MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Yêu nước là tình cảm phổ biến của con người với quê hương, đất nước,
với truyền thống lịch sử văn hóa dân tộc mình. Ở Việt Nam, yêu nước là giá trị
tinh thần cao nhất trong đời sống tình cảm của người Việt, là truyền thống tốt
đẹp được hình thành, củng cố và phát triển liên tục trong quá trình đấu tranh
dựng nước và giữ nước, đạt đến trình độ cao trở thành chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam, hạt nhân của sức mạnh tinh thần bảo đảm cho dân tộc Việt Nam sẵn sàng
đối mặt và vượt qua mọi nguy nan để trường tồn và phát triển, như Chủ tịch Hồ
Chí Minh từng khẳng định: “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là
một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên
ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ.
Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta cách mạng thành công, giành được độc lập” [45,
tr.164]. Do đó, giáo dục chủ nghĩa yêu nước là bài học lịch sử vô giá của dân
tộc, là vấn đề có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức, toàn cầu hóa
và cách mạng khoa học công nghệ, đã tạo ra những điều kiện phát triển thuận
lợi cho mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam, song cũng đặt chúng ta trước
những thách thức to lớn, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với khu
vực và thế giới. Bên cạnh đó, mặt trái của cơ chế thị trường, tư duy thực dụng,
sự xâm nhập của giá trị văn hóa và lối sống ngoại lai, sự chống phá quyết liệt
của các thế lực thù địch... đang có tác động không nhỏ đến đời sống tư tưởng,
tình cảm của một bộ phận nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Vì vậy, giáo dục
chủ nghĩa yêu nước là yêu cầu cấp bách, nhằm khơi dậy tinh thần dân tộc,
thúc đẩy mọi tiềm năng, khả năng sáng tạo của con người Việt Nam trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đồng thời giữ gìn, phát huy
truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực
của biến đổi kinh tế, văn hóa, xã hội đến quá trình phát triển của con người.
Thế hệ trẻ Việt Nam, trong đó có học viên các Nhà trường quân đội là
chủ nhân tương lai của đất nước, cần được quan tâm giáo dục toàn diện cả về
tri thức, đạo đức và kỹ năng hoạt động, nhất là bồi dưỡng sâu sắc về lý tưởng
cộng sản, truyền thống yêu nước, nhằm từng bước hình thành một lớp người
Việt Nam mới đủ đức, đủ tài, đủ khả năng kế tục và hoàn thành sự nghiệp
cách mạng của dân tộc. Đây cũng là yêu cầu cơ bản của quá trình xây dựng
đội ngũ cán bộ quân đội trong thời kỳ mới, nhằm bảo đảm cho quân đội ta
luôn vững mạnh về chính trị, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, có
sức mạnh chính trị tinh thần và sức mạnh chiến đấu cao nhất, đủ sức hoàn
thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Nằm trong hệ thống các Nhà trường quân sự, Trường Sĩ quan Đặc công
là trung tâm đào tạo cán bộ, hạ sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật cho cho
Binh chủng Đặc công và toàn quân. Trong những năm qua, Nhà trường đã
thường xuyên quan tâm tiến hành giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên,
bước đầu đạt được những kết quả tốt, tạo ra những chuyển biến tích cực về
nhận thức, tình cảm, ý chí và hành động của học viên trong học tập, rèn luyện.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy hoạt động giáo dục chủ nghĩa yêu nước của Nhà
trường vẫn tồn tại nhiều bất cập cả về chương trình, nội dung, hình thức,
phương pháp, cho đến quy trình, cách thức tổ chức hoạt động giáo dục. Để đáp
ứng yêu cầu phát triển đội ngũ cán bộ, sĩ quan Đặc công trong giai đoạn mới,
đòi hỏi Nhà trường phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục - đào
tạo nói chung, hiệu quả giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên nói riêng. Vì
vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống và đưa ra những giải pháp cơ bản,
để nâng cao hiệu quả giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên ở Trường Sĩ
quan Đặc công, là yêu cầu cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn hiện nay.
Từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Giáo dục chủ nghĩa
yêu nước cho học viên ở Trường sĩ quan Đặc công hiện nay” làm luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Chủ nghĩa yêu nước và giáo dục chủ nghĩa yêu nước là vấn đề luôn thu
hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau.
