Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Luận Văn: Năng lực tư duy của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.8 KB, 88 trang )

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 3

Chương 1. THỰC CHẤT VÀ NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN QUY

ĐỊNH NĂNG LỰC TƯ DUY CỦA HỌC VIÊN Ở

TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ 10

1.1. Thực chất năng lực tư duy của học viên ở Trường Sĩ

quan Chính trị. 10

1.2. Những nhân tố cơ bản quy định năng lực tư duy của học

viên ở Trường Sĩ quan Chính trị. 28

Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT

TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY CỦA HỌC VIÊN

Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY 39
2.1. Thực trạng năng lực tư duy của học viên ở Trường Sĩ

quan Chính trị hiện nay 39

2.2. Giải pháp cơ bản phát triển năng lực tư duy của học


viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay 57

KẾT LUẬN 74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76

PHỤ LỤC 81

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chính trị viên là người chủ trì về chính trị, đảm nhiệm cơng tác đảng,
cơng tác chính trị ở cấp phân đội, họ cần có khả năng tư duy tốt để giải quyết
nhanh chóng, linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, chỉ
huy đơn vị theo chức trách, nhiệm vụ được giao. Nên việc nghiên cứu năng lực
tư duy của học viên đào tạo chính trị viên nhằm tìm giải pháp phát triển nó là
vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng.
Trường Sĩ quan Chính trị trung tâm đào tạo sĩ quan chính trị cấp phân
đội cho tồn qn. Trong những năm qua, nhà trường thực hiện đổi mới đồng
bộ, có trọng tâm, trọng điểm trong giáo dục đào tạo, đặc biệt là phát triển năng
lực tư duy cho học viên. Trên cơ sở đó, nhà trường có những điều chỉnh về
chương trình, nội dung giáo dục - đào tạo đã đề ra, bảo đảm cho người học phát
triển toàn diện đáp ứng theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Trong đó, đặc biệt chú
trong phát triển năng lực tư duy độc lập sáng tạo cho học viên để họ có thể
nhận thức và xử lý tốt mọi tình huống trong q trình học tập, rèn luyện và có
thể đảm đương tốt nhiệm vụ theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
Năng lực tư duy của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị được hình
thành, củng cố và phát triển trong suốt q trình học tập, rèn luyện tại
trường. Trong đó, thời gian học tập là giai đoạn cơ bản, đặt nền tảng cho
học viên lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ xảo, kỹ năng, phương pháp, đạo đức

nghề nghiệp, lối sống dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn của giảng viên, cán bộ
quản lý của nhà trường.
Tuy vậy, học viên trong quá trình học tập việc tích lũy vốn kiến thức thực
tiễn, tri thức về năng lực tư duy cho bản thân còn nhiều hạn chế như: nhận thức
về vị trí, vai trị năng lực tư duy cũng như phát triển năng lực tư duy có mặt chưa
tương xứng; trong xử lý các tình huống thiếu dứt khốt, cịn biểu hiện rập khn,
máy móc; một số cán bộ giảng viên, cơ quan quản lý giáo dục còn biểu hiện xem
nhẹ phát triển năng lực tư duy cho học viên, chưa chú ý đúng mức cho phát triển

3

năng lực tư duy của người học. Vẫn cịn tình trạng “bầy cỗ sẵn” làm cho học
viên ỷ lại, không động não trước những vấn đề của giảng viên đưa ra. Vì vậy,
trong học tập, cơng tác vẫn mang nặng tính khn mẫu, máy móc.

Thực tế đó dẫn đến, một số chính trị viên mới ra trường còn hạn chế
nhất định cả trong nhận thức lẫn tác phong làm việc, cơng tác. Vì cơng việc ở
đơn vị có nhiều nội dung đa dạng, phức tạp, cộng với lối tư duy còn xơ cứng
khi gặp những vấn đề cụ thể dẫn tới bỡ ngỡ, làm việc “mò mẫm”. Điều này
đồng nghĩa với việc vẫn còn học viên sau khi tốt nghiệp ra trường nhận nhiệm
vụ còn yếu và thiếu một số mặt về kiến thức chuyên môn, kỹ xảo, kỹ năng
thực tế công tác, năng lực nói chung và năng lực tư duy nói riêng.

Xuất phát từ những vấn đề cơ bản nêu trên đòi hỏi trong q trình đào
tạo ở nhà trường ngồi trang bị tổng hợp những kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng
cần thiết cho người học, cần phải tăng cường phát triển năng lực tư duy cho
học viên. Nhằm giúp họ có thể đảm đương được cương vị chức trách được
giao theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo đã xác định.

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Vấn đề năng lực và năng lực tư duy là một trong những nội dung cơ
bản, cốt lõi của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong tình hình mới. Trong
những năm gần đây, xung quanh vấn đề này đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu ở các khía cạnh khác nhau, tiêu biểu có các nhóm cơng trình sau:
* Các cơng trình tiêu biểu liên quan đến năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ
nói chung
Tác giả Đào Văn Tiến khẳng định năng lực tư duy sáng tạo là “tổng hợp
những khả năng ghi nhớ, tái hiện, liên tưởng, trừu tượng hóa, khái quát hóa, xử
lý thơng tin trong q trình phản ánh và tạo ra tri thức mới về đối tượng để chỉ
đạo hoạt động thực tiễn của con người ngày càng hiệu quả cao” [41, tr. 22]. Từ
đó, tác giả đưa ra cấu trúc năng lực tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ quan cấp phân
đội trong Quân đội ta hiện nay, bao gồm: khả năng ghi nhớ, tái hiện, liên tưởng,

4

trừu tượng hóa, khái quát...Theo tác giả Lê Quý Trịnh năng lực trí tuệ là “khả
năng hoạt động của trí tuệ trong việc tìm kiếm, khám phá, tích lũy tri thức và vận
dụng tri thức vào giải quyết nhữn nhiệm vụ do cuộc sống đặt ra, đảm bảo cho
hoạt động của con người đạt hiệu quả và chất lượng cao” [42, tr. 17]. Đồng thời
tác giả chỉ ra cấu trúc của năng lực trí tuệ bao gồm các yếu tố cơ bản như: tri
thức, phương pháp tư duy và khả năng sáng tạo của con người.

