Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.6 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề

Kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát triển kinh tế. Tăng
trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của tất cả các nước trên thế giới, là
thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn của mỗi quốc gia. Mục tiêu tổng
quát của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2010 - 2020 của Việt Nam là
“Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng
cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng
kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất văn hóa, tinh thần của nhân dân. Đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu
vực và trên trường quốc tế.”

2. Mục đích

Phát triển kinh tế - xã hội nhanh, hiệu quả và bền vững; tạo sự chuyển biến căn
bản về chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện
đại hố. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế
đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát
huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm, cơ bản xố đói, giảm số hộ nghèo, đẩy lùi
các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hình thành một
bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn
định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ và an ninh quốc gia.



3. Phương pháp nghiên cứu

Để thấy được những thành tựu mà của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế
trong thời gian qua.

4. Bố cục

Gồm 3 phần
1

Phần 1 : Mở đầu
Phần 2 : Nội dung
Phần 3 : Kết luận
5. Tài liệu tham khảo

Vũ Văn Hiền (2018), Đổi mới tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế,
Hội đồng Lý luận Trung ương;

Thanh Giang (2019), Hội nghị tăng cường hội nhập quốc tế chủ
động, sáng tạo, hiệu quả vì phát triển nhanh và bền vững, Báo Nhân dân
diện tử;

Lê Hoài Trung (2019), Đối ngoại đa phương góp phần đẩy mạnh
hội nhập quốc tế, tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước;

Hồng Xn Hịa (2019), Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sau 5
năm nhìn lại, Văn phịng Chính phủ.

FM (2018b). Vietnam's international economic integration and

measures

11.Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X, XI, XII của Đảng;

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII (2016), Nghị quyết số
06 – NQ/TW ngày 5/11/2016 về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta
tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới;

Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế;

Chỉ thị số 25-CT/TW về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa
phương đến năm 2030;

Quyết định số 596/QĐ-TTg ngày 23/4/2014 của Thủ tướng Chính
phủ thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế;

2

NỘI DUNG

1. Cơ sở lý luận

a, Khái niệm

Hội nhập kinh tế, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới,
là việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu này, hội nhập kinh tế
đã diễn ra từ hàng ngàn năm nay và hội nhập kinh tế với quy mơ tồn cầu đã
diễn ra từ cách đây hai nghìn năm khi đế quốc La Mã xâm chiếm thế giới và mở

mang mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thơng hàng hóa trong tồn bộ lãnh địa
chiếm đóng rộng lớn của họ và áp đặt đồng tiền của họ cho toàn bộ các nơi.

b,Lý luận chung

Hội nhập kinh tế quốc tế, theo nghĩa đơn giản và phổ biến nhất, là
nơi các nền kinh tế quốc gia gắn kết với nhau. Theo cách hiểu này, hội
nhập kinh tế quốc tế đã diễn ra hàng ngàn năm khi Đế chế La Mã xâm
chiếm thế giới và mở rộng mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng
hóa trong tồn bộ lãnh thổ rộng lớn của họ và áp đặt đồng tiền riêng của
họ cho toàn bộ vùng đất rộng lớn này. Hội nhập kinh tế là mối liên kết thể
chế giữa các nền kinh tế. Khái niệm này đã được Béla Balassa đề xuất từ
những năm 1960 và được chấp nhận trong giới học thuật và chính sách.
Nói rõ hơn, hội nhập kinh tế là q trình tích cực thực hiện đồng thời hai
điều: một mặt, liên kết nền kinh tế và thị trường của mỗi quốc gia với thị
trường khu vực và thế giới thông qua việc mở và thúc đẩy tự do hóa nền
kinh tế quốc gia; mặt khác, tham gia và đóng góp vào việc xây dựng các
thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu. Theo Từ điển kinh doanh, hội nhập
kinh tế là một thỏa thuận giữa các quốc gia trong khu vực địa lý nhằm
giảm thiểu và cuối cùng là xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan để
đảm bảo dịng hàng hóa hoặc dịch vụ tự do và các yếu tố sản xuất. Đó là
bất kỳ loại thỏa thuận nào trong đó các quốc gia đồng ý phối hợp các
chính sách thương mại, tài khóa và / hoặc tiền tệ của họ được gọi là hội
nhập kinh tế. Rõ ràng, có nhiều giai đoạn (hoặc cấp độ) khác nhau của hội
nhập. Hội nhập kinh tế thường được coi là có sáu cấp: hiệp định thương
mại ưu đãi, hiệp định thương mại tự do, liên minh hải quan, thị trường

3

chung, liên minh tiền tệ và hội nhập toàn diện (Tien, 2019a). Tuy nhiên,

trong thực tế, mức độ tích hợp có thể ngày càng đa dạng hơn.