2
Từ các công trình khoa học đã công bố liên quan đến đề tài này, có thể khái quát
thành một số hướng nghiên cứu như sau:
* Nhóm các công trình nghiên cứu về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
Cuốn sách“Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam”, của
Trần Văn Giàu [22], đã nghiên cứu tổng quan những giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc, trong đó có “yêu nước”; làm rõ biểu hiện, nguồn gốc,
con đường hình thành; khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của chủ
nghĩa yêu nước trong lịch sử dân tộc, là giá trị: “Đứng đầu các đức tính
khác của dân tộc” [22, tr.157].
Cuốn sách“Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh” của
Trần Xuân Trường [65], luận giải quá trình hình thành phát triển, đặc điểm, hạn
chế của chủ nghĩa yêu nước truyền thống; chứng minh tính tất yếu của chủ
nghĩa yêu nước thời đại Hồ Chí Minh; làm rõ vai trò, nội dung và xu hướng vận
động của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong giai đoạn mới của cách mạng.
Cuốn sách “Chủ nghĩa yêu nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa” của Lương Gia Ban [3], đã phân tích con đường phát triển của chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại; làm rõ nội dung, vai trò
của chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa; đề xuất một số giải pháp để phát huy
sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta hiện nay.
Cuốn sách “Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX” của
Nguyễn Nam Thắng [61], đã khái quát quá trình hình thành tư tưởng, tình
cảm yêu nước; làm rõ vai trò của chủ nghĩa yêu nước trong tiến trình lịch
sử dân tộc; phân tích nội dung tư tưởng, đặc trưng của chủ nghĩa yêu nước
giai đoạn này và chỉ ra nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước ở
Việt Nam cuối thế kỷ XIX.
Ngoài ra còn có một số bài viết đề cập đến nội dung này như: “Từ chủ
nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh” của
Nguyễn Hùng Hậu [23];“Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam - nền tảng tinh thần,
động lực phát triển” của Song Thành [60]; “Sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước
3
Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do” của Nguyễn Văn
Khánh [29]; “Nhận diện và định vị chủ nghĩa yêu nước trong chiến lược xây
dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam” của Lại Quốc Khánh [28];“Kết
hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - một biểu hiện cao nhất của chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam trong thời đại ngày nay” của Trần Hữu Tiến [62]… Các
công trình trên đã đề cập nhiều vấn đề lý luận về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam,
khẳng định vị trí, vai trò sức mạnh to lớn của nó, làm rõ quá trình phát triển và
những biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam qua từng thời kỳ lịch sử.
* Nhóm công trình nghiên cứu về giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
Vấn đề giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã được nhiều đề tài khoa
học, sách chuyên khảo, bài viết đề cập đến, như: “Giáo dục chủ nghĩa yêu
nước cho học sinh các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Hà
Nội hiện nay” của Trần Văn Năng [52]; “Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho
thanh niên sinh viên ở Thủ đô trong giai đoạn hiện nay” của Đặng Thanh
Phương [55]; “Giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế
theo tinh thần đổi mới của Đảng” của Đặng Công Minh [51]; “Tăng cường
giáo dục lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa cho thế hệ trẻ trong thời kỳ mới của
cách mạng” của Hoàng Bình Quân [57]; “Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho
thế hệ trẻ - yếu tố quan trọng tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong xây
dựng Quân đội nhân dân thời kỳ mới” của Nghiêm Đình Vì [69];“Tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho cán bộ, chiến sĩ quân đội”
của Nguyễn Mạnh Hưởng [27].… Các công trình đó đã khẳng định vị trí, tầm
quan trọng của giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong giai đoạn hiện nay; làm rõ
quan niệm, yếu tố tác động và đề xuất một số giải pháp tiến hành giáo dục chủ
nghĩa yêu nước cho các đối tượng khác nhau ở nước ta hiện nay.
Bên cạnh đó, trong quân đội cũng có nhiều công trình nghiên cứu về nội
dung này, tiêu biểu như:
Cuốn sách “Giáo dục chủ nghĩa yêu nước, xây dựng ý chí quyết thắng
cho quân dân ta hiện nay” do Phùng Khắc Đăng chủ biên [21], đề cập đến một
số vấn đề lý luận về chủ nghĩa yêu nước truyền thống, chủ nghĩa yêu nước thời
4
đại Hồ Chí Minh; làm rõ tầm quan trọng, nội dung giáo dục chủ nghĩa yêu nước
và mối quan hệ của quá trình đó với việc xây dựng ý chí quyết thắng cho quân
và dân ta; tổng kết kinh nghiệm của một số địa phương; xác định yêu cầu, giải
pháp pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng hoạt động này trong thời gian tới.