Về năng lực thực tiễn, tác giả Nguyễn Văn Huy cho rằng “năng lực
thực tiễn là tổng hòa những khả năng của chủ thể trong quá trình tác động cải
biến tự nhiện, xã hội, nhằm đáp ứng mục tiêu, nhu cầu cho con người trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định” [17, tr. 11]. Theo đó, tác giả tiếp tục làm rõ
năng lực thực tiễn trên ba khía cạnh cơ bản là: năng lực nhận thức và quán
triệt nhiệm vụ; năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề; năng lực tổ chức các
lực lượng và phương tiện của con người, để làm sâu sắc và đầy đủ hơn về
năng lực thực tiễn mà tác giả đưa ra.


Bàn về năng lực chính trị của chính trị viên ở Binh chủng Tăng - Thiết
giáp, tác giả Lê Thế Bốn quan niệm đó là: “Tổng hợp các yếu tố chủ quan tạo
nên trình độ, khả năng thực tế của họ trong hoạt động nhận thức chính trị, giải
quyết các quan hệ chính trị và thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở đơn vị phù
hợp với đường lối, quan điểm chính trị của Đảng, đảm bảo cho hoạt động đó
đạt kết quả, chất lượng cao” [1, tr. 16]. Với cách hiểu về năng lực chính trị như
vậy, tác giả đã tiếp cận và làm rõ năng lực chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị
ở Binh chủng Tăng - Thiết giáp từ sự thống nhất hữu cơ của các yếu tố: tri thức
chính trị; phương pháp, kỹ năng và hành động chính trị; phẩm chất tâm sinh lý
và phẩm chất chính trị cá nhân của họ.

Nguyễn Thế Quyền quan niệm: “Năng lực tư duy của học viên ngoại
ngữ quân sự là tổng hòa các yếu tố động cơ học tập, bản lĩnh chính trị, vốn tri
thức, phương pháp tư duy thường xuyên được huy động vào việc phát hiện
các mối quan hệ bản chất, các thuộc tính mới trong hoạt động thực tiễn, từ đó

5

giúp họ tìm ra những nội dung, phương pháp vận dụng tri thức mới vào quá
trình học tập, rèn luyện tại trường” [31, tr. 19]. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra
cấu trúc của nó gồm có động cơ, bản lĩnh chính trị, vốn tri thức. Các yếu tố
này không tồn tại riêng biệt, tách rời nhau mà luôn thống nhất, bổ sung, hỗ trợ
cho nhau thường xuyên, trực tiếp thúc đẩy năng lực tư duy của học viên ngoại
ngữ quân sự ngày một hoàn thiện, phát triển.

Các cơng trình trên đã nghiên cứu, làm rõ nhiều vấn đề về năng lực tư
duy dưới nhiều hình thức khác nhau như: năng lực thực tiễn, năng lực thẩm
mỹ, năng lực chủ trì về chính trị - những biểu hiện cụ thể của phẩm chất đội
ngũ cán bộ trong quân đội. Mỗi bài viết, mỗi cơng trình khoa học đều đề cập

và luận giải những dạng năng lực ở độ sâu, rộng khác nhau, nhưng tất cả đều
có quan điểm chung: năng lực bao giờ cũng là sự thống nhất hữu cơ của các
yếu tố chủ quan của chủ thể; là đặc trưng riêng của con người, là toàn bộ khả
năng của con người, giúp cho con người đạt hiệu quả cao trong nhận thức và
hành động ở các lĩnh vực cụ thể.

Tuy nhiên, các cơng trình khoa học nghiên cứu về năng lực của đội ngũ
cán bộ trong quân đội cũng chỉ bàn về phát triển một dạng năng lực của đối
tượng cụ thể, chưa có cơng trình nào bàn đến vấn đề năng lực tư duy của học
viên ở Trường Sĩ quan Chính trị theo cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc.

* Các cơng trình tiêu biểu liên quan đến năng lực tư duy của đội ngũ chính
trị viên

Tác giả Nguyễn Đình Thủy quan niệm “Năng lực tư duy sáng tạo của
đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội Tên lửa Phịng khơng là tổng hịa những
tri thức, tình cảm, bản lĩnh, phương pháp tư duy và tư chất cá nhân thường
xuyên được huy động vào việc phát hiện các mối quan hệ bản chất, các thuộc
tính mới trong các hoạt động của bộ đội, từ đó giúp họ tìm ra những nội dung,
phương pháp mới khơng ngừng nâng cao hiệu quả cơng tác đảng, cơng tác
chính trị, ở phân đội tên lửa phịng khơng” [39, tr. 18]. Theo đó, tác giả đưa ra

6

cấu trúc, nội dung, hình thức, điều kiện nảy sinh, tồn tại và phát triển năng lực tư
duy sáng tạo và biểu hiện đặc thù của năng lực này.