Ở Việt Nam, thuật ngữ ‘hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử
dụng từ khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia
nhập ASEAN, tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các
thể chế kinh tế quốc tế khác. Những năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc
tế” (thậm chí nói ngắn gọn là “hội nhập”) được sử dụng ngày càng phổ
biến hơn và với hàm nghĩa rộng hơn hội nhập kinh tế quốc tế. Có một
thực tiễn đáng lưu ý là trước khi thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế”
được đưa vào sử dụng, trong tiếng Việt đã xuất hiện các cụm từ “liên kết
kinh tế quốc tế” và “nhất thể hóa kinh tế quốc tế”. Cả ba thuật ngữ
này thực ra được sử dụng để chỉ cùng một khái niệm mà tiếng Anh gọi là
“international economic integration”. Sự khác biệt giữa chúng chủ yếu là
cách dùng với hàm ý chính trị và lịch sử khác nhau. Thuật ngữ “nhất thể
hóa kinh tế quốc tế” được sử dụng chủ yếu trong bối cảnh hợp tác giữa
các nước xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ Hội đồng Tương trợ kinh tế
(SEV) những năm 1970-1980.

Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể
chính của quan hệ quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký
kết và thực hiện các cam kết quốc tế. Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ
thể khác cùng hợp thành lực lượng tổng hợp tham gia vào quá trình hội
nhập quốc tế.

2, Vai trò của hội nhập quốc tế đối với Việt Nam
Sau hơn 30 năm đổi mới, đặc biệt là từ khi thực hiện Cương lĩnh
1991,Việt Nam đã tham gia tất cả các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực
chủ chốt như WTO, ASEM,APEC, ASEAN, thiết lập quan hệ ngoại giao
với hơn 160 nước và 70 vùng lãnh thổ, mở rộng quan hệ thương mại, xuất
khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký

kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến
khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều
Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức
quốc tế.Với việc thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện với
trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế, vị thế của đất nước tiếp tục được cải
thiện đáng kể. Ta đã có 3 đối tác chiến lược toàn diện, 15 đối tác chiến
lược và 12 đối tác toàn diện – hầu hết đều được thiết lập trong giai đoạn
2007-2017.Tiếng nói và vị thế của ta được coi trọng, ghi nhận ở khơng ít
tổ chức, diễn đàn quốc tế như Liên hợp quốc, UNESCO, APEC,
Cùng với quá trình thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế,
Việt Nam đã có bước tiến lớn trong việc ban hành và sửa đổi hệ thống

4

pháp luật cho phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm làm cho mơi trường kinh
doanh thơng thống minh bạch, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, đầu
tư phát triển; đó là điều kiện bắt buộc và cũng là yêu cầu cấp thiết trong
quá trình đổi mới đường lối và chính sách đối ngoại, tham gia ngày càng
sâu và rộng vào sân chơi quốc tế. Việc thu hút và sử dụng ĐTNN trong
những năm qua cịn góp phần tích cực hồn thiện thể kinh tế, mơi trường
đầu tư kinh doanh theo các nguyên tắc của kinh tế thị trường; nâng cao
năng lực quản lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp, hỗ trợ quá trình cải cách
doanh nghiệp nhà nước, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đây là
thành tựu quan trọng và nổi bật của việc thực hiện đường lối và chính
sách đối ngoại đổi mới, được cộng đồng doanh nghiệp thừa nhận. Điều
quan trọng cần nhấn mạnh là, khi thể chế trong nước được đổi mới càng
sát với chuẩn mực và thông lệ quốc tế thì càng trở thành động lực thúc
đẩy kinh tế phát triển.


Nếu như trong giai đoạn 1986-1990, trước khi đất nước bước vào
thời kỳ mở cửa, hội nhập toàn diện, tăng trưởng GDP bình quân chỉ đạt
4,4%/năm thì thời kỳ từ 1991-2011 tăng trưởng GDP bình quân đạt từ 6 -
8%.

Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, phát huy
vai trị của khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Chất lượng tăng
trưởng kinh tế được cải thiện, trình độ công nghệ sản xuất được nâng lên.
Kết quả là nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và ra khỏi danh
sách các nước kém phát triển sau 30 năm đổi mới.

Hội nhập kinh tế quốc tế là yếu tố quan trọng tạo điệu kiện thuận
lợi cho Việt Nam mở rộng thị trường và tăng cường xuất khẩu, đưa xuất
khẩu đã trở thành một động lực chính cho tăng trưởng kinh tế. Độ mở của
nền kinh tế Việt Nam ngày càng lớn: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng
hóa và dịch vụ so với GDP đạt 208,6%, điều này chứng tỏ Việt Nam khai
thác được thế mạnh của kinh tế trong nước đồng thời tranh thủ được thị
trường thế giới.

Bắt đầu từ thập kỷ 90 của thế kỷ trước, đầu tư trực tiếp nước ngồi
đã đóng vai trị như một “cú hích”, tạo sự đột phá, vừa bổ sung nguồn lực
quan trọng cho đầu tư phát triển, vừa khơi dậy các nguồn lực trong nước,
để khai thác, tận dụng các tiềm năng, lợi thế, đưa đất nước vượt qua giai
đoạn khó khăn, khủng hoảng.

5

Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN ngày càng phát triển, đã trở thành
một trong những khu vực năng động nhất của nền kinh tế. góp phần hình
thành một số ngành cơng nghiệp chủ lực của nền kinh tế, phát triển nhiều

ngành dịch vụ chất lượng cao, tạo ra phương thức mới trong phân phối
hàng hóa, tiêu dùng, góp phần kích thích hoạt động thương mại nội địa;
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nâng cao giá trị hàng hóa nơng sản xuất
khẩu; hình thành các khu đô thị mới, các khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu kinh tế; góp phần cải thiện hệ thống cảng biển của Việt Nam; góp quan
trọng cho thúc đẩy và mở rộng thị trường xuất khẩu, chuyển đổi cơ cấu mặt
hàng xuất khẩu và từng bước đưa Việt Nam tham gia vào mạng sản xuất và
chuỗi giá trị toàn cầu. Khu vực ĐTNN cũng đã thực hiện chuyển giao cơng
nghệ ở một số ngành, lĩnh vực và có tác động lan tỏa công nghệ nhất định
tới khu vực doanh nghiệp trong nước; thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ
trợ...

Hội nhập kinh tế quốc tế khơng chỉ đóng vai trị quan trọng trong
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn là kênh quan trọng góp phần tạo việc
làm và nâng cao năng suất lao động.

Hội nhập kinh tế quốc tế đã mang tới những cơ hội để tiếp cận các
xu thế mới, tri thức mới, những mơ hình giáo dục hiện đại, tranh thủ các
nguồn lực bên ngoài, tạo thời cơ để phát triển giáo dục.Nhờ tăng cường hội
nhập quốc tế trên lĩnh vực văn hóa, chúng ta đã có thêm những nguồn lực,
cơ hội mới giúp bảo vệ và phát huy có chất lượng, hiệu quả hơn di sản văn
hóa Việt Nam. Với việc tham gia các Công ước và nỗ lực từ Trung ương
tới địa phương, nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của ta đã được
UNESCO công nhận, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế xã
hội. Mở cửa, đổi mới tạo điều kiện cho sự giao lưu của các luồng văn hóa,
đồng thời cũng tạo điều kiện cho việc phổ biến di sản văn hóa của nước ta
ra nước ngoài.

Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra sự đan xen về lợi ích giữa Việt
Nam và các nước, các trung tâm quyền lực, tạo thế và lực cho công cuộc

xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; thúc đẩy xu thế hịa bình, ổn định, hợp tác trong
khu vực, giúp ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh; làm cho sức mạnh kinh tế
của đất nước từng bước được nâng lên là điều kiện quan trọng để tăng

6

cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước, góp phần nâng cao vị
thế của đất nước trong khu vực và trên thế giới.

