ Lão) và Toàn quyền Klobukowski
khánh thành bảo tàng mới vào ngày 6 tháng 11
năm 1910 (BEFEO 1910: 733). Công việc tổ chức
bảo tàng được tiến hành mau chóng, cùng lúc
ấp ủ dự án lập một bản kiểm kê khảo cổ học của
Đông Dương. Trong khi đó, các bộ sưu tập từ
Trung Quốc, các tài liệu dân tộc học, các công
cụ đồ đá mới... đã được bổ sung. Việc trình bày
các bộ sưu tập theo nguyên tắc được thông qua
vào năm 1906 về sự phân chia thành hai nhóm
lớn: thế giới Ấn Độ và ‘Ấn Độ hóa’/thế giới
Trung Quốc và thế giới ‘Hán hóa’. Các phịng
trưng bày mang tên các nhà nghiên cứu và nhân

20

Thông báo khoa hoc

“Ngay từ năm 1922, các bộ sưu tập đã không khoản tiền đặc biệt dành cho việc xây dựng một
còn nhiều chỗ chứa; các phòng trưng bày lẫn bảo tàng mới, trên nền đất của bảo tàng cũ,
lộn; đồ đạc bừa bộn trong những căn phòng nhưng lần này sẽ là một tòa nhà được thiết kế
quá nhỏ và thiếu ánh sáng; những đồ vật đáng riêng cho mục đích này. Việc phá dỡ Dinh cũ
ra được trưng bày nhất lại chất đống trong các của Toàn quyền bắt đầu vào tháng 7 năm 1925.
tủ trưng bày, nằm khuất tầm nhìn của du khách Trước đó, các bộ sưu tập được chất đống trong
tham quan; và thế là các kho của Viện có nhiều hai tòa nhà trên Đại lộ Carreau cho đến tháng 6
tác phẩm thú vị nhưng lại thiếu chỗ trưng bày” năm 1930. Do ảnh hưởng của các trận bão cùng
(BEFEO 1925: 543-595). với sự thiếu kiên cố của mái nhà đã buộc EFEO

phải di dời các bộ sưu tập và tạm thời đóng cửa
Chính vì cảm thấy thiếu không gian trưng bảo tàng của Viện. Những hiện vật quan trọng
bày, ý tưởng về một bảo tàng mới nảy sinh và nhất (trống đồng Ngọc Lũ, mơ hình nhà từ mộ cổ
Parmentier đã phác thảo những bản vẽ đầu tiên, Nghi Vệ, tượng Phật Đồng Dương, tượng Quan
nhưng đó là một dinh thự thuộc địa khá cổ điển, Âm Nhật Bản, nhang án bằng đồng và đồ pháp
khơng có nét kiến trúc Việt Nam. lam thời Càn Long) được trưng bày trong thư
viện và phần cịn lại được đóng thùng (BEFEO
Tuy nhiên, từ năm 1917, Toàn quyền Albert 1930: 487 - 647).
Sarraut đã đưa ra chính sách mới về xây dựng tịa
nhà cơng, thay vì các dinh thự tân cổ điển đã được Theo yêu cầu của Louis Finot, Tồn quyền
xây dựng cho đến thời điểm đó, ơng muốn có cái Maurice Long ra quyết định xây dựng một bảo
nhìn rõ hơn về văn hóa của các nước Đơng Dương. tàng mới, nhưng chính người kế nhiệm của
Để làm được điều này, ông đã bổ nhiệm kiến trúc ông là Martial Merlin đã đăng ký với chính phủ
sư và nhà quy hoạch đơ thị Ernest Hébrard làm một khoản ngân sách để xây bảo tàng và phê
người đứng đầu Ban xây dựng dân dụng (service duyệt bản thảo sơ bộ do kiến trúc sư Ernest
des Bâtiments civils) (1923-1927)(5). Vốn đã nổi Hébrard thực hiện với sự hợp tác của kiến trúc
tiếng từ trước, Hébrard không thể chịu được sư Charles Batteur, thành viên của EFEO(6). Tài
những tòa nhà tân cổ điển “gây chướng mắt và có năng của Hébrard là hồn tồn có thể nhận
vẻ dị thường dưới bầu trời xa lạ” (Hebrard 1933: thấy trong dự án ban đầu, nhưng các sơ đồ kỹ
32-33). Ông đã sáng tạo một khái niệm kiến trúc thuật sau đó lại do Charles Batteur thực hiện
mới liên kết nghệ thuật và chức năng, lấy ý tưởng và cũng là người chỉ đạo công việc xây dựng
từ nhiều mái nhà, kết hợp các phong cách và tạo bảo tàng Hà Nội, ông đã công bố các bản vẽ và
ra một kiến trúc mới: kiến trúc Đông Dương” một bài viết trong Bản tin năm 1926 (BEFEO
(Pedelahore 1992; Lê Minh Sơn 2018). 1926: 444).