Với phương pháp tiến cận riêng của mình, tác giả Trần Minh Đức cho rằng
“Phát triển tư duy quân sự của học viên dân tộc thiểu số ở Trường Sĩ quan
Chính trị là q trình kết thừa và không ngừng bổ sung tri thức, nâng cao

năng lực khái quát hóa, trừu tượng hóa; đồng thời là quá trình bồi dưỡng
phương pháp, năng lực, trình độ tư duy quân sự để nâng tư duy quân sự của
họ lên một trình độ mới về chất, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo” [15, tr.
23]. Theo đó, tác giả đã luận giải quá trình phát triển tư duy quân sự của học
viên dân tộc thiểu số ở Trường Sĩ quan Chính trị là q trình chuyển hóa về
chất của các yếu tố cấu thành tư duy quân sự, là quá trình biện chứng phức
tạp, đấu tranh giữa cái cũ với cái mới, là quá trình phủ định của phủ định
diễn ra quanh co phức tạp. Từ đó, tác giả đưa ra giải pháp cơ bản nhằm đánh
giá sự phát triển tư duy quân sự của học viên dân tộc thiểu số ở Trường Sĩ
quan Chính trị hiện nay.

Theo tác giả Nguyễn Văn Dũng năng lực tư duy của một chủ thể
nhất định “là tổng hòa các yếu tố chủ quan của chủ thể trong quá trình tư
duy phản ánh chân thực và nhạy bén hiện thực khách quan đáp ứng yêu
cầu của hoạt động tư duy, từ đó tạo ra khả năng đánh giá và chỉ đạo hoạt
động thực tiễn của chủ thể làm cho những hoạt động đó đạt hiệu quả cao”
[2, tr. 27]. Với cách hiểu này tác giả cho rằng năng lực tư duy thuộc về
các yếu tố chủ quan được chủ thể tích lũy, mặt khác cịn do bản thân chủ
thể khơng ngừng học tập nỗ lực vươn lên trong nhận thức và hoạt động
cải tạo thực tiễn.

Quan niệm về năng lực tư duy, tác giả Trần Hậu Tân cho rằng: “khả
năng sử dụng thành thạo nội dung, hình thức, phương pháp tư duy của chủ
thể để nhận thức và giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề lý luận, thực
tiễn” [34, tr. 19]. Từ quan niệm này, tác giả khẳng định trong quá trình tư

7

duy chủ thể bao giờ cũng phải sử dụng hệ thống các tri thức tồn tại dưới
dạng khái niệm, phán đoán, suy luận về đối tượng xác định và được biểu

hiện qua năng lực lựa chọn cách thức để liên kết các hình thức tư duy nhằm
tìm ra kết luận chính xác nhất.

Như vậy, các tác giả đều thống nhất năng lực tư duy không chỉ đơn
thuần là một hay vài yếu tố mà tổng hợp nhiều yếu tố khác nhau, giữa
chúng luôn có mối liên hệ tác động qua lại, ràng buộc thúc đẩy lẫn nhau
góp phần hình thành, phát triển năng lực của con người. Nhưng chưa có
một cơng trình nào nghiên cứu về năng lực tư duy của học viên ở Trường
Sĩ quan Chính trị hiện nay mang tính cơ bản, hệ thống, cấu trúc. Vì vậy,
tác giả lựa chọn đề tài “Năng lực tư duy của học viên ở Trường Sĩ quan
Chính trị hiện nay” làm luận văn thạc sĩ của mình.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực tư duy của học
viên ở Trường Sĩ quan Chính trị; đề xuất giải pháp cơ bản nhằm phát triển
năng lực tư duy của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải thực chất và những nhân tố cơ bản quy định năng lực tư duy
của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị.
- Phân tích thực trạng năng lực tư duy của học viên ở Trường Sĩ quan
Chính trị hiện nay.
- Đề xuất giải pháp cơ bản nhằm phát triển năng lực tư duy của học
viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề bản chất về năng lực tư duy
của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu: Năng lực tư duy của học viên đào tạo chính trị

8


viên ở Trường Sĩ quan Chính trị (theo chương trình cơ bản 5 năm). Số liệu
điều tra, khảo sát từ năm 2010 đến nay.

5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục và
đào tạo; Nghị quyết của Quân uỷ Trung ương, chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng, của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị yêu cầu về năng lực tư duy của người
cán bộ chính trị trong quân đội giai đoạn hiện nay; các cơng trình khoa học đã
cơng bố có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
* Cơ sở thực tiễn: Các báo cáo tổng kết, đánh giá công tác giáo dục -
đào; các báo cáo về năng lực tư duy, năng lực hoạt động thực tiễn của học
viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay; kết quả điều tra, khảo sát, thu thập
từ thực tế của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; luận văn sử dụng tổng
hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó tập trung vào một số phương
pháp chủ yếu như: phân tích và tổng hợp, trừu tượng hoá và khái quát hoá,
lịch sử và lơgíc, điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia,...
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần làm sâu sắc thêm quan niệm năng lực tư duy,
những nhân tố cơ bản quy định năng lực tư duy của học viên ở Trường Sĩ
quan Chính trị; đề xuất giải pháp cơ bản phát triển năng lực tư duy của học
viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên
cứu, giảng dạy và phát triển năng lực tư duy của học viên ở Trường Sĩ quan
Chính trị hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham

khảo và phụ lục, danh mục các cơng trình khoa học của tác giả đã công bố.

