Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

QUA TRINH HOI NHAP KINH TE QUOC TE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.12 KB, 14 trang )

Việt Nam-ASEAN: 10 năm đồng hành hội nhập
(TTXVN) - Cách đây tròn 10 năm, ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Sự kiện chính trị quan trọng này đã thể hiện rõ nét
chính sách chủ động hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam, mở ra một thời kỳ hội nhập sâu vào
khu vực của Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị-an ninh, kinh tế và chuyên ngành.
Việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã mở ra một trang mới trong lịch sử ASEAN. Từ đây chấm dứt tình
trạng chia rẽ, đối đầu trong khu vực; các nước còn lại như Lào, Mianma, Campuchia lần lượt gia nhập
Hiệp hội. ASEAN thực sự là một tổ chức của cả khu vực Đông Nam Á.
Mười năm qua, với tư cách là một thành viên mới của ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp nhất
định cho Hiệp hội.
Những đóng góp của Việt Nam trong ASEAN
- Việt Nam không những tham gia tích cực vào chương trình hợp tác sẵn có, mà còn đóng góp to lớn
cho sự hình thành các sáng kiến, cơ chế hợp tác mới của ASEAN. Ngay cả khi chưa gia nhập ASEAN,
Việt Nam đã ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC, 1992), tham gia ngay từ đầu vào ARF (1994).
Ngay sau khi trở thành thành viên chính thức (1995), Việt Nam cam kết tiến hành thực hiện tương đối
tốt các chương trình cũng như cơ chế hợp tác của ASEAN, từ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA) cho đến Hiệp định khung về Khu vực tự do hóa mậu dịch ASEAN (Framework Agreement on
Services - AFSA), Hiệp định khung về Khu vực Đầu tư ASEAN (ASEAN Investment Area - AIA),
Hiệp định khung về Hợp tác Công nghiệp ASEAN (ASEAN Industrial Cooperation - AICO), Sáng
kiến hội nhập (IAI)...
Điều quan trọng hơn là Việt Nam cùng với các nước ASEAN đề ra nhiều sáng kiến mới, nhằm khắc
phục những mặt yếu kém, trì trệ trong ASEAN, thúc đẩy hợp tác khu vực phát triển. Cụ thể là Việt
Nam đã tổ chức thành công Hội nghị ASEAN lần thứ VI (tại Hà Nội, tháng 12/1998), với một
"Chương trình hành động Hà Nội" (HPA) được thông qua, vừa mang tính định hướng vừa đưa ra giải
pháp cho việc hiện thực hóa “Tầm nhìn 2020" - nền tảng tư tưởng cho sự thiết lập Cộng đồng ASEAN
sau đó (10/2003).
Việt Nam cũng có nhiều đóng góp về mặt ý tưởng và đề ra biện pháp nhằm thu hẹp khoảng cách và
phát triển tiểu vùng. Điều này được thể hiện trong “Tuyên bố Hà Nội" năm 1998, “Tuyên bố Hà Nội
về thu hẹp khoảng cách phát triển, nhằm tăng cường liên kết ASEAN" năm 2001...
Ngoài ra, Việt Nam còn có sáng kiến trong việc tạo dựng ý tưởng và xây dựng cộng đồng ASEAN trên
3 trụ cột chính, trong đó Cộng đồng Văn hóa-Xã hội là do Việt Nam đề xuất.


- Việt Nam đã và đang đóng vai trò tích cực trong việc duy trì hòa bình, ổn định và hòa giải khu vực,
góp phần củng cố vị thế của ASEAN trên trường quốc tế. Đây là một trong những đóng góp nổi bật
của Việt Nam.

1


Việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã biến ước mơ và ý tưởng về xây dựng ASEAN thành một khối
thống nhất với tất cả các nước trong khu vực Đông Nam Á, được đề cập trong “Tuyên bố Băng Cốc
1967” đã trở thành hiện thực.
Đây cũng là hành động hòa giải khu vực, đánh dấu sự chấm dứt đối đầu giữa hai khối ASEAN và
Đông Dương được hình thành dưới thời Chiến tranh Lạnh, mở ra thời kỳ mới của sự hợp tác hữu nghị
láng giềng và hội nhập khu vực, củng cố địa vị của ASEAN trên trường quốc tế.
Sau sự kiện 28/7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, việc gia nhập ASEAN của Lào,
Mianma và Campuchia về cơ bản đã được giải quyết. Với tư cách là tổ chức của tất cả các nước trong
khu vực, ASEAN không chỉ lớn mạnh lên về một số lượng, mà còn cả ý chí và lòng quyết tâm hội
nhập của tất cả thành viên, trong đó có Việt Nam.
Sự tham gia một cách có hiệu quả của Việt Nam trong ASEAN đã góp phần quan trọng cho việc mở
rộng hợp tác của ASEAN với các đối tác bên ngoài, nhất là các đối tác và láng giềng của Việt Nam.
Điều này được thể hiện bằng việc Việt Nam đã góp phần làm tăng mối quan hệ giữa ASEAN và Trung
Quốc, ASEAN và Liên bang Nga, ASEAN và Ấn Độ, ASEAN và EU.
Cùng với quan hệ Việt -Trung được cải thiện nhanh chóng trong thập niên qua, vị thế địa lý chiến lược
và sự phát triển năng động của Việt Nam thực sự đã và đang đóng góp một phần quan trọng làm cho
ASEAN-Trung Quốc xích lại gần nhau hơn, hiểu biết và hợp tác nhiều hơn.
Hơn nữa, cùng với sự lớn mạnh của ASEAN, Việt Nam đã và đóng vai trò không nhỏ trong cân bằng
chiến lược và ảnh hưởng giữa các nước lớn, đặc biệt là trong cân bằng chiến lược Mỹ-Trung. Đây là
vấn đề lớn, có ý nghĩa trong việc duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác ở Đông Nam Á.
Với chủ đề làm cho Hợp tác Á-Âu trở nên thực chất và sống động hơn, Hội nghị ASEM-5 được tổ
chức tại Hà Nội tháng 10/2004 đã góp phần cải thiện hình ảnh và tình đoàn kết của ASEAN. Việt Nam
đã có nhiều nỗ lực trong việc thuyết phục các đối tác EU chấp thuận kết nạp Mianma, một trong 3