Đề tài khoa học “Nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước
trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” do Nguyễn Tuấn Dũng chủ
biên [11], đã luận giải một số vấn đề lý luận cơ bản về chủ nghĩa yêu nước,
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; làm rõ quan niệm, vai trò, thực trạng, các
nhân tố tác động đến chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước; đề xuất một
số yêu cầu, giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu
nước trong quân đội ta hiện nay.
Luận văn thạc sĩ triết học “Nâng cao giác ngộ chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam thời đại Hồ Chí Minh của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường
Sĩ quan chỉ huy kỹ thuật thông tin hiện nay” của Đoàn Hải Hưng [25], làm rõ
quan niệm giác ngộ chủ nghĩa yêu nước thời đại Hồ Chí Minh; khảo sát thực
trạng ở Trường Sĩ quan chỉ huy kỹ thuật thông tin; đề xuất giải pháp cơ bản nâng
cao giác ngộ cho học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội của Nhà trường.
Luận án tiến sĩ triết học “Nhận thức tính quy luật sự phát triển tinh thần
yêu nước xã hội chủ nghĩa của quân đội ta hiện nay” của Lê Như Cử [10], tập
trung luận giải, làm rõ quan niệm, bản chất tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa;
khái quát biểu hiện và một số quy luật hình thành, phát triển tinh thần yêu nước
trong quân đội; phân tích thực trạng và đề xuất những giải pháp cơ bản phát triển
tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa cho cán bộ, chiến sĩ quân đội ta.
Luận án tiến sĩ triết học “Phát huy chủ nghĩa yêu nước của thanh niên
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Đình Bắc [5], nghiên cứu
làm rõ quan niệm về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, phát huy chủ nghĩa yêu
nước của thanh niên quân đội, các nhân tố tác động đến quá trình đó; đánh giá
thực trạng và xuất một số giải pháp cơ bản phát huy chủ nghĩa yêu nước của
thanh niên quân đội ta hiện nay.
5
Luận văn thạc sĩ triết học “Vai trò của gia đình sĩ quan các Nhà
trường quân đội ở Nha Trang trong giáo dục tinh thần yêu nước cho thế hệ
trẻ hiện nay” [26], đã nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn và
đề xuất giải pháp phát huy vai trò của gia đình sĩ quan các Nhà trường quân
đội đóng ở Thành phố Nha Trang - Khánh Hòa (Học viện Hải quân, Trường
Sĩ quan không quân, Trường Sĩ quan thông tin) trong giáo dục tinh thần
yêu nước cho thế hệ trẻ.
Luận văn thạc sĩ giáo dục học “Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học
viên Nhà trường quân sự hiện nay” của Lê Xuân Long [35], tiếp cận vấn đề ở
góc độ của một quá trình giáo dục, qua đó làm rõ sự biến đổi về nội dung,
phương pháp giáo dục chủ nghĩa yêu nước qua các giai đoạn lịch sử dân tộc, đưa
ra quan niệm về giáo dục, biện pháp giáo dục chủ nghĩa yêu nước, phân tích các
nhân tố tác động; khảo sát thực trạng và đề xuất hệ thống biện pháp giáo dục chủ
nghĩa yêu nước cho học viên ở các Nhà trường quân sự trong giai đoạn hiện nay.
* Nhóm công trình nghiên cứu về Bộ đội Đặc công và Trường Sĩ
quan Đặc công
Hiện nay, có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về Bộ đội Đặc công
và Trường Sĩ quan Đặc công, như:
Luận văn thạc sĩ triết học “Phát huy truyền thống Bộ đội Đặc công trong
xây dựng nhân cách hạ sĩ quan, binh sĩ ở Binh chủng Đặc công hiện nay” của
Nguyễn Văn Bình [8], đã luận giải một số vấn đề lý luận cơ bản về nhân cách,
xây dựng nhân cách hạ sĩ quan, binh sĩ; phân tích các nhân tố tác động, thực
trạng và đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát huy truyền thống Bộ đội Đặc
công trong xây dựng nhân cách cho hạ sĩ quan, chiến sĩ Đặc công.