Vào thời điểm này, tại vườn bách thảo Sài Người ta hy vọng rằng tòa nhà rộng lớn này sẽ
Gòn, EFEO thành lập một bảo tàng lớn về lịch đáp ứng được sự gia tăng của các bộ sưu tập - điều
sử và nghệ thuật Viễn Đông, bảo tàng Blanchard vốn hạn chế giá trị của các tác phẩm khi trưng
de la Brosse (ngày nay là Bảo tàng Lịch sử Việt bày trong một không gian triển lãm quá nhỏ hẹp.
Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh). Bảo tàng này Người ta cũng nghĩ đến các không gian làm kho

do kiến trúc sư Auguste Delaval thiết kế theo và nghiên cứu. Cuối cùng, một bảo tàng thực sự
phong cách "Đông Dương", được khánh thành phải đảm bảo công chúng, kể cả người phương
vào ngày 1 tháng 1 năm 1929 và vì thế nó có Tây cũng như châu Á, đều có một tầm nhìn rõ
trước Bảo tàng Finot. ràng hơn đối với các tác phẩm trưng bày. "Việc
lựa chọn xây dựng bảo tàng lớn gây ấn tượng với
Việc xây dựng "Bảo tàng Finot" công chúng, một mặt dẫn đến việc mong muốn
giới thiệu bảo tàng theo cách mà những người
Năm 1925, Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp u
cầu và được Tồn quyền Đơng Dương cấp một

21

Museum Bulletin

đến thăm bảo tàng không thể không biết về sự tiền nhằm hạn chế những bất lợi do các lỗ cửa
tồn tại của nó” (BEFEO 1926: 411 - 519). mở ở mặt tiền khơng có mái hiên (ánh nắng trực
tiếp, tường quá nóng, phản xạ ánh sáng), mặt
Chính nhờ Hébrard, kiến trúc sư của bản dự khác, do mặt tiền được bảo vệ bởi hàng hiên
án sơ bộ, mà ta có ý tưởng về một tòa nhà gồm (thiếu khơng khí và ánh sáng tự nhiên, đắt tiền,
hai phần chính được liên kết với nhau, phần đầu bề mặt bị che khuất). Tòa nhà cũng xây dựng một
tiên, theo chiều cao và hình trịn, sẽ xây lên từ hệ thống thơng gió tự nhiên bằng cách tăng số
điểm cao của khu đất đối diện với quảng trường lượng các cửa hút gió và thốt khí được lắp đặt ở
và theo hướng nhìn của người qua đường (…); và các mặt tiền, trên mái nhà và các lỗ thông tầng.
phần thứ hai, tương đối hẹp, sẽ mở theo chiều Hệ thống tản nhiệt được đặt dưới tầng hầm, nơi
dài, nâng nền đất cao lên xấp xỉ ngang bằng phần cũng được sử dụng làm phòng chức năng. Các
thứ nhất và sẽ có mặt tiền hướng về sơng Hồng phòng dành cho các bộ sưu tập và bộ phận hành
và công viên (BEFEO 1926: 411 -519). Nhưng chính của bảo tàng nhưng phần lớn dùng để tạm
chính Charles Batteur thiết kế phần bố trí hồn trữ các mảnh hiện vật khảo cổ học.
toàn mới của mái hiên trang trí tơ điểm cho mặt


Hình 4. Bản phác thảo sơ đồ vườn và tường bao quanh Bảo tàng Louis Finot
(Nguồn: EFEO VIE08897)