Một số thành tựu của tiến trình HNKTQT toàn diện của Việt Nam
gồm:

Một là, HNKTQT đã góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc
gia. Nền kinh tế Việt Nam từng bước được cơ cấu lại gắn với đổi mới mơ
hình tăng trưởng, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế được tăng cường,
nguồn nhân lực để cung ứng cho phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) ngày
càng phát triển. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, minh bạch,
bình đẳng hơn, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên.

Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá là một trong
những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực cũng như trên
thế giới và có triển vọng tốt nhờ kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn
định, các cân đối lớn được bảo đảm, lạm phát được kiểm sốt, tạo mơi
trường, động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Quy mô kinh tế Việt Nam
năm 2019 dự báo đạt 5,5 triệu tỷ đồng, tương đương 240,5 tỷ USD, gấp
trên 1,3 lần so với năm 2015, hiện đứng thứ 44 trên thế giới theo GDP
danh nghĩa và thứ 34 theo sức mua tương đương.

Hai là, HNKTQT tác động mạnh đến tăng trưởng, góp phần thúc
đẩy phát triển KT-XH. GDP bình quân đầu người tăng từ 2.109 USD

(năm 2015) lên 2.587 USD (năm 2018), khoảng 7.650 USD theo sức mua
tương đương. Đặc biệt, sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trong năm 2007, tăng
trưởng GDP đạt 8,46% (mức cao nhất trong vịng 11 năm trước đó). Tuy
nhiên, 4 năm sau đó, do ảnh hưởng từ những biến động của kinh tế thế
giới, nên tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2011 - 2013 giảm xuống còn
5,6%. Đáng chú ý những năm tiếp theo, kinh tế khởi sắc hơn. Cụ thể, năm
2014 đạt 5,98%, năm 2015 đạt 6,68%; 2016 đạt 6,1%, năm 2017 GDP đạt
6,81%, năm 2018 đạt 7%, quy mô nền kinh tế đạt khoảng 240 tỷ USD,
bình quân đầu người đạt 2.540 USD, mức tăng trưởng cao nhất trong
vòng 10 năm qua (2008-2018).

7

Ba là, HNKTQT thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của
Việt Nam phát triển mạnh giúp gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu
(XNK), mở rộng thị trường đa dạng các loại hàng hóa tham gia XNK.
Việt Nam đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu với tổng kim
ngạch xuất khẩu, nhập khẩu đạt gần 480 tỷ USD, gấp gần 2 lần GDP. Từ
chỗ thường xuyên nhập siêu, Việt Nam đã chuyển sang cân bằng XNK,
thậm chí là xuất siêu. Việt Nam hiện đã có quan hệ thương mại với trên
200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Là thành viên của WTO, Việt Nam đã
được 71 đối tác công nhận là nền kinh tế thị trường, nhiều sản phẩm dần
có chỗ đứng và khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu cao
về chất lượng như Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Mỹ...

Bốn là, HNKTQT sâu rộng hơn góp phần đưa Việt Nam trở
thành một “mắt xích” quan trọng trong mạng lưới các liên kết kinh tế với
các nền kinh tế hàng đầu thế giới (gồm 12 FTA đã ký và đang thực thi; 2
Hiệp định đã ký kết, 4 FTA đang đàm phán bảo đảm cho kết nối thương

mại tư do, ưu đãi cao với 60 nền kinh tế, chiếm 90% kim ngạch thương
mại của Việt Nam); đồng thời, tạo động lực mới và cả “sức ép” mới để
thúc đẩy mạnh mẽ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế.
Môi trường pháp lý, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý trong nước được
cải cách theo hướng ngày càng phù hợp với các cam kết tiêu chuẩn cao
trong các FTA và ngày càng minh bạch hơn, tạo lập môi trường đầu tư,
kinh doanh trong nước ngày càng thơng thống hơn, tiệm cận với các
chuẩn mực quốc tế cao của khu vực và thế giới.

Năm là, thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam đạt được nhiều
kết quả ấn tượng. Hội nghị Liên Hợp quốc về thương mại và phát triển
đánh giá, Việt Nam nằm trong 12 quốc gia thành công nhất về thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Hiện nay, có gần 26.000 doanh nghiệp
(DN) FDI đang hoạt động ở Việt Nam, với số vốn cam kết đầu tư trên 330
tỷ USD đến từ gần 130 quốc gia và đối tác. Vốn FDI vào Việt Nam chiếm
25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Các đối tác đã cam kết viện trợ hơn 3 tỷ
USD cho Việt Nam trong giai đoạn 2018-2020. Việt Nam từng bước trở
thành một trong những công xưởng của thế giới về cung ứng hàng điện tử,
dệt may, da giầy, điện thoại di động...