9

Chương 1
THỰC CHẤT VÀ NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN QUY ĐỊNH
NĂNG LỰC TƯ DUY CỦA HỌC VIÊN Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ
1.1. Thực chất năng lực tư duy của học viên ở Trường Sĩ quan
Chính trị
1.1.1. Quan niệm về năng lực tư duy
Năng lực là một phạm trù dùng để chỉ đặc trưng riêng vốn có của con
người. Song khi tiếp cận và luận giải vấn đề này thì mỗi ngành khoa học, mỗi
cơng trình nghiên cứu đều có phương pháp và cách thức luận giải khác nhau.
Theo Từ điển tiếng Việt, năng lực được hiểu là:“khả năng, điều kiện chủ quan
hoặc điều kiện tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó”, “là phẩm
chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hồn thành một hoạt động
nào đó với chất lượng cao” [54, tr. 806]. Theo Từ điển Giáo dục học quân sự:
“Năng lực được hình thành hoặc phát triển, cho phép một con người đạt được
thành công trong một hoạt động thể lực, trí lực hoặc nghề nghiệp” [53, tr. 1172].
Dưới góc độ tâm lý học quân sự: “năng lực là tổng hợp các đặc điểm, thuộc
tính tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động
nhất định, nhằm bảo đảm cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao” [52, tr. 45].
Theo Từ điển Triết học: “Năng lực là tồn bộ những đặc tính tâm lý con
người khiến cho nó thích hợp với một hình thức hoạt động nghề nghiệp nhất
định đã hình thành trong lịch sử” [55, tr. 254].
Như vậy, mỗi ngành khoa học, lĩnh vực nghiên cứu khi xem xét về
năng lực đều có cách nhìn riêng. Trong tâm lý học chủ yếu nhấn mạnh vai trò
tâm lý trong quan niệm về năng lực. Năng lực được hình thành trên cơ sở tư
chất tự nhiên của cá nhân. Hay nói cách khác, năng lực là tính chất tâm sinh
lý của con người chi phối quá trình tiếp thu kiến thức, kỹ xảo và kỹ năng tối

thiểu, là cái người đó có thể dùng khi sinh hoạt. Cịn xã hội học nghiên cứu
năng lực dưới hình thức là một thuộc tính, một khả năng, tài năng của con

10

người trong hoạt động thực tiễn. Năng lực trong quan niệm của triết học cho
rằng đó là mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa các đặc tính tâm lý của con
người, những đặc trưng tâm lý này phải thống nhất và phù hợp với các hình thức
hoạt động đã hình thành trong lịch sử. Do đó, trình độ phát triển của lồi người
càng có những bước tiến cao bao nhiêu thì năng lực của con người càng phát
triển theo trình độ tương ứng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Năng lực của
con người khơng phải hồn tồn do tự nhiên mà có, mà một phần lớn do
cơng tác, do luyện tập mà có” [27, tr. 280]. Theo cách hiểu chung nhất thì
năng lực của con người bao gồm cả yếu tố bẩm sinh và quá trình con người
rèn luyện trong hoạt động thực tiễn mà có được (yếu tố xã hội); trong đó yếu
tố xã hội là yếu tố cơ bản, quyết định đến sự hình thành, phát triển năng lực
tư duy của chủ thể.

Từ những luận cứ khoa học nêu trên, chúng ta có thể quan niệm năng lực
là tổng hòa các yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần của chủ thể, tạo nên khả năng
và điều kiện nội tại căn bản để chủ thể hoạt động đạt chất lượng, hiệu quả.

Năng lực vừa là cái tự nhiên sẵn có mang tính di truyền, đồng thời cũng
mang dấu ấn lịch sử, và nó vẫn mãi là khả năng nếu khơng thông qua hoạt
động thực tiễn của con người để hiện thực hóa nó. Bởi thế, dưới mọi góc độ
triết học ta nhận thấy năng lực muốn có được phải thơng qua hoạt động của
con người. Năng lực biểu hiện thông qua hành động và được đánh giá bằng
hiệu quả, chất lượng cơng việc người đó thực hiện. Năng lực càng cao thì hiệu
quả cơng việc càng lớn và ngược lại năng lực càng thấp, thì hiệu quả cơng
việc chỉ đạt ở mức độ nhất định, thậm chí khơng đem lại hiệu quả. Do vậy,

mọi quan niệm tách rời, biệt lập hai hình thức này đều dẫn tới siêu hình.

Năng lực ln có tính muôn vẻ, giữa con người với con người và ngay
trong một cá thể người cụ thể cũng tồn tại nhiều dạng năng lực khác nhau.
Đặc biệt, xã hội ngày càng phát triển, tính chun mơn hóa cao, sự đa dạng về
các ngành nghề là điều kiện cho các dạng năng lực phát triển theo những
chiều hướng phong phú và chuyên biệt hơn như: năng lực quản lý, năng lực

11

sư phạm, năng lực nghiên cứu khoa học, năng lực tự học, năng lực lãnh
đạo...Trong đó, năng lực tư duy và năng lực hoạt động thực tiễn là hai dạng
năng lực cơ bản của con người, giữa chúng có quan hệ biện chứng với nhau.

Tư duy, theo Hồ Chí Minh là lối tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, không
giáo điều, rập khn khơng vay mượn của người khác, tránh lối mịn mà phải tự
mình suy nghĩ, tìm tịi suy đến cùng bản chất bên trong của sự vật, hiện tượng
cũng như quy luật vận hành, chi phối sự vật hiện tượng đó để tìm ra chân lý cách
mạng, phù hợp với nhu cầu điều kiện thực tiễn đất nước; là sự gắn bó giữa ý chí,
tình cảm với tri thức khoa học, trong đó, yếu tố tri thức, trí tuệ là quan trọng nhất.

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, tư duy được hiểu là: “Sản phẩm
cao nhất của vật chất được tổ chức một cách đặc biệt - bộ não, quá trình phản
ánh tích cực hiện thực khách quan dưới dạng các khái niệm, phán đoán, lý
luận…” [51, tr. 701]. Như vậy, kết quả của quá trình tư duy bao giờ cũng là
sự phản ánh khái quát các thuộc tính, các mối liên hệ cơ bản, bản chất, phổ
biến, các quy luật ở một hay nhiều nhóm sự vật khác nhau; nó được ghi lại
trong ngơn ngữ. Tư duy, có tính độc lập tương đối, một mặt, tư duy có được
tính tích cực sáng tạo trong quá trình tìm kiếm tri thức mới, mặt khác, là
nguồn gốc cho sự tách rời tư duy với hiện thực khách quan. Bởi vậy, tư duy

phải luôn gắn với thực tiễn, bám sát thực tiễn, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn để
kiểm tra chân lý trước những vấn đề mà tư duy đưa ra.