22

Thông báo khoa hoc

Việc xây dựng tòa nhà rộng lớn 2.200m² này Từ cuối tháng 7 năm 1926, các trận mưa liên
bắt đầu vào tháng 1 năm 1926 và cơng trình được tục và lũ sông Hồng đã làm ngập công trường xây
giao cho công ty nổi tiếng với chủ nghĩa hiện đại - dựng và làm sụt lở bờ của các hố móng. Tuy nhiên,
Albert Aviat(7). Trong ý tưởng của các nhà thiết kế, cơng trình chỉ bị gián đoạn hồn tồn trong một
tịa nhà mới này, nằm sau Nhà hát lớn, có thể mở thời gian rất ngắn, nhưng chính vì việc này, tiến
rộng không gian triển lãm, mở thêm không gian độ bị chậm lại rất nhiều. Vào cuối năm, cơng trình
kho, khu bảo quản và phịng thí nghiệm, thậm chí hồn thiện phần móng bê tơng cốt thép, các điểm
hơn thế nữa, để biểu thị sự quan tâm của khoa học đỡ bê tông của sàn dưới tầng 1 được dựng ở dưới
châu Âu đối với các nền văn hóa châu Á. Tuy nhiên hầm, tường bên ngoài hầm và các thanh bê tơng
có một khả năng rủi ro là ​n​ hững yếu tố quý giá nhất cốt thép của tường, ngoại trừ một số phần của
mang tính đặc thù địa phương sẽ bị pha loãng trong lồng cầu thang và các cánh của tịa nhà bát giác.
mơi trường của chủ nghĩa hiện đại xung quanh. Vì
vậy, ý tưởng chính đã được đưa ra với nỗ lực nhằm Tấm bia đồ sộ Võ Cạnh, bản khắc chữ Phạn cổ
đạt được một sự tổng hợp đầy tham vọng, mà trong nhất được tìm thấy vào thời kỳ này, nặng 4 tấn cả
đó những ảnh hưởng của phương Đông và phương thùng, được đặt dưới chân tòa nhà đang xây dựng
Tây sẽ hòa quyện theo một phong cách mới có khả vì nó phải được gắn vào đúng vị trí trước khi hồn
năng tạo ấn tượng. Do đó, tịa nhà được thiết kế thành mặt sàn. Một bệ đỡ đặc biệt được xây dựng
theo "phong cách Đông Dương" do kiến ​t​ rúc sư cho tấm bia ở trên tầng 2, phần mở rộng cánh Tây(8).
Ernest Hebrard phối hợp với kiến ​t​ rúc sư của Viện
là Charles Batteur, quản thủ các cơng trình kiến Léonard Aurousseau, Giám đốc EFEO, trở về
trúc cổ ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Pháp vì lý do sức khỏe và rời Sài Gòn vào ngày 28
tháng 11 năm 1927. Do đó Louis Finot là người thay
Hình 5. Di chuyển bia Võ Cạnh năm 1926 thế ông và giám sát việc xây dựng. Ban đầu, công

(Nguồn: EFEO VIE08850) việc xây dựng Bảo tàng mới tiến triển bình thường.
Ngày 31 tháng 12 năm 1927, sàn bê tông ở tầng trệt
(sàn thứ 2) được hoàn thiện ở phần các phòng lớn
và phịng phía Nam. Phía trên sàn, trong cùng một
phần, các cột mặt tiền và các trụ bên trong được
hoàn thành đến tận phần trên của các mái che phía
mặt tiền, các mái che cũng đã được hoàn thiện.

Vào ngày 15 tháng 5 năm 1928, sàn cuối cùng
và phần đỡ của giàn mái được hồn thành phía
trên các phòng lớn, từ các phịng phía trước đến
phòng lớn và phòng sau cùng; trong các phần chỉ
ở trên một tầng bên hông nhà bát giác, tất cả
các cơng việc chính của phần xây dựng đã được
hoàn thành cũng như các giàn mái. Nhưng do
vượt quá ngân sách (vượt quá 1/6; số lượng vật
tư hoặc công việc dự kiến tại thời điểm bỏ thầu)
đã dẫn đến việc chấm dứt hợp đồng xây dựng vào
tháng 5 năm 1928. Công việc bị gián đoạn trong
một năm rưỡi cho đến khi Ban Xây dựng Dân
dụng tiếp quản vào tháng 10 năm 1929. Một thỏa
thuận trực tiếp đã được thông qua với nhà thầu
Việt Nam Trịnh Quý Khang(9), rằng các công việc
của bảo tàng phải hoàn thành trong 18 tháng.

23

Museum Bulletin

Hình 6. Q trình xây dựng Bảo tàng Viễn Đơng Bác cổ

(Nguồn: EFEO VIE08844, VIE08857, VIE08861)