thành viên mới của ASEAN, vào ASEM. Điều này đã góp phần duy trì sự thống nhất và hòa thuận
trong ASEAN.
- Việc Việt Nam tham gia vào ASEAN đã và đang tạo môi trường thuận lợi hơn cho đất nước giữ
vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế và hội nhập có hiệu qủa vào hệ thống toàn cầu.
Trong bối cảnh gián đoạn các mối quan hệ truyền thống, bị cấm vận, cô lập bởi hậu qủa của chiến
tranh để lại, thì sự tham gia của Việt Nam vào ASEAN không chỉ để góp phần thực hiện chính sách
đổi mới toàn diện, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế do Đại hội Đảng lần thứ VII
năm 1991 đề ra, mà quan trọng hơn là tạo ra bước phát triển mới trong quan hệ khu vực và quốc tế. Cụ
thể, sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam trở thành nước sáng lập viên ASEM (1996), thành viên chính
thức của APEC (1998), mở rộng không gian hợp tác với các nước Đông Nam Á (qua cơ chế
ASEAN+1 và ASEAN+3).
Điều quan trọng hơn, Việt Nam trong 10 năm gia nhập ASEAN, đã từ nền kinh tế theo cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thông
qua việc hội nhập này, Việt Nam đã từng bước điều chỉnh bộ máy hành chính phù hợp với nền kinh tế
thị trường; đồng thời thông qua hợp tác và cạnh tranh, các nguồn tiềm năng nội địa được khơi dậy.

2


Đây là thành tựu có ý nghĩa lớn nhất đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế nói chung, hội
nhập ASEAN nói riêng trong thời gian qua.
Trên các lĩnh vực cụ thể:
- Về chính trị, ngoại giao và an ninh: Việt Nam là một trong 18 thành viên tham gia Diễn đàn khu vực
ASEAN (ASEAN Regional Forum - ARF) ngay từ đầu.
Với tư cách là Chủ tịch ARF nhiệm kỳ 2000-2001, Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các nước khác
trong ASEAN duy trì những nguyên tắc cơ bản, bước đi vững chắc của ASEAN (tiếp tục tập trung
thực hiện các biện pháp xây dựng và củng cố lòng tin, tăng cường hiểu biết lẫn nhau) trên con đường
tiến tới “ngoại giao phòng ngừa".
Ngoài sáng kiến xây dựng "Chương trình hành động Hà Nội năm 1998”, Việt Nam đã đưa ra sáng
kiến, cùng với các nước ASEAN kiên trì thương lượng với Trung Quốc để có một “Tuyên bố về

nguyên tắc ứng xử biển Đông” vào năm 2002.
Gần đây, Việt Nam đã tích cực và chủ động trong việc đóng góp nội dung cho “Tuyên bố Bali II" và
"Dự thảo Cộng đồng ASEAN” nhằm hình thành Tuyên bố và Kế hoạch hành động của Cộng đồng An
ninh ASEAN.
Việt Nam cho rằng, cách tiếp cận An ninh toàn diện với việc khẳng định sự ổn định của chính trị-xã
hội, tăng trưởng kinh tế với thu hẹp khoảng cách phát triển, xóa đói giảm nghèo làm nền tảng và cơ sở
đảm bảo sự bền vững của Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC). Ý kiến, đề xuất này được các nước
ASEAN nhất trí, và được nhấn mạnh trong Hành động của Cộng đồng An ninh ASEAN.
Ngoài ra, Việt Nam đã vận động nhiều nước khác đề cao chủ quyền quốc gia, đưa vào văn kiện ASC
những cụm từ hoặc tuyên bố mạnh mẽ như "các nước ASEAN không để lãnh thổ của mình được phép
sử dụng vào mục đích chống phá các nước khác; cũng không cho phép can thiệp quân sự từ bên ngoài
vào dưới bất kỳ hình thức và biểu hiện nào". Đây là một trong những tuyên bố mạnh mẽ nhất của
ASEAN từ trước tới nay về chính trị và an ninh.
Việt Nam cũng đã góp phần to lớn vào việc mở rộng quan hệ ngoại giao và hợp tác quốc tế của
ASEAN, giúp ASEAN mở rộng thêm nhiều đối tác như Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, tổ chức nhiều Diễn
đàn hợp tác lớn như ASEM, sắp tới là APEC-2006, giúp các nước lớn còn lại của thế giới tham gia dễ
dàng hơn vào ASEAN, ASEM. Ngoài ra, Việt Nam còn tích cực trong hoạt động chính trị, an ninh như
tham gia các hoạt động của Nghị viện ASEAN, hợp tác trong các vấn đề an ninh phi truyền thống.
- Về kinh tế: 10 năm qua, Việt Nam đã để lại ấn tượng khá tốt đẹp đối với các nước ASEAN không chỉ
về thành tựu phát triển kinh tế (nhất là trong lĩnh vực tăng trưởng kinh tế, xóa đói, giảm nghèo) mà
còn trong việc thực hiện cam kết hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã thực hiện lộ trình AFTA, tích cực chủ động tham gia mọi
chương trình hợp tác kinh tế của ASEAN, phù hợp với quyền lợi của đất nước. Từ năm 1995 đến năm
2000, Việt Nam đã đưa vào danh sách CEPT 4.233 mặt hàng, chiếm 67% trong tổng số 6.332 mặt
hàng trong biểu thuế nhập khẩu ưu đãi MFN.

3


Tháng 2/2001, Chính phủ Việt Nam đã công bố lịch trình tổng thể cắt giảm thuế theo Hiệp định CEPT