Ở phương diện này, tư duy được nghiên cứu như hoạt động nhận thức
và phân loại các dạng tư duy trên cơ sở mức độ khái quát và đặc điểm sử
dụng các công cụ, phương tiện trong quá trình tư duy, những cái mới đối với
chủ thể, mức độ tích cực của chủ thể, mức độ phản ánh hiện thực một cách
phù hợp, chính xác nhờ tư duy.

Trong Từ điển Triết học tư duy được quan niệm là: “Sản phẩm cao nhất của
cái vật chất được tổ chức một cách đặc biệt là bộ não, q trình phản ánh tích cực thế
giới khách quan trong các khái niệm, phán đoán, lý luận, v.v.” [55, tr. 1295].

12

Dưới lăng kính triết học tư duy là quá trình phản ánh hiện thực khách
quan thơng qua lăng kính chủ quan của con người và được tiến hành bằng các
thao tác phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu để đi đến những quan điểm, tư
tưởng trong nhận thức và cải tạo thế giới. Hay nói cách khác tư duy là khả năng
và con đường nhận thức thế giới. Vấn đề tư duy được đề cập ở đây chính là giai
đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản chất và tìm ra tính quy luật của
sự vật bằng những hình thức biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lý.

Từ những phân tích trên, có thể quan niệm tư duy là giai đoạn của quá
trình phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát hiện thực khách quan thông
qua các khái niệm, phán đốn, suy luận nhằm phát hiện ra các thuộc tính, mối
liên hệ bản chất và quy luật vận động của sự vật, hiện tượng giúp chủ thể nhận
thức, giải quyết sáng tạo, hiệu quả những vấn đề lý luận và thực tiễn.

Như vậy, với cách tiếp cận về năng lực, về tư duy như trên chúng ta có

thể quan niệm năng lực tư duy là tổng hòa các yếu tố tư chất, vốn tri thức,
phương pháp và kỹ xảo, kỹ năng của chủ thể, tạo nên khả năng, điều kiện
giúp cho chủ thể giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn một cách có
hiệu quả cao.

Tư chất (thể chất và tố chất) là tổng hợp những khả năng vốn có về
năng khiếu, sức khỏe, tố chất thiên bẩm của mỗi cá nhân được thể hiện thông
qua hoạt động thực tiễn trong từng lĩnh vực cụ thể. Hay nói cách khác, tư chất
là năng lực đang ở dạng tiềm năng, muốn nó trở thành năng lực phải dựa vào
quá trình nhận thức và cải tạo thực tiễn, với những điều kiện hoàn cảnh lịch
sử cụ thể thường xuyên ảnh hưởng và chi phối đến nó. Bởi thế, muốn một chủ
thể nhất định phát triển một dạng năng lực nào đó thì trước tiên phải lựa chọn
những con người có tư chất tốt, từ đó bồi dưỡng, rèn luyện họ theo những
dạng năng lực đã định sẵn, nhằm phát huy tối đa khả năng của họ; giúp họ đạt
kết quả cao nhất trong từng lĩnh vực cụ thể đó.

13

Mỗi người khác nhau thì có tư chất khác nhau, và tư chất khác nhau sẽ
góp phần hình thành nên những dạng năng lực khác nhau. Tư chất có vai trị
hết sức quan trọng là cơ sở nền tảng vật chất cho việc hình thành năng
lực, cũng như phát triển năng lực cá nhân, nhưng không phải là yếu tố
quyết định mà yếu tố quyết định chính là do hoạt động thực tiễn của chủ
thể. Yếu tố này ngày một phát triển theo chiều hướng có lợi nếu thường
xuyên rèn luyện và dần suy yếu nếu coi nhẹ và không được quan tâm
chăm sóc, rèn luyện đúng mức.

Vốn tri thức là kết quả của quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo trong
hoạt động thực tiễn của chủ thể, là tiền đề cơ bản giúp con người có thể nhận
thức và xử lý nhanh chóng các tình huống xảy ra, trong đó có kỹ xảo, kỹ

năng. Vốn tri thức không phải yếu tố bất biến mà thường xuyên biến đổi tùy
theo sự đam mê, sở thích, nhân tố chủ quan của mỗi người, cũng khơng địi
hỏi điều kiện hoàn cảnh thúc đẩy và quy định.

Vốn tri thức bao gồm: những tri thức về lý luận, về kinh nghiệm, tri
thức tổng hợp, tri thức chuyên môn, tri thức liên ngành…tạo thành một chỉnh
thể thống nhất trong mỗi cá nhân. Vốn tri thức càng sâu rộng thì chủ thể càng
có điều kiện và khả năng giải quyết tốt những vấn đề nảy sinh. Song cần lưu
ý, kho tàng tri thức của nhân loại là khổng lồ, thực tiễn lại luôn diễn ra sinh
động, muôn vẻ cho nên vốn tri thức của mỗi người muốn phát huy tốt cũng
như vận dụng vào thực tiễn nhanh chóng và hiệu quả buộc họ phải hình thành
cho mình lối tư duy rõ ràng, mạch lạc, hệ thống tri thức được sắp xếp theo
trình tự lơgíc mang tính hệ thống cao. Bởi, khi vướng vào bất kỳ vấn đề gì,
trong lĩnh vực, hồn cảnh nào đều có thể vận dụng tri thức đã học vào xử lý
một cách nhanh chóng, chính xác.