24

Thông báo khoa hoc

Các vấn đề tài chính nảy sinh và chính quyền mật thiết với các trung tâm tri thức khác của
thuộc địa đã được yêu cầu bổ sung các khoản thành phố Hà Nội. Bảo tàng Hà Nội không nên
tiền. Nhưng bối cảnh kinh tế đã thay đổi. Thật chỉ được coi như là một nơi tổ chức các hoạt động
vậy, dự án xây dựng bảo tàng đã được phê duyệt khoa học đơn thuần, mà cịn là một dịch vụ cơng.
vào thời điểm nền kinh tế đang hưng thịnh, Bảo tàng bắt đầu chuyển đổi bằng cách tổ chức
nhưng cuộc đại khủng hoảng kinh tế năm 1929 các triển lãm chuyên đề, trong đó triển lãm đầu
đã ảnh hưởng nặng nề đến Đông Dương ngay từ tiên hiển nhiên dành cho quá khứ của thành phố
năm 1930-1931, và làm cạn kiệt tài chính thuộc này, tập hợp những ký ức lịch sử và nghệ thuật
địa. Các dự án lớn và tốn kém gặp phải các vấn đề tiêu biểu nhất của Hà Nội trong quá khứ.
lớn về tài chính. Batteur rời đi và kỹ sư Max Papi
là người phụ trách việc hoàn thành bảo tàng. Hình 7. Tấm áp phích (56 x 75 cm), hình nền là một con
rồng và ký tên J.Y.C. (Jean-Yves Claeys). Hà Nội, nhà in Viễn
Vào năm 1931, bảo tàng vẫn chưa hoàn thành, Đông, 1932.
nhưng những chiếc tủ trưng bày bằng kim loại
được đặt hàng từ châu Âu đã đến Hà Nội vào tháng Bảo tàng phải là một công cụ truyền thông,
12 và được lắp ráp ngay cũng như lắp thêm kính các nhà nghiên cứu của Viện thường chủ trì các
vào. Các phần chính của bộ sưu tập được trưng chuỗi hội thảo. Chỉ riêng trong năm 1933, các
bày tạm thời trong các phòng trưng bày để chờ đề tài được thực hiện bao gồm: Các nền văn
đợi chuyến thăm của Paul Reynaud, Bộ trưởng Bộ minh Đông Dương của G. Cœdès, Ấn Độ của
thuộc địa, diễn ra vào ngày 7 tháng 11 năm 1931. P. Mus, Tây Tạng của V. Goloubew, Campuchia
Bảo tàng gần như được hoàn thành, nhưng vẫn của G. Cœdès và V. Goloubew, Chăm-pa của J.
còn phải hoàn thiện. 1835m² mặt sàn hai tầng của Y. Claeys, Xiêm của G. Cœdès, Trung Quốc của
tòa nhà được dành cho trưng bày, tầng hầm được E. Gaspardone, Annam của J. Y. Claeys. Khoảng
sử dụng cho các văn phòng và kho.


Bảo tàng EFEO được khánh thành vào ngày 17
tháng 3 năm 1932, buổi lễ diễn ra dưới sự chủ trì
của Tồn quyền Pasquier, trước sự chứng kiến ​c​ ủa
các thân hào cao nhất Đông Dương và các thành
viên của cuộc viễn chinh Citroën(10). Sau bài phát
biểu, Georges Cœdès, Giám đốc EFEO, công bố
tấm bảng bằng đá cẩm thạch trên trán tường của
Bảo tàng có khắc tên "Musée Louis Finot" để tỏ
lịng kính trọng đối với nguyên Giám đốc của Viện.
Báo cáo khánh thành được viết bằng 5 thứ tiếng
(Pháp, Việt, Campuchia, Lào, Trung Quốc) được
đặt dưới một trong những tấm lát của ngưỡng
cửa ra vào (BEFEO 1933: 411 - 548). Nguyễn Văn
Tố, người đóng vai trò là Tổng thư ký của EFEO,
giới thiệu về bảo tàng và những tham vọng của nó
trên báo chí địa phương, lên trang nhất của báo
L’Avenir du Tonkin (Tương lai Bắc Kỳ).

Một trải nghiệm bảo tàng mới

Tham vọng của Coedès là làm cho bảo tàng
Louis Finot trở thành một cơ thể sống, gắn bó

25

Museum Bulletin

hơn 200 người Âu và Á tham gia các buổi hội một cuộc khảo sát về Nhà ở Đông Dương và Các
thảo này. Nhưng chuyên gia thuyết trình trước kiểu nhà ở nông thôn của người An Nam.

đám đông chắc chắn là Nguyễn Văn Hun, và
đây là một số bài thuyết trình của ơng tại Bảo Ngày 9 tháng 3 năm 1942, Một số trung tâm
tàng Finot: thờ cúng lớn các vị thần bất tử ở Hà Nội.

Ngày 21 tháng 2 năm 1938, một hội thảo về Ngày 5 tháng 1 năm 1943, hội thảo về Sự ra
Tranh dân gian. đời của Trường Pháp sư Nội Đạo tại An Nam.

Tháng 2 năm 1939, hai cuộc hội thảo mang Ngày 1 tháng 3 năm 1943, người Mán và ngôi
tên Nghiên cứu về đời sống tôn giáo ở Thượng nhà của họ (Nguyễn Phương Ngọc 2012: 157 - 194).
Bắc Kỳ, trong đó một hội thảo về Một vị thần
của Đạo giáo và hội thảo khác về Phép thuật Tất cả những gì cịn lại của các hội thảo này là
chữa bệnh. một vài bức ảnh và đôi khi là một văn bản đánh
máy nhưng khơng có hình ảnh minh họa kèm
Ngày 29 tháng 1 năm 1940, Tình hình dân cư theo bài thuyết trình.
và cư trú ở tỉnh Lạng Sơn.
Các bộ sưu tập của bảo tàng ngày càng phong
Ngày 18 tháng 3 năm 1940, Trang phục An phú đến từ nguồn thu thập của các nhà nghiên
Nam: quá trình phát triển và ý nghĩa xã hội. cứu của EFEO - cơ quan đảm nhận việc gìn giữ
các di sản Đông Dương thời bấy giờ, cũng như
Ngày 3 tháng 2 năm 1941, Sự phát triển của từ nguồn quyên góp của các nhà sưu tập cá
một khu phố ở Hà Nội: một bài luận phân tích xã nhân. Bảo tàng cũng thực hiện trao đổi với các
hội học. bảo tàng khác của châu Á và châu Âu (ví dụ như
Guimet hoặc Louvre).
Hai hội thảo vào tháng 1 năm 1941 bao gồm