cho đến 1/1/2006 là thời điểm hội nhập đầy đủ vào AFTA. Việt Nam cũng tham gia ký kết Hiệp định
khung về Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA) ngày 7/10/1998, với mục tiêu tạo ra một khu vực đầu tư tự
do trong nội bộ các nước ASEAN vào năm 2010 và cho các nước khác ngoài ASEAN và năm 2020.
Việt Nam tham gia ký và thực hiện khá tốt Hiệp định khung về Khu vực tự do hóa mậu dịch ASEAN
(AFAS), về “Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN" (AICO), về "Sáng kiến hội nhập" (IAI), đã
chủ động đưa ra và tích cực thực hiện Chương trình hợp tác phát triển Tiểu vùng sông Mê Công mở
rộng (GMS), trong đó có dự án xây dựng các hành lang kinh tế, nhất là hành lang kinh tế Đông-Tây,
hành lang lưu thông Côn Minh-Hà Nội-Hải Phòng...
Có thể khẳng định rằng, về hợp tác và liên kết khu vực nói chung, và kinh tế nói riêng, Việt Nam đã
chủ động đưa ra nhiều sáng kiến, đề xuất, được các nước ASEAN đánh giá cao.
Về quan hệ mậu dịch giữa Việt Nam và các nước trong ASEAN từ thập niên 1990, nhất là từ sau khi
Việt Nam vào ASEAN năm 1995, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm đạt trên 20%. Năm 1994,
tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam với ASEAN chiếm tỉ trọng 21%, đến đầu những năm 2000
chiếm trên 25%.
Về đầu tư, đến tháng 6/1995, các nước trong ASEAN đầu tư vào Việt Nam gần 200 dự án với tổng số
vốn pháp định trên 2 tỉ USD, chiếm 15% FDI vào Việt Nam thời điểm đó. Đến năm 2004, các nước
khác trong ASEAN đã đầu tư trên 600 dự án với tổng số vốn đăng ký trên 10 tỉ USD, chiếm 27% FDI
vào Việt Nam. Xingapo từ nhiều năm qua đã trở thành nước đầu tư số 1 tại Việt Nam với gần 400 dự
án, số vốn đăng ký lên đến 8 tỉ USD đến cuối 2004. Malaixia, Thái Lan cũng là những nước đầu tư
lớn, xếp thứ 11-12 với tổng số vốn đăng ký trên 1 tỉ USD.
Không chỉ hội nhập kinh tế với ASEAN, Việt Nam cùng các nước này mở rộng không gian hợp tác
kinh tế với các nước Đông Á (ASEAN+3), với các nước EU trong khuôn khổ ASEM, với các nước
Châu Á-Thái Bình Dương trong khuôn khổ APEC.
Trong 10 năm qua, Việt Nam luôn phấn đấu phát triển kinh tế đạt tốc độ cao với tỷ lệ tăng trưởng
trung bình khoảng 7%. Tuy vẫn còn là nước nghèo, nhưng Việt Nam đã rút ngắn được một chút
khoảng cách tụt hậu về kinh tế so với các nước ASEAN 6 (Thái Lan, Xinhgapo, Malaixia, Inđônêxia,
Philíppin, Brunây). Từ năm 1994 đến năm 2000, Việt Nam đã rút ngắn khoảng cách GDP/đầu người
so với các nước trong khu vực (so với Xinhgapo từ 17,1 lần xuống còn 15 lần, với Malaixia từ 5 lần
xuống còn 4,2 lần, với Thái Lan từ 4,4 lần xuống còn 3,4 lần, với Philíppin từ 2,5 lần xuống còn 1,9
lần, với Inđônêxia từ 2,3 lần xuống còn 1,7 lần).

Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực, bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỷ trọng các
ngành kinh tế khu vực I (nông, lâm, ngư nghiệp) giảm đáng kể, năm 2004 còn 21,76%; khu vực II
(công nghiệp, xây dựng) 40,09%; khu vực III (thương mại, dịch vụ) 38,15%. Đời sống của các tầng
lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt; chính sách xã hội, xóa đói giảm nghèo đã được những thành tựu
đáng kể và được cộng đồng quóc tế ghi nhận.
Việc Việt Nam đang tích cực chuẩn bị các điều kiện để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) sẽ là mốc đánh dấu sự phát triển và hội nhập kinh tế của Việt Nam.

4


- Về văn hóa-xã hội: Trong 10 năm qua, tích cực hội nhập với khu vực Đông Nam Á và thế giới, Việt
Nam luôn gìn giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa của khu
vực và thế giới, giao lưu học hỏi, tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các nước bạn bè trong ASEAN.
Các trường đại học, các học viện, trung tâm nghiên cứu đã góp phần quan trọng vào công việc này.
Hàng ngàn sinh viên học tập và tốt nghiệp ngành Đông phương học là nguồn nhân lực chất lượng cao
cung cấp cho các cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các cơ quan ngoại giao,
văn hóa...
Hiện nay một số trường, viện đang đào tạo trên đại học các ngành Châu Á học, Đông phương học.
Viện Nghiên cứu Đông Nam Á là cơ quan nghiên cứu hàng đầu của cả nước, đã công bố hàng chục
công trình có giá trị về Đông Nam Á, về quan hệ Việt Nam-ASEAN.
Ngày nay ASEAN đã trở nên khá quen thuộc với giới thanh niên, sinh viên ở các thành phố lớn trong
cả nước. Việc trao đổi văn hóa giáo dục giữa Việt Nam với các nước ASEAN đã không ngừng được
mở rộng. Nhiều đoàn nghệ thuật Việt Nam đến thăm, biểu diễn ở các nước bạn, giới thiệu nền văn hóa
dân tộc đặc sắc của Việt Nam; đồng thời nhiều đoàn nghệ thuật các nước ASEAN đã đến biểu diễn,
giao lưu tại Việt Nam.
- Về giáo dục: Ngay từ đầu những năm 1990, Bộ Giáo dục Đào tạo Việt Nam đã coi việc mở rộng
quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực Đông Nam Á là một ưu tiên. Thực hiện chủ trương đó,
tháng 2/1990, Bộ Giáo dục Đào tạo chính thức gia nhập tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các nước Đông
Nam Á (SEAMEO). S

Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính của ASEAN, Bộ Giáo dục Đào tạo Việt Nam trở thành
thành viên của Tiểu ban Giáo dục của ASEAN (ASCOE), đã tích cực phối hợp với các nước trong khu
vực với nhiều hoạt động thiết thực, có hiệu quả và được các bạn đánh giá cao.
Những cơ hội và thách thức mới:
Những năm gần đây, sự thay đổi nhanh chóng của môi trường địa-chính trị khu vực (với sự trỗi dậy
của Trung Quốc, sự gia tăng hiện diện và can dự của Mỹ ở Châu Á, sự chuyển mình của Ấn Độ và
nhất là sự trì trệ trong ASEAN) đã thôi thúc ASEAN đổi mới, điều chỉnh chính sách nhằm tăng tính
cạnh tranh và thúc đẩy liên kết khu vực.
Một trong những thích ứng mới này là xây dựng Cộng đồng ASEAN (AC) vào năm 2020 và tích cực
mở rộng đàm phán, thiết lập các Khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương (RTA và BFTA)
với các đối tác ngoài khối. Bên cạnh đó, ASEAN đã và đang có những linh hoạt hơn trong việc áp
dụng “phương thức ASEAN” bằng cách cho phép thực hiện nguyên tắc hay công thức 10-X từ năm
2002...
Việc quyết định thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc (CAFTA) từ 2002, và đặc
biệt là tuyên bố Bali II năm 2003 về sự thiết lập AC dựa trên 3 trụ cột chính là Cộng đồng Kinh tế
(AEC), Cộng đồng An ninh (ASC) và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội (ASCC) vào năm 2020 là những
quyết định đúng hướng, kịp thời của ASEAN trước nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn.
Việc hình thành và tăng cường các cơ chế hình thức hợp tác và liên kết mới này đã và đang tạo ra
nhiều cơ hội cho sự phát triển của ASEAN, trong đó có Việt Nam:

5


1. Thứ nhất, việc thiết lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) sẽ đưa ASEAN trở thành một khối có sự
liên kết vững chắc, một thị trường duy nhất có cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu thông tự
do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư vốn và nhân công có tay nghề sẽ thúc đẩy cải cách hệ thống pháp luật
và nền hành chính quốc gia trong nước, tiếp cận được nhiều hơn các yếu tố bên ngoài, nhất là vốn, thị
trường và công nghệ hiện đại, làm tăng cơ hội việc làm và nâng nhanh mức sống của dân chúng.
2. Thứ hai, sự thiết lập Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC) sẽ làm tăng nhanh mức độ tin cậy và ý
thức cộng đồng trong ASEAN, thúc đẩy hợp tác chính trị-an ninh nội khối lên tầm cao mới.

Điều này sẽ góp phần tạo ra sự thăng bằng trong hợp tác khu vực và quốc tế, giúp ASEAN vừa tăng
cường tính mở, vừa duy trì được bản sắc, phong cách ứng xử truyền thống của mình, làm tăng khả
năng phòng ngừa và tiến tới giải quyết các xung đột có thể xảy ra trong tương lai. Điều này phù hợp
với chính sách và lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của Việt Nam.
3. Thứ ba, sự gia tăng giành ưu thế kiểm soát địa-chính trị giữa các nước lớn tại Đông Nam Á, đặc biệt
là giữa Mỹ và Trung Quốc cùng với cơ hội phát triển của thể chế thương mại tự do đa phương, song
phương về một mặt nào đó, cũng mở rộng cơ hội hợp tác và tăng sức “mặc cả” của ASEAN trong các
vấn đề quốc tế khu vực. Điều này sẽ có lợi cho Việt Nam - nước có vị trí chiến lược, đang thu hút sự
chú ý của các nước lớn.
Bên cạnh những thuận lợi trên, Việt Nam đã và sẽ gặp phải những thách thức phải vượt qua để tham
gia đầy đủ và có hiệu quả cao hơn vào hoạt động của ASEAN, tương xứng với vị trí và vai trò của
mình trong Hiệp hội:
- Về hợp tác trong Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC): đối với Việt Nam, thách thức không phải là
nhỏ trong khi gia nhập ASC. Hợp tác an ninh không chỉ thuần túy hay nghiêng về hợp tác an ninh phi
truyền thống mà cả về hợp tác chính trị và quốc phòng.
Sự khác biệt về chế độ chính trị và hệ tư tưởng còn là một trong những trở ngại khá lớn đối với Việt
Nam trong ASC. Tuy nhiên, với việc duy trì cơ chế theo "Phương thức ASEAN" trong ASC, thì sự tác
động của cộng đồng này đối với đời sống chính trị và an ninh ASEAN nói chung, Việt Nam nói riêng
sẽ không lớn.
- Trong Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC): Về khía cạnh chính trị, thì sự hội nhập sâu rộng về kinh tế
đòi hỏi Việt Nam phải hài hòa về mặt pháp luật cũng như ứng xử. Điều này ít hay nhiều sẽ đụng chạm
đến chủ quyền và an ninh quốc gia.
Về kinh tế, Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi và hiệu quả quản lý còn bất cập, hệ thống các thể
chế kinh tế thị trường phát triển chưa đồng bộ, còn yếu kém... AEC sẽ tạo ra sức ép lớn đối với các sản
phẩm và thị trường của Việt Nam trong và ngoài nước.
Còn tác động về mặt xã hội: có thể tạo ra các dòng di cư lớn, trong đó có “chảy máu chất xám”, làm
tăng nạn thất nghiệp và tệ nạn do nhiều công ty bị phá sản và nhiều người chưa thể làm quen hay điều
chỉnh phù hợp với cơ chế hay môi trường mới.
- Trong hợp tác Đông Á: Việt Nam là thành viên ASEAN, cầu nối của ASEAN với các nước Đông
Bắc Á về mặt địa lý, có thế và lực đang lên sẽ đóng vai trò như thế nào trong liên kết ASEAN và Hợp


6


tác Đông Á? Liệu sự chậm chạp trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh và liên kết nội khối của
ASEAN có ảnh hưởng như thế nào đối với Việt Nam và tiến trình nhất thể hóa Đông Á là những vấn
đề đang đặt ra và cần có lời giải đáp.
10 năm, một chặng đường Việt Nam hội nhập vào khu vực. Việt Nam đã có những đóng góp nhất định
cho sự tồn tại, phát triển của ASEAN và cũng đã đạt được những thành quả bước đầu.
Phía trước của ASEAN tuy còn nhiều cơ hội để phát triển, song cũng không ít thách thức đòi hỏi Việt
Nam cũng như các thành viên khác trong ASEAN phải tăng cường hợp tác, liên kết chặt chẽ hơn nữa,
cùng nhau đưa ra những ý tưởng mới và các biện pháp thực hiện các ý tưởng đó để có thể biến ý tưởng
của “tầm nhìn 2020" thành hiện thực, xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN và trở thành một nhân
tố chủ đạo của Cộng đồng Châu Á.

20 năm hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: Tiến trình, thành tựu, kinh
nghiệm
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc giành được nhiều lợi ích và giảm thiểu tối đa
những tác hại rủi ro được quyết định bởi chỗ mỗi nước phải có một chiến lược xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ và cơ cấu lại nền kinh để tranh thủ được các nguồn lực quốc tế, phát huy có hiệu quả
mọi nguồn nội lực và kiểm soát được nền kinh tế - xã hội của mình. Với nhận định như vậy, Đảng và
Nhà nước ta đã có chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế phù hợp trong tình hình mới.

Chủ trương của Đảng về tiến trình hội nhập
Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đặt ra từ Đại hội VI (năm 1986) trên
cơ sở đường lối đổi mới và “mở cửa” nền kinh tế và trên cơ sở chính sách, quan hệ đối ngoại của Việt
Nam với phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 3 (khoá VI) chỉ rõ: Việt Nam sẵn sàng mở rộng quan hệ
hợp tác với tất cả các nước, các công ty nước ngoài trên cơ sở cùng có lợi và không có điều kiện chính
trị ràng buộc, hạn chế đến mức thấp nhất cái giá phải trả.