Kỹ năng là kết quả của sự vận dụng tri thức vào hoạt động nhất định.
Kỹ xảo là những phương pháp, cách thức đã được tự động hóa và thực hiện
nhuần nhuyễn, là hoạt động thuần thục của kỹ năng, là bước phát triển cao

14

của kỹ năng. Hai yếu tố kỹ xảo, kỹ năng ln thống nhất biện chứng, bổ sung,
chuyển hóa cho nhau góp phần hiện thực hóa vốn tri thức.

Từ những khía cạnh nêu trên, có thể khẳng định muốn năng lực tư
duy phát triển tốt, mang lại hiệu quả cao nhất trong quá trình nhận thức và cải
tạo thực tiễn nhất thiết chủ thể phải có tri thức hiểu biết sâu rộng, các kỹ xảo, kỹ
năng trong lĩnh vực đó. Mặt khác, đến lượt mình năng lực lại được biểu hiện
trong việc tiếp thu tri thức, kỹ xảo, kỹ năng. Vì vậy, năng lực và tri thức, kỹ xảo,

kỹ năng có mối quan hệ thống nhất nhưng không đồng nhất với nhau.

Năng lực tư duy được cấu thành bởi sự thống nhất biện chứng của
các yếu tố tư chất, vốn tri thức, kỹ xảo, kỹ năng, mỗi yếu tố có vị trí, vai
trị khơng ngang bằng nhau, cùng ảnh hưởng lớn đến năng lực tư duy của
mỗi người. Tuy vậy, tùy vào lĩnh vực cụ thể, yêu cầu, hồn cảnh cụ thể mà
mỗi yếu tố có những tác động khác nhau. Song yếu tố giữ vai trò trung tâm,
nền tảng, quyết định, suy đến cùng là vốn tri thức.

1.1.2. Quan niệm về năng lực tư duy của học viên ở Trường Sĩ quan
Chính trị

Ngày 14/01/1976, Bộ trưởng Bộ quốc phòng ban hành quyết định số
18/QĐ-QP thành lập Trường Sĩ quan Chính trị. Theo quyết định này, nhà
trường có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị cấp phân đội và
nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn quân sự. Nhà trường có nhiệm vụ đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị cấp phân đội có trình độ đại học; đào tạo
chuyển loại cán bộ chính trị cấp phân đội, đào tạo giáo viên khoa học xã hội
nhân văn cấp phân đội trình độ đại học; đào tạo sĩ quan và cán bộ chính trị cho
qn đội nước ngồi khi được giao nhiệm vụ; đào tạo sĩ quan dự bị và sẵn sàng
nhận, hoàn thành các nhiệm vụ khác khi được giao.

Nguồn đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị là những
thanh niên, quân nhân đã tốt nghiệp trung học phổ thông trong cả nước. Đa
phần có tuổi đời khá trẻ từ 18 - 25 tuổi, kinh nghiệm tổ chức hoạt động công

15

tác đảng, cơng tác chính trị cịn hạn chế; có đủ điều kiện về sức khỏe, lai lịch
chính trị bản thân và gia đình rõ ràng. Theo quy định tuyển sinh của Bộ Giáo

dục và Đào tạo, Bộ Quốc phòng học viên là những người đã trúng tuyển qua
kỳ thi tuyển sinh quân sự; qua xét tuyển quân sự, hoặc cử tuyển, tuyển thẳng
vào nhà trường, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong
sáng, có động cơ, xu hướng nghề nghiệp rõ ràng, xác định cống hiến lâu dài
trong quân đội.

Trong suốt quá trình đào tạo, học viên phải đáp ứng được mục tiêu,
yêu cầu đào tạo của nhà trường đề ra. Sau khi tốt nghiệp bản thân người học
phải hội tụ đầy đủ các yếu tố cần thiết của một người cán bộ chính trị vừa
hồng vừa chuyên, có đạo đức trong sáng, trung thành tuyệt đối với sự nghiệp
cách mạng của Đảng, có năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức và tiến hành hoạt
động cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong Qn đội, góp phần xây dựng
Qn đội nhân dân “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, …;
vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt
đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân” [9, tr. 149]. Với
mục tiêu đào tạo của nhà trường sau khi tốt nghiệp sẽ trở thành cán bộ chính
trị cấp phân đội hoặc tương đương cho toàn quân. Đặc điểm này so với học
viên của các nhà trường quân đội khác sau khi tốt nghiệp ra trường nhận
nhiệm vụ về cơ bản giữ vị trí cao hơn một bậc, do đó cơng việc, trách nhiệm
yêu cầu phải có ý thức rất cao.

Học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị sau khi tốt
nghiệp phải là những người có tri thức cơ bản về khoa học xã hội nhân văn
quân sự, khoa học nghệ thuật qn sự, trong đó tri thức cơng tác đảng, cơng
tác chính trị là tri thức chun sâu của họ. Vốn tri thức đó được vận dụng
sáng tạo, linh hoạt vào tổ chức, tiến hành các hoạt động chủ trì về chính trị
theo chức trách, nhiệm vụ được giao. Mặt khác, hoạt động của đảm nhiệm là
lãnh đạo, chỉ đạo ở đơn vị trong mơi trường qn sự, nên địi hỏi phải có tư

16


duy nhanh nhạy, sắc bén, quyết đoán để xử lý nhanh, kịp thời, chính xác mọi
tình huống có thể xảy ra, nhất là về mặt tư tưởng, con người.

Học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị phải là người có ý chí quyết tâm
cao, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn thử thách để hồn thành xuất sắc nhiệm vụ
được giao. Ln say mê, nhiệt tình, trung thành với lý luận chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và pháp luật của
Nhà nước, có lập trường chính trị, tư tưởng vững vàng, có thiên hướng chính trị
tốt. Là những người nhạy bén, bản lĩnh, gần gũi trong nắm bắt tâm lý; sơi nổi,
nhiệt tình trong các phong trào; có khả năng giao tiếp khá tốt.