Hình 8. Bảo tàng Louis Finot, tầng 2 (nhìn tổng thể)
(Nguồn: EFEO VIE08952)

26


Thông báo khoa hoc

Trải nghiệm ở bảo tàng do EFEO thực hiện tại khách tham quan vì vé vào được hạch tốn từ
các viện bảo tàng của họ ở Đơng Dương là một năm 1916. Do đó, khó có thể đánh giá được
chủ đề rất rộng và phức tạp mà không thể nào thành công chung đạt được bởi những phiên
diễn giải trong một vài câu, độc giả có thể tham bản đầu tiên của các bảo tàng ở Sài Gòn và Hà
khảo tác phẩm xuất sắc do Simon Delobel thực Nội (BEFEO 1921: 400 - 401). Trong khoảng
hiện (xem thư mục tài liệu tham khảo). thời gian từ năm 1916 đến năm 1925, bảo tàng
trong Dinh cũ của các Toàn quyền Hà Nội là nơi
Ngồi cơng việc về bảo tàng nói riêng, EFEO cịn thường xun lui tới của cơng chúng, bao gồm
duy trì các xưởng phục chế. Người ta đã lập danh 90% là người Lào, Campuchia, Trung Quốc,
mục và chụp lại các hiện vật cũng như nhiều tủ trưng Nhật Bản và đa số là người Việt Nam (Delobel
bày và bảng triển lãm. Chúng ta ngạc nhiên khi xem 2005). Có thể thấy trên biểu đồ này, việc mở
lại các bức ảnh, đơi khi là thích thú, trong bộ sưu tập bảo tàng Finot không phải ngay lập tức dẫn đến
phông ảnh EFEO ở Paris. Kỹ thuật sắp đặt bảo tàng việc tăng lượng người tham quan. Số lượng du
kể từ đó đã phát triển rộng rãi và các phịng trưng khách sẽ chỉ tăng sau Chiến tranh thế giới thứ
bày thời đó có phần quá tải, với những chỉ dẫn lỗi hai. Về những số liệu này, Arnaud Le Brusq lưu
thời, sẽ khơng cịn phù hợp trong một hệ thống hiện ý về bảo tàng Chăm ở Tourane “Nhưng những
đại, tuy nhiên, trong thời đại của họ, những thứ đó lại con số này có thực sự đáng tin cậy, khi chúng ta
phản ánh những kỹ thuật tiên tiến nhất. biết rằng chúng xuất phát từ việc ghi tự do tên
của du khách trên sổ đăng ký, và vé vào cửa thì
Số lượng khách tham quan Bảo tàng Hà Nội miễn phí? (Le Brusq 2007: 103).
được quan sát kỹ lưỡng. Quả vậy, đây là bảo
tàng duy nhất của EFEO tính tốn số lượng

Hình 9. Biểu đồ số lượng người thăm Bảo tàng từ năm 1932
đến 1954 (Nguồn: EFEO VIE08945)