Đại hội VII (năm 1991) đã thông qua Cương lĩnh của Đảng và chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 10 năm, đồng thời cũng nêu ra tư tưởng hội nhập kinh tế quốc tế là: Việt Nam muốn là bạn với tất
cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
Cụ thể hoá đường lối Đại hội VII, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 3 (khoá VII) đã ra
chuyên đề Chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá mà Đại hội VII nêu ra, đánh dấu bước khởi đầu
của tiến trình hội nhập của Việt Nam.
Đại hội VIII (năm 1996) đã khẳng định chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, đó là xây dựng
một nền kinh tế “mở” và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.

7


Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 4 (khoá VIII) đã nêu nhiệm vụ cụ thể cho quá trình này
là tích cực chủ động xâm nhập và mở rộng vào thị trường quốc tế vững chắc, tích cực, khẩn trương
đàm phán với Mỹ, gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Có kế hoạch cụ thể để chủ động cam kết gia nhập Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA). Như vậy, Đại hội VIII và các Nghị quyết Trung ương khoá này đã chỉ đạo tiến
trình hội nhập khẩn trương hơn.
Đến Đại hội IX (năm 2001), tiếp tục khẳng định chủ trương Đại hội VIII nêu ra và đã đưa ra
một khẩu hiệu: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Đồng thời, Đại hội IX nhấn mạnh: Việt Nam chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc
tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo vệ môi trường.
Như vậy, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từng bước được hình thành cùng
với sự phát triển của đất nước.
Các bước đi trong quá trình hội nhập
Về các bước đi trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, chúng ta cần xem xét đến
hai mặt.
Đối với bên ngoài: Chúng ta đã thực hiện lần lượt các bước đi cụ thể. Đó là: Năm 1993 đã khai

thông quan hệ với Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á
(ADB); 1/1995 gửi đơn xin gia nhập WTO (cho đến nay, chúng ta đã tiến hành được 10 phiên đàm
phán đa phương và kết thúc đàm phán với 20 đối tác song phương. Tiến trình đàm phán gia nhập
WTO của Việt Nam đang bước vào giai đoạn cuối cùng. Phiên đàm phán đa phương thứ 10 về việc
Việt Nam gia nhập WTO được tiến hành vào ngày 15/9, là phiên rất quan trọng và có ý nghĩa quyết
định đối với quá trình đàm phán của Việt Nam với các đối tác đa phương. Việc đạt được thỏa thuận
sớm với EU, một đối tác thương mại lớn có 25 nước thành viên, đã có tác động tích cực đối với quá
trình đàm phán của Việt Nam); ngày 25/7/1995 đã chính thức gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam
Á (ASEAN), đồng thời tham gia vào AFTA và Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
(CEPT); 3/1996 tham gia Diễn đàn Á - Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập; 15/6/1996 gửi
đơn xin gia nhập APEC; 11/1998 được công nhận là thành viên của APEC; năm 2000 ký Hiệp định
thương mại song phương Việt - Mỹ…
Đối với trong nước: Chúng ta đã làm 3 việc cơ bản: Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật, văn
bản dưới luật tạo hành lang pháp lý phù hợp cho hội nhập (Ví dụ: Luật Doanh nghiệp, Luật Công ty,
Luật Đầu tư nước ngoài…); thực hiện sự chuyển đổi thể chế kinh tế, đổi mới chính sách và hệ thống
kinh tế vĩ mô và cố gắng cải cách kinh tế, xây dựng cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế; để thống nhất việc chỉ đạo quá trình Việt Nam hội
nhập kinh tế quốc tế, ngày 10/2/1998 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 31/1998-TTg thành lập Uỷ
ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế. Uỷ ban này có nhiệm vụ giúp Thủ tướng chỉ đạo và điều hành
các bộ, ban, ngành trong việc tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Những kết quả đã đạt được trong tiến trình hội nhập

8


Nước ta triển khai hội nhập kinh tế quốc tế chưa lâu, kinh nghiệm còn hạn chế nhưng cũng đã
mang lại những kết quả bước đầu khá khả quan. Đó là:
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước và có quan hệ kinh tế - thương
mại với trên 160 nước và vùng lãnh thổ, với hầu hết các tổ chức quốc tế, khu vực quan trọng. Đẩy lùi

được chính sách bao vây, cấm vận của các nước, thế lực thù địch. Tạo được thế thuận lợi cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao vị thế của Việt Nam trên chính trường và thương trường
quốc tế.
Khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
(cũ) và các nước Đông Âu sụp đổ, khủng hoảng kinh tế trong khu vực năm 1997, đồng thời cũng đã
mở rộng được thị trường xuất khẩu. Năm 2004, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước đạt
26,003 tỷ USD, tăng 28,9% so với năm 2003 và là mức tăng cao nhất trong bốn năm trở lại đây. Ðây
là một trong những thành tựu nổi bật của nền kinh tế nước ta năm qua. Tính riêng trong tháng 8 năm
nay, kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt 2,8 tỷ USD, nâng kim ngạch xuất khẩu trong 8 tháng qua
lên hơn 20,3 tỷ USD, tăng gần 19% so với cùng kỳ năm trước, đã chứng tỏ đường lối đổi mới và hội
nhập kinh tế quốc tế của Ðảng và Nhà nước ta đang được thực tiễn khẳng định.
Thu hút được nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và tranh thủ được nguồn viện trợ
phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn và giảm đáng kể nợ nước ngoài. Năm 2004, vốn thực hiện
của khu vực đầu tư nước ngoài đạt 2,85 tỷ USD, tăng 7,5% so với năm 2003 và vượt so với dự kiến
ban đầu (mục tiêu năm 2004 là 2,75 tỷ USD). Doanh thu của khu vực đầu tư nước ngoài trong năm
2004 đạt khoảng 18 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2003. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã
tạo thêm việc làm cho 7,4 vạn lao động, đưa tổng số lao động trực tiếp lên khoảng 74 vạn người. Năm
2004 cả nước đã thu hút được hơn 4,2 tỷ USD vốn đầu tư mới, tăng 37,8% so với năm 2003, trong đó
vốn cấp mới đạt trên 2,2 tỷ USD và vốn bổ sung đạt gần 2 tỷ USD. Đây là mức đăng ký cao nhất kể từ
sau khủng hoảng tài chính khu vực diễn ra vào năm 1997.
Việc tăng cường vận động xúc tiến đầu tư ở nước ngoài, việc ký kết và thực hiện các hiệp định
song phương liên quan đến đầu tư đã xuất hiện động thái mới về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thể
hiện qua việc gia tăng số lượng nhà đầu tư vào Việt Nam khảo sát, tìm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh.
Xu hướng nói trên đã tạo điều kiện để hình thành các dự án đầu tư mới trong năm 2005. Nếu tính cả số
vốn của những dự án mới được cấp phép và số vốn bổ sung của những dự án đang hoạt động thì tổng
số vốn đăng ký mới trong 7 tháng đầu năm 2005 đạt khoảng 3,2 tỷ USD, tăng 66,6% so với cùng kỳ
năm trước.
Tiếp thu được nhiều thành tựu mới về khoa học, công nghệ và kỹ năng quản lý. Nhiều ngành
kinh tế mới đã xuất hiện dựa trên cơ sở tăng cao hàm lượng chất xám trong sản xuất - kinh doanh. Các
ngành cơ khí chế tạo, đóng tàu… từng bước được nâng lên tầm cao mới, sản phẩm ngày càng tạo được