Tuy vậy, do ảnh hưởng của những điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan cho nên ở một số học viên vẫn còn tư tưởng dao động, chưa xác định rõ
xu hướng nghề nghiệp của mình. Do học viên trong thời gian đầu bị chi phối từ
phía gia đình, bạn bè các mối quan hệ xã hội, dẫn tới động cơ học tập cịn chưa
rõ ràng, tư tưởng ỷ lại, phó mặc vẫn cịn tồn tại. Mặt khác, tư duy theo lối mịn
có sẵn, khả năng nhạy bén, linh hoạt trong giao tiếp chưa thể hiện rõ nét, vẫn
mang tính bộc phát, nhãn quan chính trị chưa hồn thiện và sâu sắc.

Từ sự phân tích trên, có thể quan niệm năng lực tư duy của học viên ở
Trường Sĩ quan Chính trị là tổng hịa các yếu tố tư chất, vốn tri thức, phương
pháp và kỹ xảo, kỹ năng tạo nên khả năng, điều kiện giúp cho họ giải quyết
hiệu quả cao những vấn đề học tập, rèn luyện theo mục tiêu, mơ hình đào tạo
trở thành chính trị viên của nhà trường.

Năng lực tư duy của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị là tổng hợp
những nét đặc trưng riêng có, biểu hiện trong q trình nhận thức cao, tư
duy trí tuệ sắc bén, có mục đích, động cơ, thái độ, sự nỗ lực không ngừng
trong học tập, rèn luyện tích lũy tri thức kinh nghiêm, lý luận, qn sự, các

kỹ năng mềm, góp phần hồn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

17

Một là, tri thức về khoa học xã hội và nhân văn quân sự,
trong đó có tri thức chuyên sâu về cơng tác đảng, cơng tác chính
trị.

Nhằm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo chính trị viên theo tinh thần
Nghị quyết 51 - NQ/TW của Bộ Chính trị, khóa X “Về việc tiếp tục hoàn
thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn
với việc thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân
Việt Nam”; Nghị quyết 513 của Đảng ủy Quân sự Trung ương về việc tiếp
tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ
huy gắn với việc thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội
nhân dân Việt Nam”, cũng như đảm đương được cương vị chính trị viên
đại đội và có thể phát triển lên vị trí cao hơn, học viên đào tạo chính trị
viên phải có vốn tri thức toàn diện trên tất cả các mặt các lĩnh vực của cuộc
sống. Đặc biệt chú trọng xây dựng cho mình hệ thống tri thức về khoa học
xã hội nhân văn quân sự, trong đó có tri thức chuyên sâu về cơng tác đảng,
cơng tác chính trị theo mơ hình giáo dục đào tạo của nhà trường là đòi hỏi
khách quan trong suốt thời gian qua.

Chính vốn tri thức này giúp cho học viên có sự hiểu biết, có khả
năng tư duy lý luận, khả năng phân tích, tiếp cận vấn đề một cách sát thực,
đúng đắn. Khi xã hội phát triển, trình độ con người ngày một cao, thì vai
trị của tri thức càng được khẳng định hơn nữa, chi phối mạnh mẽ và sâu
sắc đến quá trình hình thành và phát triển năng lực tư duy của học viên ở
Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay. Học viên sở hữu nguồn tri thức càng
nhiều, càng có giá trị thì càng tạo dựng được nền tảng sức mạnh trở thành

một chính trị viên “vừa hồng vừa chuyên”, có khả năng lãnh đạo, chỉ đạo,
thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Theo chương trình đào tạo thì tổng tri thức các nhóm ngành qn sự
chiếm 40% và chính trị chiếm 60%. Trong đó, Triết học Mác - Lênin 175 tiết;

18

lơgíc 30 tiết; phương pháp luận nghiên cứu khoa học 30 tiết; chiến thuật 790 tiết.
Đặc biệt, tri thức về cơng tác đảng, cơng tác chính trị là 1225 tiết (với 47 học
trình, 11 học phần và 01 phần văn học nghệ thuật) [phụ lục 2]. Học viên bắt
đầu nhập môn từ khoảng đầu năm thứ ba và kéo dài cho đến cuối chương
trình đào tạo cùng với diễn tập, làm khóa luận, thi thốt nghiệp. Trong đó,
học viên được làm khóa luận khơng q 15% theo tiêu chí từ cao xuống
thấp: từ giỏi, cận giỏi, đến khá cứng.

Kiến thức công tác đảng, cơng tác chính trị với dung lượng, thời gian,
u cầu ngày một cao, cộng với rất nhiều các hình thức hướng dẫn, bồi
dưỡng, giải đáp vướng mắc của học viên trong quá trình học tập, tổ chức trao
đổi phổ biến kinh nghiệm học tập, rèn luyện, thực hành, thực tập giữa các
khóa, các lớp. Hoạt động hội thi, hội thao, ngoại khóa cũng thường xuyên
diễn ra nhằm nâng cao tay nghề cơng tác đảng, cơng tác chính trị cho người
học. Ngồi ra, cuối khóa học, học viên phải thi tốt nghiệp mơn cơng tác đảng
cơng tác chính trị và một bộ phận học viên có kết quả tốt sẽ bảo vệ khóa luận,
đồng thời phải tham gia diễn tập cuối khóa, đóng những tình huống giả định
sát thực tiễn chiến đấu. Bằng vốn tri thức, tay nghề công tác đảng mà họ tích
lũy được buộc phải giải quyết vấn đề khi giảng viên nêu lên. Sau khi ra
trường mỗi học viên được trang bị vốn kiến thức công tác đảng, cơng tác
chính trị cần thiết, đáp ứng nhu cầu thực tiễn đơn vị đòi hỏi.