27


Museum Bulletin

Bảo tàng Finot khơng nằm ngồi ảnh hưởng hủy trong trận ném bom của Mỹ vào ngày 10
của các sự kiện lịch sử. Vào tháng 9 năm 1939, tháng 12 năm 1943. Địa điểm này về sau là Cung
người ta lo sợ các cuộc bắn phá của người Nhật Văn hóa Hữu nghị.
và Bảo tàng Finot đã tổ chức các cơng trình
phịng thủ thụ động nhằm duy trì sự an tồn và Trở thành bảo tàng lịch sử Việt Nam
tính tồn vẹn của các tác phẩm hiện vật. Các đội
của René Mercier lấy đồ vật ra khỏi tủ trưng bày Năm 1945, sắc lệnh số 65 ngày 23 tháng
và cho vào hòm. Những tấm bia lớn nhất, chẳng 11 của Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Đơng
hạn như tấm bia Võ Cạnh, được bảo vệ bằng bao Phương Bác cổ Học viện, thay thế EFEO nhưng
cát. Sau đó, nguy hiểm qua đi, bảo tàng lại tiếp vẫn giữ nguyên nhiệm vụ và các điều kiện
tục mở cửa. tương tự như trước đây. Sự trở lại của người
Pháp vào năm 1946 tạm thời khôi phục EFEO
Cuối cùng, để kết thúc phần giới thiệu này, nhưng một số lượng lớn cán bộ Việt Nam đã
chúng ta cần chỉ ra rằng EFEO đã lập một bảo rời bỏ và đứng về phía Việt Minh (Nguyễn Văn
tàng khác ở Hà Nội vào năm 1938, có thể coi Huyên, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Khoan,
như là một phần mở rộng của bảo tàng Finot. Trần Văn Giáp…).
Đó là Bảo tàng Con người, thực tế là một phòng
trưng bày dân tộc học đơn giản ở phía cánh Với sự công nhận “các quốc gia độc lập” ở
trái của Bảo tàng Thương mại Hà Nội (Bảo tàng Đơng Dương năm 1948, EFEO khơng cịn là chủ
Maurice Long). Nhưng Nhà đấu xảo đã bị phá sở hữu duy nhất các bảo tàng, thư viện và bộ sưu
tập của mình. Việc phân chia hiện vật bắt đầu và
Hình 10. Bảo vệ các hiện vật bảo tàng năm 1939 các bộ sưu tập Khmer và Lào rời Bảo tàng Louis
(Nguồn: EFEO VIE08966) Finot để trờ về quê hương của chúng (Ngô Thế
Long, Trần Thái Bình 2021: 101 - 104).

Năm 1954, trước khi người Pháp rút hoàn
toàn, các cuộc hội đàm được tổ chức để bàn về
tương lai của EFEO tại Việt Nam và bảo tàng của

tổ chức này ở Hà Nội, nơi đã có sự giám sát chung
của Pháp - Việt, có một danh mục gồm 60.000
tác phẩm hiện vật. EFEO rời khỏi hệ thống thuộc
địa nhưng dự định tiếp tục hoạt động bảo tàng
ở một số cơ sở liên kết. Các bộ sưu tập ảnh của
EFEO cho thấy rằng bảo tàng Finot lúc đó là điểm
đến trong chương trình của tất cả các phái đồn
sang thăm chính thức. Qua các bức ảnh, ta thấy
chuyến thăm của bà Indira Gandhi, con gái của
Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru vào tháng
10 năm 1954, được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời
đến thăm triển lãm “Đồ đồng, ngọc thạch, đất
nung và gốm sứ bằng tiếng Hán Việt” của bảo
tàng. Chính Maurice Durand và Giám đốc EFEO
Jean Filliozat đã hướng dẫn bà đi thăm bảo tàng.
Trong một thời gian ngắn, Bảo tàng Finot được
đổi tên thành “Bảo tàng của Trung tâm EFEO
tại Hà Nội”. Các thành viên còn lại của EFEO tại
bảo tàng đã tham gia tổ chức một cuộc triển lãm

28

Thông báo khoa hoc

gốm sứ Trung - Việt vào năm 1956. Và đây là sự phong phú được tích lũy theo thời gian. Vì vậy,
kiện cuối cùng. di sản của EFEO được các quốc gia giành độc
lập tiếp nhận và quản lý rất tốt, một vài bảo tàng
EFEO rời Việt Nam và di sản của Viện chính trong số đó đã trở thành bảo tàng quốc gia. Kể
thức được bàn giao cho phía Việt Nam vào ngày 7 từ đó, EFEO khơng cịn chịu trách nhiệm quản lý
tháng 10 năm 1958, sau đó lấy tên là Bảo tàng Lịch bảo tàng, Viện bắt đầu hợp tác lâu dài với những

sử Quốc gia Việt Nam. Người ta ước tính rằng hơn đối tác này, áp dụng phương pháp trưng bày bảo
một nửa số hiện vật trong Bảo tàng Lịch sử Việt tàng hiện đại hơn và góp phần vào việc tăng
Nam đến từ các bộ sưu tập cũ của Bảo tàng Finot. cường nghiên cứu và nâng cao giá trị của công
việc nghiên cứu.
Hầu hết các bảo tàng cũ do EFEO thành lập
vẫn đang hoạt động, các bộ sưu tập ngày càng

Chú thích

(1) Sắc lệnh ngày 26 tháng 2 năm 1901 quy định các nhiệm vụ và tổ chức của EFEO, điều 2 của sắc lệnh chỉ ra rằng EFEO phải
thành lập một bảo tàng trên đất của Liên bang Đông Dương.