uy tín trên thị trường trong và ngoài nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá. Tỷ trọng giá trị công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) ngày càng tăng, nông nghiệp ngày càng giảm. Trong đó xu hướng tỷ trọng giá trị của dịch vụ
ngày càng tăng, tổng giá trị sản phẩm nông - công nghiệp ngày càng giảm tương ứng.
Giữ vững sự ổn định về kinh tế. Điều này thể hiện ở nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng liên tục
khá cao và tương đối ổn định, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế. Từ năm 1991 đến năm
2000, GDP tăng liên tục qua các năm với nhịp tăng bình quân hàng năm 7,5%. So với năm 1990, năm

9


2000 GDP tăng gấp 2,07 lần. Tuy xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực năm 1997, nhưng từ
năm 2001 đến 2004, GDP của Việt Nam vẫn có nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm 7,25%.
Trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng GDP quí I đạt 7,23%, 6 tháng đầu năm đạt 7,63% (tuy nhiên, tốc
độ tăng này chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước - mặc dù có chịu ảnh hưởng do thiên tai,
dịch bệnh). Như vậy liên tục trong thời gian qua, kinh tế Việt Nam luôn đạt mức tăng trưởng cao so
với các nước trong khu vực. Đặc biệt, tỷ lệ người nghèo đói ở Việt Nam đã giảm mạnh, từ 58% (năm
1993) xuống 24,1% vào năm 2004 (theo chuẩn nghèo 1USD/ngày), chuẩn nghèo lương thực đã giảm
từ 24,9% (năm 1993) xuống 7,8% trong năm 2004.
Bước đầu chúng ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng cũng vẫn còn những mặt
hạn chế, yếu kém nhất định. Cụ thể là: Nhận thức về hội nhập của cán bộ và nhân dân chưa được nhất
trí cao. Chưa có một kế hoạch tổng thể và dài hạn để hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống chính sách,
luật pháp quản lý kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh, còn có những chính sách, luật chưa thực sự
phù hợp với những thông lệ quốc tế; lực lượng sản xuất có nguy cơ tụt hậu so với trình độ phát triển
chung của thế giới, do đó sức cạnh tranh hàng hoá kém, hiệu quả đầu tư thấp. Cơ cấu hàng hoá chủ
yếu là bán sản phẩm và gia công, xuất khẩu tuy với khối lượng lớn nhưng giá trị thu được thấp. Trước
xu thế nhập khẩu và sức cạnh tranh chưa đủ mạnh, có thể dẫn đến khả năng mất thị trường trong và
ngoài nước. Trong thời gian qua, mục tiêu phát triển kinh tế của ta là hướng về xuất khẩu, nhưng thực
tế lại có xu hướng thực hiện theo mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Nền kinh tế đang ở
trình độ phát triển chậm, còn chênh lệch quá nhiều so với các nước trong khu vực; đội ngũ cán bộ

quản lý còn thiếu, yếu, đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại; Bản sắc văn
hoá đang bị đe doạ, đặc biệt là lối sống của lớp trẻ.
Với những thành công bước đầu về hội nhập kinh tế quốc tế mà Đảng và Nhà nước ta đã xác
định trong thời gian qua, chúng ta tin tưởng rằng đến năm 2020, nước ta cơ bản sẽ trở thành một nước
công nghiệp, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Việt Nam chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, đóng góp vào tăng cường liên kết kinh tế và mở
rộng thương mại trong APEC
(MOFA - 9/11/2011) - Hội nghị các nhà Lãnh đạo Kinh tế của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á –
Thái Bình Dương (APEC*) lần thứ 19 sẽ diễn ra từ ngày 12 - 13/11/2011 tại thành phố Hô-nô-lu-lu,
bang Ha-oai, Hoa Kỳ. Đây là năm thứ 19, kể từ khi những Nhà Lãnh đạo của các nền kinh tế thành
viên APEC gặp nhau lần đầu tiên tại đảo Bơ-lếch-kơ, bang Oa-sinh-tơn, Hoa Kỳ để bàn về mục tiêu
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kết nối hai bờ Thái Bình Dương thông qua tự do hóa thương mại, kinh tế,
đầu tư. Đây cũng là năm đầu tiên Việt Nam triển khai hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần 11. Nhân dịp này, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đoàn Xuân
Hưng có bài viết nêu bật ý nghĩa của Hội nghị APEC lần này và vai trò và đóng góp của Việt Nam
trong APEC kể từ khi nước ta gia nhập Diễn đàn khu vực này năm 1998.
Hợp tác APEC năm 2011 – Những bước tiến tiếp theo trong tiến trình liên kết kinh tế khu vực.
Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu và khu vực phục hồi chậm lại với nhiều khó khăn, thách thức,
Vòng đàm phán Đô-ha vẫn bế tắc, với vai trò là Diễn đàn liên kết kinh tế quan trọng ở khu vực châu
Á- Thái Bình Dương, APEC đã nhất trí đưa ra định hướng hợp tác trong năm 2011 là “Tăng cường
liên kết kinh tế khu vực và mở rộng thương mại” nhằm thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm và hướng