8

4. Một số quan điểm trong thời gian hội nhập

Nhìn lại lịch sử phát triển của đất nước Việt Nam thì tư tưởng mở
cửa giao thương đã có từ khá lâu. Các nhà canh tân của Việt Nam như Lê
Quý Đôn, Nguyễn Trường Tộ… cách đây nhiều thế kỷ đã nhìn thấy tầm
quan trọng của việc mở cửa nền kinh tế, giao lưu bn bán với nước
ngồi.

Sau Cách mạng tháng 8 (1945), tư tưởng mở cửa về kinh tế, hội nhập với
kinh tế thế giới đã được thể hiện trong lời kêu gọi Liên hợp quốc (tháng
12 năm 1946) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó có những điểm mà
trong bối cảnh hiện nay vẫn rất đúng và thích hợp:

Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của

các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ

của mình.

Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao

thông cho việc buôn bánvà quá cảnh quốc tế.

Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế
quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc.

Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, việc thực hiện tư tưởng hội nhập
kinh tế quốc tế đó đã bị gián đoạn. Chỉ sau khi giành được độc lập và
thống nhất đất nước (1975), Việt Nam mới thực hiện một phần tư tưởng
quan trọng đó bằng việc tham gia liên kết kinh tế XHCN trong khuôn khổ
Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) do Liên Xô đứng đầu (1978).

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam chỉ thực sự được
đẩy mạnh kể từ khi Việt Nam tiến hành Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI năm 1986 cùng với việc bắt đầu công cuộc Đổi mới đất nước.Trong
gần 30 năm đổi mới, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
về hội nhập quốc tế đã trải qua một q trình cụ thể hóa và hồn thiện. Có
thể chia thành 3 giai đoạn lớn:


9

Giai đoạn thứ nhất từ Đại hội Đảng VI (1986) đến đầu Đại hội
Đảng VII (1991), lúc này Việt Nam chưa nói cụ thể về hội nhập kinh tế
quốc tế mà mới đặt vấn đề là “mở cửa nền kinh tế”,“đa phương hóa, đa
dạng hóa, mở rộng quan hệ đối ngoại”. Tư tưởng này đã đặt nền móng
cho việc phát triển hội nhập ở các giai đoạn tiếp theo.

Giai đoạn thứ hai là từ Đại hội VIII đến Đại hội Đảng X, chủ
trương hội nhập kinh tế quốc tế đã được Đảng CSVN chỉ rõ: "đẩy nhanh
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế", “xây dựng một nền kinh tế mới hội
nhập với khu vực và thế giới”, “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin
cậy với các nước trong cộng đồng quốc tế,phấn đấu vì hồ bình , độc lập
và phát triển".

Giai đoạn thứ ba, bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ XI (2011), Đảng
CSVN đã đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Theo
đó, Việt Nam chuyển sang giai đoạn hội nhập toàn diện với hội nhập kinh
tế quốc tế vẫn là nội dung quan trọng nhất, như được nhấn mạnh trong
Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10 tháng 4 năm 2013 của Bộ Chính trị
ĐCSVN về hội nhập quốc tế: “Hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm, hội
nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và
góp phần tích cực vào phát triển kinh tế”.

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (2015), Đảng CSVN tiếp
tục khẳng định “Thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới,
tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế”.

Trong bối cảnh Việt Nam tích cực hội nhập toàn diện và đẩy mạnh

tham gia các Hiệp định Thương mại tự do (FTA), ngày 5/11/2016, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW
về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn
định chính trị – xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới. Nghị quyết 06 - NQ/TW khóa XII nêu rõ mục
tiêu thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị
- xã hội, nhằm tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị
trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo
đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân, bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất

10

và tồn vẹn lãnh thổ; nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế.