(2) Louis Finot, tốt nghiệp trường Pháp điển, là giám đốc đầu tiên của Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp, nơi ông đã cống hiến phần
lớn sự nghiệp của mình. Từ năm 1907 và giữa các nhiệm kỳ giám đốc khác nhau (1898-1904, 1914-1918, 1920-1926 và
1928-1929), ông giảng dạy bộ môn lịch sử và ngữ văn Đông Dương tại Học viện Pháp quốc (Collège de France). Các
cơng trình nghiên cứu của ông chủ yếu tập trung vào Đông Nam Á lục địa, ông đã xuất bản nhiều bản khắc về khu vực
này và phát huy giá trị di sản thông qua việc thành lập Sở Khảo cổ học Đông Dương và Bảo tàng Hà Nội mang tên ông
(ngày nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam).

(3) Hội chợ diễn ra từ 3/11/1902 đến 31/1/1903.
(4) Hiệp ước ngày 15 tháng 3 năm 1874 quy định rằng các nhà cầm quyền An Nam phải nhượng đất ở Hà Nội để đặt lãnh sự quán

ở đó. Người Pháp yêu cầu đất ở trung tâm thành phố (trụ sở Ngân hàng Nhà nước hiện nay), nhưng lại được nhượng đất
ở ngoại ô thành phố, nơi có “Pháo đài phía Nam" ngày xưa, trên vùng đất giáp sơng Hồng, có ao hồ bao quanh và bị lũ
lụt. Chính vì vậy, 2.000 người làm phu đã nâng nền đất để tránh lũ lụt.
(5) Ernest Hébrard (1875-1933), kiến trúc sư, nhà khảo cổ học và nhà quy hoạch đô thị người Pháp, là sinh viên của Trường Mỹ
thuật Paris và đoạt giải Grand Prix de Rome năm 1911. Ông là người thiết kế quy hoạch tổng thể cho thành phố Thessa-
loniki (Hy Lạp) và Hà Nội. Xem Ernest Hébrard: 1875-1933: Chân dung cuộc đời của một kiến trúc sư đến từ Hy Lạp ở Đông
Dương, trong Haris Yiakoumis, Alexandra Yerolympos, Christian Pédelahore de Loddis, A-ten: Nxb. Pothamos, 2001.
(6) Charles Batteur (1880 - 1932), kiến trúc sư, thanh tra xây dựng dân dụng ở Lào từ năm 1905, được biệt phái làm việc ở Viện

với tư cách thanh tra Sở Khảo cổ năm 1919. Là thành viên thường trực của EFEO năm 1921, từ năm 1930, ông chỉ đạo
việc bảo tồn các cơng trình lịch sử ở Bắc- Trung Kỳ, và tham gia nghiên cứu tu bổ các chùa (đặc biệt là đình Đình Bảng),
và ở Hà Nội là Văn Miếu và chùa Một Cột. Ông cũng giảng dạy bộ môn kiến trúc tại Trường Mỹ thuật Đông Dương.
Chúng ta có thể coi ơng là người đi đầu trong cơng cuộc đóng góp vào việc thiết kế và xây dựng bảo tàng của Viện tại
Hà Nội. (Xem Parmentier, 1933).
(7) Albert Aviat, một cựu công binh, sở hữu một doanh nghiệp kinh doanh phát đạt, thu lợi nhuận từ nhiều hợp đồng cơng. Ơng
là người đầu tiên đưa cần trục và máy trộn bê tông ra Hà Nội. Chính doanh nghiệp này cũng đã đảm nhận việc xây dựng
Đại học Đông Dương, Nhà in Viễn Đông (I.D E.O.), Ngân hàng Đông Dương, Viện Radium và Nhà thờ Đại lộ Carnot
(Nhà thờ Cửa Bắc).
(8) Tấm bia Võ Cạnh (cao 320 cm, chiều ngang 110 cm, dày 80 cm) được phát hiện bên cạnh nền móng một cơng trình bằng
gạch ở giữa hai làng Phú Văn (hoặc Phố Văn) và Phú Vinh (ngày nay là làng Võ Cạnh, xã Vĩnh Trung, Nha Trang, Khánh
Hòa). Tấm bia được Viện Viễn đông Bác Cổ chuyển về Bảo tàng Louis Finot vào năm 1910. Xem Jean Filliozat, L’inscrip-
tion dite "de Vo-ỗanh". BEFEO 1969, Tome 55, pp. 107 - 116.
(9) Công ty Trịnh-Quý-Khang vừa khơng trúng thầu xây dựng tịa nhà hai tầng cho khoa sản bệnh viện dành cho người bản địa
của xứ bảo hộ ở Bạch-mai (Aviat đã hoãn một phần), do đó cơng ty thành cơng trước đối thủ cạnh tranh của mình về
vụ thầu bảo tàng.