10


tới phát triển bền vững. Theo đó, APEC tập trung vào ba trọng tâm là Đẩy mạnh liên kết kinh tế khu
vực và mở rộng thương mại, Thúc đẩy tăng trưởng xanh, Nâng cao hợp tác và đồng bộ về chính sách.
Để chuẩn bị cho Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 19, từ đầu năm đã diễn ra nhiều Hội nghị cấp Bộ
trưởng, trong đó có những Hội nghị lần đầu tiên như Hội nghị Bộ trưởng Thương mại và Doanh
nghiệp Vừa và Nhỏ, Hội nghị Bộ trưởng Giao thông và Năng lượng, Hội nghị Bộ trưởng về Rừng, Hội

nghị và Đối thoại Cao cấp APEC về Phụ nữ và Phát triển Kinh tế. Thông qua các Hội nghị này, cùng
với nhiều hoạt động khác ở các cấp, các lĩnh vực, APEC đã triển khai nhiều chương trình hợp tác quan
trọng và thiết thực. Có thể kể đến một số kết quả nổi bật sẽ được trình lên Hội nghị cấp cao 19 thông
qua như hợp tác nhằm hạn chế những rào cản đối với thương mại và đầu tư cho doanh nghiệp vừa và
nhỏ và doanh nghiệp nữ, thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu Bô-go về tự do hóa thương mại và đầu
tư, sáng kiến miễn thuế hải quan trong APEC cho các chuyến hàng có giá trị thấp dưới 100 đô la Mỹ,
sáng kiến về tạo thuận lợi cho di chuyển thể nhân, các cam kết mới về giảm cường độ sử dụng năng
lượng trong khu vực, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong giao thông vận tải và phát triển hệ
thống giao thông sử dụng năng lượng thay thế, ít các-bon. Ngoài ra, APEC tiếp tục dành ưu tiên và
nguồn lực để giúp các thành viên nâng cao năng lực trong quá trình đổi mới và cải cách, phòng tránh
và giảm nhẹ thiên tai, an ninh lương thực và chống chủ nghĩa khủng bố.
Ngay trước Hội nghị cấp cao sắp tới cũng sẽ diễn ra Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế APEC
lần thứ 23, Hội nghị Bộ trưởng Tài chính APEC lần thứ 18, Hội nghị Thượng đỉnh doanh nghiệp
APEC và Hội nghị Hội đồng Tư vấn Kinh doanh APEC (ABAC). Các Hội nghị này sẽ tiếp tục khẳng
định quyết tâm và những cam kết cụ thể để thúc đẩy hơn nữa liên kết kinh tế và mở rộng thương mại
trong khu vực. Đồng thời, các Nhà Lãnh đạo APEC cũng sẽ đối thoại và trao đổi với cộng đồng doanh
nghiệp, nhằm tiến tới hiện thực hóa mục tiêu tạo ra một khu vực thuận lợi và an toàn cho thương mại,
đầu tư.
Có thể nói, năm 2011 tiếp tục đánh dấu những bước tiến quan trọng trong tiến trình xây dựng và phát
triển của APEC, qua đó góp phần khẳng định vai trò và vị thế của APEC tại khu vực và trong nền kinh
tế toàn cầu. Hội nghị cấp cao sẽ là dịp để các Nhà Lãnh đạo APEC trao đổi phương thức hợp tác trong
tương lai, đề ra những biện pháp nhằm thúc đẩy quá trình phục hồi kinh tế của khu vực, giúp các nền
kinh tế tăng trưởng và hướng tới phát triển bền vững, đặc biệt đối với những nước đang phát triển,
trong đó có Việt Nam.
Việt Nam - thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm trong APEC.
Đối với Việt Nam, Diễn đàn APEC có ý nghĩa hết sức quan trọng. APEC là khu vực dành viện trợ
phát triển lớn nhất, chiếm tới 65% tổng số vốn đầu tư nước ngoài, 60% giá trị xuất khẩu, 80% giá trị
nhập khẩu, và 75% tổng số khách du lịch quốc tế tới Việt Nam. Hầu hết các đối tác chiến lược quan
trọng và các đối tác kinh tế - thương mại hàng đầu của ta là các nền kinh tế thành viên của APEC. Với
tất cả những yếu tố trên, APEC ngày càng có vai trò quan trọng trong chiến lược hội nhập quốc tế sâu

rộng, toàn diện cũng như quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta.
Kể từ khi trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn APEC năm 1998, Việt Nam đã và đang tiếp
tục có những đóng góp quan trọng cho Diễn đàn. Chúng ta đã thực sự tạo ấn tượng mạnh mẽ và hoàn
thành tốt đẹp vai trò chủ nhà của APEC trong năm 2006, nổi bật nhất là thành công của Hội nghị cấp
cao APEC lần thứ 14 tại Hà Nội, một trong những Hội nghị được đánh giá có ý nghĩa bản lề, đưa ra
những định hướng hợp tác dài hạn cho APEC. Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc các cam kết hợp tác
của APEC như Báo cáo về Chương trình Hành động Quốc gia hàng năm, thực hiện Chương trình

11


Hành động tập thể, các kế hoạch hợp tác về thuận lợi hoá thương mại, đầu tư... Ta cũng đảm nhận vị
trí Chủ tịch và điều hành nhiều Nhóm công tác quan trọng như Nhóm Công tác Y tế nhiệm kỳ 2009 2010, Nhóm công tác về Đối phó với tình trạng khẩn cấp, Nhóm công tác về thương mại điện tử…
Việt Nam đã triển khai thành công hơn 60 sáng kiến, đồng bảo trợ hàng trăm sáng kiến trên hầu hết
các lĩnh vực thương mại, đầu tư, hợp tác kinh tế kỹ thuật, y tế, đối phó với thiên tai, chống khủng bố...
Trong năm 2011, nhằm hướng tới Hội nghị Cấp cao, chúng ta đã tổ chức thành công 2 hội thảo APEC
về “Đối phó với lũ lụt bất thường – Tầm nhìn mới cho các thành viên APEC” ngày 28 – 29 tháng 7 tại
Đà Nẵng, và về “Tự chứng nhận xuất xứ” ngày 28 – 29 tháng 7 tại Hà Nội.
Triển khai mạnh mẽ chủ trương mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra về chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế, tăng cường quan hệ với các đối tác và tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các
khuôn khổ hợp tác ở châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam sẽ tiếp tục tham gia một cách tích cực, chủ
động và có trách nhiệm trong APEC, qua đó phát huy hơn nữa vai trò và vị thế của nước ta tại Diễn
đàn cũng như tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương và trên thế giới.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao nước ta tham dự Hội nghị cấp cao
APEC 2011, mang theo một thông điệp rõ ràng với thế giới. Đó là 25 năm Đổi mới đã đưa Việt Nam
tiến những bước dài vững chắc trên con đường phát triển và hội nhập, đóng góp tích cực vào hoà bình,
hợp tác vì phát triển và liên kết kinh tế của ASEAN, của khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên
phạm vi toàn cầu. Việt Nam đã trở thành một nền kinh tế hội nhập sâu, rộng và là đối tác đáng tin cậy
ở khu vực và trên thế giới, cam kết mạnh mẽ mở cửa, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị của sản xuất
và dịch vụ toàn cầu. Việt Nam đã quyết định tái cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng,

tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và các khuôn khổ pháp lý bảo đảm sự vận hành của cơ
chế thị trường; tạo ra môi trường bình đẳng minh bạch, thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư và kinh
doanh tại Việt Nam.
Tại APEC lần này, chúng ta sẽ tích cực cùng với nước chủ nhà Hoa Kỳ và các thành viên tham gia
đóng góp vào thành công chung của Hội nghị, đem lại những kết quả quan trọng và thiết thực không
những cho khu vực mà cho cả chính sự phát triển của Việt Nam. Chủ tịch nước và Đoàn đại biểu cấp
cao nước ta sẽ có nhiều cuộc tiếp xúc, trao đổi với Lãnh đạo các thành viên trong APEC nhằm tìm ra
những biện pháp góp phần thúc đẩy hơn nữa liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu, cũng như quan hệ
giữa ta với các đối tác trong khu vực, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư. Chủ tịch
nước cũng sẽ gặp gỡ giới doanh nghiệp Hoa Kỳ và khu vực châu Á – Thái Bình Dương để thúc đẩy
thương mại, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Đây cũng là dịp để Việt Nam đóng góp những sáng kiến vì lợi ích chung của khu vực, đồng thời tìm ra
khả năng hợp tác với các nền kinh tế khác trong APEC, nhằm đáp ứng những mục tiêu phát triển của
ta, trong đó trước mắt ổn định kinh tế vĩ mô của đất nước và những mục tiêu dài hạn trong Chiến lược
phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020. Việt Nam tiếp tục tham gia tích cực và triển khai nghiêm túc
những cam kết hợp tác của APEC. Điều này sẽ góp phần không nhỏ giúp chúng ta tái cơ cấu nền kinh
tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn
2011 – 2020. Tuy nhiên, để tận dụng những thuận lợi, trong quá trình tham gia APEC, chúng ta cũng
phải tập trung xử lý tốt một số thách thức do biến động phức tạp của kinh tế thế giới và cục diện quốc
tế, sự khác biệt về trình độ phát triển, ưu tiên giữa các thành viên, sự đan xen của các cam kết và các
hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực.
Với vị thế quốc tế ngày càng được nâng cao, cùng với chủ trương của Đảng và Nhà nước về chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế, Việt Nam sẽ tiếp tục sát cánh cùng các nền kinh tế thành viên đóng góp vào

12


thành công chung của Hội nghị cấp cao sắp tới, vì một khu vực châu Á – Thái Bình Dương hòa bình,
ổn định và thịnh vượng cho mọi người dân.





Được thành lập năm 1989 APEC đã không ngừng lớn mạnh và trở thành một Diễn đàn hợp tác
kinh tế có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của khu vực và toàn cầu. Với 21 thành viên,
trải rộng trên bốn châu lục quanh Thái Bình Dương, trong đó có các nền kinh tế lớn như Hoa
Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Liên bang Nga, 9 thành viên của Nhóm G20, các nền kinh tế mới
nổi và đang phát triển mạnh mẽ tại Đông Á, Đông Nam Á và Mỹ La tinh, các nền kinh tế trong
APEC chiếm 40% dân số, 55% GDP và hơn 44% thương mại toàn cầu.

Những thách thức khi kinh tế Việt Nam khi hội nhập kinh tế thế giới?
Khi hội nhập thế giới về mặt kinh tế thì người ta nói rất nhiều về những cơ hội, nhưng em biết bên
cạnh đó là nước ta phải đứng trước không ít thách thức, mong thầy cô cho em biết một số thách thức
nổi bật ạ?
Thật vậy, khi hội nhập kinh tế thế giới nước ta có nhiều cơ hội để phát triển, nhưng cũng có nhiều
thách thức, Và sau đây là một số thách thức mà nước ta phải vượt qua:
a/ Thách thức đối với Chính phủ
- Phải sửa đổi và xây dựng cơ chế chính sách phù hợp với các quy định của WTO:
-Sửa đổi và xây dựng mới khối lượng lớn văn bản luật và pháp lệnh
-Khuôn khổ pháp luật về kinh tế thương mại cần được hoàn thiện để hoạt động hiệu quả hơn và phù
hợp hơn với các quy định và chuẩn mực quốc tế.
-Nội luật hóa những vấn đề mới phát sinh trong thương mại quốc tế
-Bỏ các phương thức quản lý không phù hợp với WTO như những lệnh cấm, hạn chế định lượng, trợ
cấp không đúng qui định.
-Xây dựng các chính sách mới phù hợp với quy định của WTO như AMS, hỗ trợ xuất khẩu trong xúc
tiến thương mại, nâng cao chất lượng hàng hóa, hỗ trợ cước vận tải.v.v…
- Nguồn thu ngân sách bị suy giảm: Việc cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ làm giảm đáng kể nguồn thu
ngân sách trong giai đoạn đầu.

b/ Thách thức đối vối doanh nghiệp và xã hội:

- Mở cửa thị trường dẫn tới cạnh tranh gay gắt trong khi doanh nghiệp Việt Nam phần lớn vốn ít, công
nghệ không cao, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh không cao.
- Doanh nghiệp không được Nhà nước bao cấp vì phải bỏ những loại trợ cấp, hỗ trợ trái quy định của
WTO;

13


- Các doanh nghiệp chưa sẵn sàng tận dụng những cơ hội tiếp cận thị trường mới do hạn chế khả năng
và kiến thức hiểu biết thị trường bạn. Các nước lại có xu hướng áp đặt nhiều biện pháp bảo hộ thông
qua các biện pháp kỹ thuật, chống bán phá giá, trợ cấp, tự vệ, tiêu chuẩn môi trường…;
- Cạnh tranh trên thị trường nội địa sẽ tăng khi các hàng rào thương mại được cắt giảm;
- Những doanh nghiệp năng lực cạnh tranh kém có nguy cơ phá sản, hoặc giảm lợi nhuận vì tác động
của giảm thuế mở cửa thị trường;
- Doanh nghiệp Việt Nam sẽ thường vấp phải nhiều tranh chấp trong thương mại quốc tế và luôn ở thế
yếu hơn.
Khoảng cách giàu nghèo và mất công bằng trong xã hội gia tăng trong quá trình phát triển kinh tế nếu
như không có sự can thiệp hợp lý của Chính phủ.
- Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ
tăng lên. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm
vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ.
- Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc
gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy
theo đồng tiền.
- Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều "đối thủ" hơn, trên
bình diện rộng hơn, sâu hơn.

14




×