5. Một số vấn đề về hạn chế

Bên cạnh những thành quả và ưu điểm nêu trên, hội nhập kinh tế
quốc tế thời gian qua cũng bộc lộ nhiều hạn chế và bất câp. Những hạn
chế và bất cập này đã được nêu lên trong nhiều văn kiện của Đảng, đặc
biệt gần đây là Nghị quyết số 06-NQ/TW về thực hiện có hiệu quả tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong
bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ
mới, cũng như trong nhiều cơng trình nghiên cứu và trên các diễn đàn
kinh tế. Những hạn chế, bất cập chủ yếu là:

Các chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế chậm được
lồng ghép, nhìn nhận đầy đủ trong chiến lược và kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội, chưa gắn kết chặt chẽ với công tác quản lý điều hành phát triển

kinh tế - xã hội, và thiếu nguồn lực để thực hiện.Tính gắn kết giữa các
ngành, lĩnh vực chưa cao, nhiều vấn đề mang tính liên ngành chậm được
xử lý hoặc xử lý cục bộ, ngắn hạn. Ở cấp độ vi mô, chủ trương, chính sách
hội nhập chưa được cụ thể hóa dẫn đến tình trạng thụ động,các doanh
nghiệp chưa nhận thức hết tính cấp thiết và lợi ích của hội nhập đối với
hoạt động kinh doanh của mình.

Cơ chế giám sát, theo dõi việc thực hiện các kế hoạch, đề án,
chương trình về hội nhập kinh tế quốc tế chưa thực sự được chú trọng,
gây khó khăn trong việc tổng hợp đầy đủ, kịp thời cũng như đánh giá kết
quả của việc triển khai một cách xác đáng và toàn diện.

Việc cải cách thể chế kinh tế trong nước vẫn chưa đáp ứng và theo
kịp các yêu cầu của việc thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Việc
đẩy mạnh quá trình đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế
chưa tạo sức ép đổi mới trong nước, nhất là về thể chế kinh tế, cải cách
hành chính. Tuy đã có nhiều chính sách, pháp luật để hội nhập và thực
hiện các cam kết trong khuôn khổ WTO và tham gia các FTA, song vẫn
thiếu các chính sách cụ thể và hiệu quả để thực hiện các chủ trương,
nhiệm vụ lớn về phát huy nội lực, phát triển doanh nghiệp trong nước,
nông nghiệp nông thôn, công nghiệp hỗ trợ, phát triển nguồn nhân lực,

11

khoa học công nghệ... nhằm phát huy hiệu quả của hội nhập,thúc đẩy quá
trình tái cơ cấu và đổi mới mơ hình tăng trưởng và thực hiện Chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Việc điều chỉnh chính sách thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế
quốc tế trong nhiều trường hợp cịn thiếu chủ động, chưa đồng bộ. Việc

hồn thiện khung pháp lý chưa chủ động đi trước một bước để người dân
và doanh nghiệp tận dụng các cơ hội mới cũng như có các giải pháp hỗ trợ
cụ thể toàn diện, tận dụng các điều khoản WTO và cam kết hội nhập kinh
tế quốc tế khác để tăng khả năng cạnh tranh, giảm thiểu rủi ro và tác động
tiêu cực.

Khả năng nhận định, đánh giá và dự báo xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế chưa cao. Các vấn đề về xây dựng cơ chế nhận biết, cảnh báo sớm
tác động trong các lĩnh vực hội nhập kinh tế trong bối cảnh Việt Nam đã
hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới nhìn chung cịn yếu. Cơng tác tham
mưu, tư vấn chính sách vẫn cịn hạn chế trong việc phân tích, định hướng
và dự báo những vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế phát sinh.

Xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua phát triển chưa
bền vững. Giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu cịn thấp do chủ yếu
dựa vào khai thác các yếu tố về điều kiện tự nhiên và nguồn lao động rẻ;
hàng hóa thơ và sơ chế, bao gồm cả dầu thô, chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của các mặt hàng dựa vào tài
nguyên chiếm dưới 10% tổng kim ngạch xuất khẩu, và tỷ lệ này gần như
không thay đổi. Giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu thấp. Hàng hóa
xuất khẩu ngồi khống sản, nhiên liệu thơ thì hàng hóa nơng nghiệp
90% là sản phẩm thơ và sơ chế. Hàng công nghiệp chế biến chủ yếu là
gia công, lắp ráp dựa trên việc nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng, linh
kiện, chi tiết máy, bán thành phẩm, điều đó phản ánh một nền kinh tế
trình độ thấp, chủ yếu khai thác tài nguyên và lao động rẻ.