29

Museum Bulletin

(10) Việc khánh thành bảo tàng trùng với chuyến thăm Hà Nội của cuộc viễn chinh Citroën, chiếc «Du thuyền vàng» nổi tiếng
trở về từ Trung Quốc, là dịp quảng bá tuyệt vời vượt ra ngồi biên giới Đơng Dương vì mọi thứ liên quan đến chuyến
thám hiểm đều được quay phim. Cần lưu ý rằng EFEO đã yêu cầu và nhận được hỗ trợ tài chính từ cơng ty Citrn. Bảo
tàng đã chấp nhận sự bảo trợ tư nhân.

Tài liệu tham khảo

BEFEO 1902. Tome 2, Chronique, pp. 415 - 432.
BEFEO 1910. Tome 10, Chronique, pp. 733 - 739.

BEFEO 1911. Tome 11, Documents Administratifs, pp. 477 - 481.
BEFEO 1921. Tome 21, Organisation Scientifique, pp. 399 - 409.
BEFEO 1925. Tome 25, Chronique, pp. 543 - 595.
BEFEO 1926. Tome 26, Chronique, pp. 411 - 519.
BEFEO 1930. Tome 30, Chronique, pp. 487 - 647.
BEFEO 1933. Tome 33, Chronique, pp. 411 - 548.
Delobel Simon 2005. Éléments pour l'histoire des musées du Cambodge, du Laos et du Vietnam, Diplôme d’Etudes Appliquées,

École du Louvre, Paris.
Hebrad Ernest 1933. L’architecture locale et les questions esthétiques en Indochine. L’urbanisme dans les colonies et les pays

tropicaux, Tome 2, Delayance, La Charité-sur-Loire, p. 32.
Herbelin Caroline (2010). Architecture et urbanisme en situation coloniale: le cas du Vietnam, Thèse de doctorat, Paris-Sorbonne.
Lê Minh Sơn 2018. Une Architecture Métissée au Vietnam sous colonisation Franỗaise, le cas: Style darchitecture indochinoise.

Revista Aldaba, No. 43, pp. 249 - 271
Le Brusq Arnauld 2007. Les musées de l’Indochine dans le processus colonial. Outre-mers, Tome 95, No. 356 - 357, pp. 97 – 110.
Ngơ Thế Long, Trần Thái Bình 2021. Học viện Viễn Đông Bác cổ, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội.
Nguyễn Phương Ngọc 2012, À l’origine de l’anthropologie au Vietnam: Recherche sur les auteurs de la première moitié du XXe siècle,

Aix-en-Provence: PUP.
Nguyễn Văn Tố 1932. Le nouveau musée de l’École franỗaise dExtrờme-Orient. LAvenir du Tonkin, numộros des 8, 11 et 15 mars

1932.
Parmentier Henri 1915. Guide au musộe de Lẫcole franỗaise dExtrờme-Orient, Hanoi, Imprimerie d’Extrême-Orient.
Parmentier Henri 1933. Charles Batteur (1880-1932). BEFEO, Tome 33, pp. 552 - 554.
Pedelahore De Loddis Christian 1992a. Hanoi, Miroir de l’Architecture Indochinoise. Architectures franỗaises outre-mer, Liốge,

Mardaga, pp. 292 - 319.
Pedelahore De Loddis Christian 1992b. Notices Biographiques. Architectures franỗaises outre-mer, Liốge, Mardaga, pp. 383 -


397.
Yiakoumis Haris, Yerolympos Alexandra, Pedelahore De Loddis Christian 2001. Ernest Hébrard: 1875 - 1933: La vie illustrée d’un

architecte de la Grèce à l’Indochine, Editeur Pothamos, Athens.

30

Thông báo khoa hoc

CREATION AND CHANGES OF A HISTORY MUSEUM
IN HANOI, THE EFEO AND THE CONSTRUCTION OF
A NATIONAL MUSEUM

In addition to its research mission, the French School of the Far East
devoted itself from 1900 to 1958 to considerable work in terms of conservation
and museography. This article outlines the main phases of development of the
great museum of Hanoi, as well as describes the ambition of its designers, the
successive achievements and discusses the advantages and limits of this museum
activity carried out in a colonial context.

The EFEO leaves Vietnam and its heritage is officially handed over to the
Vietnamese on October 7, 1958, the institution then takes the name of National
Museum of Vietnamese History. It is estimated that more than half of the pieces
in the Vietnam History Museum come from the former collections of the Louis
Finot Museum.

Most of the old museums created by the EFEO, rich in their patiently
amassed collections, are still in operation. The legacy of the EFEO is therefore
fully assumed by the independent states which now manage these museums,

some of which have become national museums. It is now up to the EFEO, which
is no longer in charge of museum management, to initiate collaborations with
these partners and, taking stock of the progress made, complying with the
requirements of a more modern museography, contribute to the strengthening of
research and its development.

31

Museum Bulletin


×