So với các chuyên ngành khác về thời gian, thời lượng, tài liệu cơ sở
vật chất, lực lượng tham gia bảo đảm luôn ở mức cao nhất, phục vụ hiệu quả
cho hoạt động học tập, nghiên cứu của học viên. Chun ngành cơng tác
đảng, cơng tác chính trị ln được Đảng ủy, Ban Giám hiệu quan tâm đặc
biệt, xây dựng chương tình, kế hoạch, mục tiêu yêu cầu cho các lực lượng
tham gia gia cũng như bản thân học viên khi học tập. Với việc xác định: “bồi
dưỡng phương pháp, tác phong công tác, nhất là năng lực tổ chức hoạt động
cơng tác đảng, cơng tác chính trị” [5, tr. 6].

19

Chương trình đào tạo của các đối tượng đã quán triệt đúng phương châm:
cơ bản, hệ thống, thống nhất, chuyên sâu; theo hướng giảm thời lượng kiến thức
giáo dục đại cương, tăng kiến thức giáo dục chuyên ngành. Nội dung huấn
luyện, giảng dạy của khoa chun ngành ln giữ đúng ngun tắc; tích cực cập
nhật những phát triển mới về lí luận, thực tiễn huấn luyện và sẵng sàng chiến
đấu tại các đơn vị cơ sở; tỉ lệ giữa thời gian lên lớp lý thuyết với thực hành và
các hình thức sau bài giảng ngày càng bảo đảm tốt hơn.

Đó là những tri thức chuyên biệt về cơng tác đảng, cơng tác chính trị
đảm bảo hồn thành tốt nhiệm vụ trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Những tri thức này gắn trực tiếp với nhiệm vụ thực tiễn mà một người
cán bộ chính trị phải đảm nhiệm. Bởi vậy, người học phải nắm chắc mục đích,
nội dung, yêu cầu, phương pháp, nhiệm vụ tiến hành các nội dung sao cho sát
đúng với cương vị mình đảm nhiệm. Ngồi ra, người học phải thường xuyên học
tập, rèn luyện và phấn đấu về mọi mặt; tích cực nghiên cứu, học hỏi phương
pháp quản lý, tổ chức triển khai, ra chỉ thị, nghị quyết, điều hành đơn vị trên lập
trường quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước và kỷ luật của Quân đội.

Quy trình đào tạo của Trường Sĩ quan Chính trị ln bám sát thực

tiễn, tuân theo quá trình nhận thức của người học là đi từ dễ đến khó, từ
đơn giản đến phức tạp, từ những môn cơ sở đến môn chuyên ngành điều đó
địi hỏi người học phải phát huy tối đa khả năng tư duy của mình để nhận
thức nhanh nhất, chính xác nhất, nắm bắt kịp thời lượng kiến thức mới
được trang bị.

Sự gia tăng vốn tri thức là cơ sở cho sự phát triển năng lực tư duy cho
học viên. Vốn tri thức càng nhiều, thì năng lực tư duy càng có cơ sở phát
triển. Nhưng quá trình học tập tại trường, người học viên được truyền thụ có
nhiệm vụ lĩnh hội tri thức, kỹ xảo, kỹ năng theo chương trình, nội dung xác
định. Chương trình, nội dung này có đáp ứng được công việc nhiệm vụ họ
phải thực hiện sau này hay khơng. Điều đó cho thấy, phát triển năng lực tư

20

duy của học viên ở Trường Sĩ qua Chính trị hiện nay phụ thuộc rất lớn vào
hệ thống tri thức mà họ được trang bị trong nhà trường.

Hai là, phương pháp tư duy của học viên ở nhà trường
Phương pháp tư duy là thành tố gắn bó mật thiết với tri thức của người
học, giúp họ chuyển hóa kiến thức đã lĩnh hội được vào thực tiễn một cách
nhanh chóng, chính xác và hiệu quả nhất. Phương pháp tư duy góp phần bóc
tách, làm sáng rõ bản chất sự vật, hiện tượng. Khi phương pháp tư duy năng
động, sáng tạo sẽ đem lại kết quả cao nhất trong thời gian ngắn nhất còn
ngược lại khả năng phương pháp tư duy trì trệ, lối mịn sẽ cản trở quá trình
nhận thức và cải tạo thực tiễn, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả, thời gian cũng
như chất lượng công việc cần thực hiện.
Phương pháp tư duy là sản phẩm của con người trong quá trình nhận
thức và cải tạo thực tiễn. Đây là biện pháp, cách thức con người sử dụng để
làm giàu tri thức bản thân. Mỗi một lĩnh vực khác nhau, thời điểm lịch sử

khác nhau đòi hỏi phải có phương pháp tư duy tương ứng, khơng được gị bó,
khn mẫu, hay áp đặt một phương pháp cho mọi vấn đề, mà một vấn đề có
thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, thậm chí một phương pháp có thể
sử dụng cho nhiều tình huống, miễn sao đem lại hiệu quả cao nhất. Bởi thế,
cần có sự linh hoạt, sáng tạo, mềm dẻo trong xử trí mọi tình huống.
Phương pháp tư duy của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị là phương
pháp đạt đến trình độ nhận thức và xử lý tình huống trong hoạt động học tập và
rèn luyện tại nhà trường. Đó là khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hóa,
trừu tượng hóa nhằm phản ánh sự vật, hiện tượng một cách khách quan, toàn
diện, hướng tới cái bản chất và tìm ra quy luật vận động, phát triển giữa chúng.
Từ đó, đề ra mục tiêu, biện pháp hành động hiệu quả, trên nền tảng kiến thức
đã có, cũng như tuân theo phương pháp luận duy vật biện chứng.
Là đối tượng học viên đào tạo trình độ đại học cho nên cách thức,
phương pháp tư duy của học viên cũng phải phù hơp với trình độ nhất định.

21


×