Thị trường xuất khẩu hàng hóa Việt Nam được mở rộng, tuy nhiên
kim ngạch xuất khẩu lớn,những mặt hàng xuất khẩu chủ lực vẫn còn phụ
thuộc vào một vài thị trường trọng điểm nên tiềm ẩn rủi ro lớn khi các
thị trường này có biến động. (Cao su và rau quả phụ thuộc vào thị trường

Trung Quốc, thủy sản phụ thuộc vào thị trường Hoa Kỳ và Nhật Bản,

12

gạo phụ thuộc thị trường Đông Nam Á, dệt may chủ yếu xuất sang thị
trường Hoa Kỳ, da giày phụ thuộc chủ yếu vào thị trường EU. Xuất khẩu
cà phê nhân phụ thuộc vào vài tập đoàn đa quốc gia có văn phịng đại
diện hoặc chi nhánh tại Việt Nam). Chính sách đẩy mạnh xuất khẩu mới
chỉ chú trọng đến bề rộng, chưa chú trọng đến nâng cao khả năng cạnh
tranh và thương hiệu sản phẩm, những ngành mang lại giá trị gia tăng
lớn. Vẫn cịn hạn chế trong việc đa dạng hóa các sản phẩm xuất khẩu và
chuyển dịch lên trên chuỗi giá trị toàn cầu, chưa thực sự quan tâm đến
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và quyền sở hữu trí tuệ;cịn nhiều lúng
túng và bị động trong ứng phó với các rào cản thương mại mới của nước
ngoài (tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường, dư lượng
kháng sinh, nhất là các vụ kiện chống bán phá giá).

Tác động lan tỏa về công nghệ, kỹ năng của khu vực FDI ở Việt
Nam còn yếu. Một số lĩnh vực sản xuất được bảo hộ quá lâu, hạn chế
cạnh tranh và cả sự tham gia trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn
cầu. Các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ phát triển chưa mạnh, công
nghiệp phụ trợ chưa phát triển, vì vậy, khả năng tiếp nhận hiệu ứng lan
tỏa tích cực từ FDI cịn rất hạn chế.

6. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế

Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập nêu trên về khách quan là
do nền kinh tế đang ở trong giai đoạn phát triển thấp xét cả về lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất vì vị thế, mức độ tham gia vào nền kinh tế
thế giới phụ thuộc vào thực lực của nền kinh tế của một quốc gia.Tuy

nhiên,những ngun nhân chủ quan có vai trị quyết định đối với những
hạn chế, bất cập nêu trên nếu xét về phương diện thực thi và hiệu quả của
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.Trong số các nguyên nhân chủ quan,
trước hết phải nói đến việc đổi mới tư duy và nền tảng tri thức về kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta chưa theo kịp thực
tiễn.Quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong hội nhập,
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN còn có các cách hiểu
khác nhau đã trở thành rào cản của nhiều chủ trương, quyết sách và chỉ
đạo thực tiễn. Một ngun nhân chủ quan khác là quy trình chính sách
chưa được xây dựng và tổ chức thực hiện một cách khoa học dẫ đến tính

13

khả thi thấp, trách nhiệm không rõ.Tổ chức bộ máy cồng kềnh, chồng
chéo và công tác cán bộ chậm đổi mới, thực lực của đội ngũ cán bộ hoạch
định và thực thi chính sách chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế sâu rộng, lợi ích cục bộ, tư duy nhiệm kỳ,tham nhũng là những
nguyên nhân quan trọng của những hạn chế, bất cập nêu trên.

7.Đưa ra các giải pháp

Thứ nhất, hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và chỉ có thể
thành cơng khi có sự tham gia hưởng ứng của các DN và người dân. Do
vậy, cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành cần quyết liệt vào cuộc, để
tiếp tục đẩy mạnh HNKTQT trên tinh thần Nghị quyết số 22-NQ/T của
Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; Chỉ thị số 25-CT/T về đẩy mạnh và
nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030 và các nghị quyết, chương
trình hành động, kế hoạch cơng tác hội nhập của Chính phủ.

Thứ hai, cùng với đẩy mạnh các hoạt động thương mại, đầu tư, Việt

Nam cần nâng cao năng lực phòng chống, giải quyết, xử lý các tranh
chấp, khiếu nại, khiếu kiện về thương mại, đầu tư quốc tế, trong đó chú
trọng đào tạo, bồi dưng, phát triển đội ngũ luật sư, cán bộ pháp lý để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân và DN.

Thứ ba, nhận diện các động thái, xu hướng phát triển lớn của thế
giới, từ đó có điều chỉnh đúng đắn, kịp thời trong chiến lược phát triển,
tận dụng triệt để những cơ hội mới mở ra. Tại phiên họp thứ nhất năm
2019 (tháng /2019), Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế
đã đề nghị: Các bộ, ngành, địa phương cần coi trọng, tăng cường nghiên
cứu, đánh giá, dự báo các vấn đề mới của HNKTQT tác động tới Việt
Nam…

Thứ tư, cần nắm bắt cơ hội và nhận diện r những thách thức của các
FTA để có hội nhập phù hợp song khơng để bị lệ thuộc và bị cuốn theo
các trào lưu ngắn hạn, các xu hướng loại trừ và hình thành những liên kết
khép kín trong làn sóng FTA.

Thứ năm, thiết lập một nền kinh tế thị trường đầy đủ, minh bạch và
hiện đại vừa là mục tiêu vừa là yêu cầu của hội nhập. Để có được điều này
cần có những chính sách củng cố quyền sở hữu nhằm thúc đẩy đầu tư dài

14

hạn; thực hiện hiệu quả cải cách hành chính cơng nhằm tăng tính minh
bạch, giảm quan liêu và hạ chi phí giao dịch vốn có ảnh hưởng khơng nh
đến các DN nh và vừa.

Thứ sáu, tạo điều kiện thuận lợi, phát huy hơn nữa vai trị của địa
phương, của DN trong cơng tác HNKTQT. Dư địa phát triển lớn nhất nằm

ngay trong sự nỗ lực không ngừng, sức sáng tạo của mỗi DN, mỗi người
dân. Địa phương, DN là chủ thể trung tâm của hội nhập, phải được thụ
hưởng thành quả của hội nhập. DN, người dân phải chủ động hơn, thực thi
đầy đủ, nghiêm túc các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật về hội
nhập, khơng để tình trạng vi phạm quy định pháp luật tiếp diễn, ảnh
hưởng đến uy tín và hình ảnh đất nước, con người Việt Nam.

KẾT LUẬN

Việt Nam đã ký các hiệp định thương mại tự do song phương với
các đối tác hàng đầu trong khu vực và trên thế giới. Quá trình hội nhập
cho phép Việt Nam thu hút hiệu quả cả ba nguồn lực quốc tế chính: đầu tư
trực tiếp nước ngoài, ODA và kiều hối. Tham gia hội nhập quốc tế, hoạt
động xuất nhập khẩu của Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ, không
ngừng phát triển cả về quy mô và tốc độ. Nhập khẩu và xuất khẩu của
Việt Nam đã trở thành động lực chính cho sự phát triển kinh tế quốc gia.
Q trình hội nhập quốc tế đã góp phần đào tạo nâng cao các nhà quản lý,
doanh nhân Việt Nam và nguồn nhân lực có trình độ cao, cả về chun
mơn và quản lý. Đồng thời, hội nhập quốc tế cũng đẩy nhanh q trình cải
cách hành chính và cải cách kinh tế theo hướng kinh tế thị trường tồn
diện, chào đón và tạo điều kiện cho các đối tác nước ngoài đến và làm ăn
với Việt Nam. Vai trị của Chính phủ là tích cực tham gia đàm phán các
hiệp định thương mại và đầu tư song phương và đa phương trong khuôn
khổ WTO, APEC, ASEAN, ASEM, v.v ... Điều này sẽ tạo điều kiện thuận
lợi hơn cho thương mại và đầu tư của Việt Nam phát triển, huy động mọi
nguồn lực để thành công thực hiện ba bước đột phá chiến lược: cải cách
thể chế; phát triển cơ sở hạ tầng; phát triển nguồn nhân lực. Để phát triển
các hoạt động kinh tế đối ngoại trong hội nhập quốc tế, điều cần thiết là
đất nước phải có cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại


15

16

17


×