Luận văn thạc sĩ tâm lý học “Biện pháp tâm lý xã hội phát huy truyền
thống Bộ đội Đặc công trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Duy Tuấn [68],
đã làm rõ quan niệm phát huy truyền thống, biện pháp tâm lý xã hội phát huy
truyền thống, đặc trưng hoạt động huấn luyện chiến đấu của Bộ đội Đặc công;
xác định những yếu tố tác động, tiêu chí đánh giá; khảo sát thực trạng và đề
6
xuất những biện pháp tâm lý xã hội để phát huy truyền thống Bộ đội Đặc công
trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị “Nâng cao chất lượng lãnh đạo
công tác thanh niên ở các hệ học viên Trường Sĩ quan Đặc công trong giai
đoạn hiện nay” của Nguyễn Hữu Ngà [53], đã luận giả, làm rõ một số vấn đề
lý luận về công tác thanh niên, nâng cao chất lượng công tác thanh niên, đặc
điểm hệ học viên ở Trường Sĩ quan Đặc công, tiêu chí đánh giá; khảo sát thực
trạng, đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng lãnh đạo công tác
thanh niên ở các hệ học viên của Nhà trường trong thời gian tới.
Luận văn thạc sĩ triết học “Bản lĩnh chính trị của học viên chỉ huy tham mưu cấp phân đội ở Trường Sĩ quan Đặc công hiện nay” của Lê Việt Bắc
[6], đã luận giải làm rõ quan niệm, cấu trúc, đặc trưng riêng về bản lĩnh chính
trị của học viên ở Trường Sĩ quan Đặc công, các nhân tố quy định quá trình
hình thành phát triển bản lĩnh chính trị của học viên; đánh giá thực trạng và đề
xuất các giải pháp cơ bản để phát triển bản lĩnh chính trị cho học viên đào tạo
chỉ huy - tham mưu cấp phân đội của Nhà trường.
Luận văn thạc sĩ tâm lý học “Tính tích cực tự học tập của học viên ở
Trường Sĩ quan Đặc công hiện nay” của Dương Quốc Bảo [4], đã nghiên cứu
tổng quát một số vấn đề lý luận, thực tiễn về tính tích cực tự học của học viên ở
Nhà trường, làm rõ quan niệm, đặc điểm, biểu hiện, các yếu tố ảnh hưởng và
tiêu chí đánh giá tích cực tự học tập của học viên; khảo sát thực trạng và xây
dựng một số biện pháp tâm lý - sư phạm để nâng cao tính tích cực tự học tập
của học viên ở Nhà trường hiện nay.
Như vậy, các công trình trên đây từ nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau,
đã đề cập đến những vấn đề lý luận, thực tiễn về giáo dục chủ nghĩa yêu
nước; làm rõ vai trò quan trọng của vấn đề này trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam, trong xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị; qua đó
khẳng định sự cần thiết của việc tiến hành giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong
tình hình mới. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào
7
nghiên cứu trực tiếp, hệ thống về giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên ở
Trường Sĩ quan Đặc công. Vì vậy đề tài “Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho
học viên ở Trường Sĩ quan Đặc công hiện nay”, là công trình độc lập, không
trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải một số vấn đề lý luận, thực tiễn về giáo dục chủ nghĩa yêu
nước cho học viên ở Trường Sĩ quan Đặc công, qua đó đề xuất yêu cầu, giải
pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên ở
Trường Sĩ quan Đặc công hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước ở con người Việt Nam hiện
nay, quan niệm và vai trò của giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên ở
Trường Sĩ quan Đặc công.
- Đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân của thành tựu và hạn chế trong
giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên ở Trường Sĩ quan Đặc công hiện nay.
- Đề xuất một số yêu cầu và giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả giáo dục
chủ nghĩa yêu nước cho học viên ở Trường Sĩ quan Đặc công hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên ở Trường Sĩ quan Đặc công.
* Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên ở Trường Sĩ quan
Đặc công, tập trung chủ yếu vào đối tượng học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy tham mưu cấp phân đội trình độ đại học, số liệu điều tra khảo sát được tập
hợp từ năm 2012 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Dựa vào quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về chiến tranh và quân đội; quan điểm xây dựng quân đội về chính trị, nâng cao
8
bản lĩnh chính trị, giác ngộ lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng yêu nước cho quân
nhân thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong Quân đội nhân dân Việt
Nam nói chung, Binh chủng Đặc công và Trường Sĩ quan Đặc công nói riêng,
được phản ánh qua các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn, báo cáo đánh
giá của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc Phòng, Đảng ủy Binh chủng Đặc
công; các nghị quyết, báo cáo tổng kết kết quả giáo dục - đào tạo của Trường
Sĩ quan Đặc công.
* Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử và phương pháp nghiên cứu của khoa học xã hội và
nhân văn như: Phân tích, tổng hợp, lịch sử, lôgíc, hệ thống cấu trúc, so sánh,
thống kê, khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
Góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý luận và thực tiễn của giáo dục
chủ nghĩa yêu nước cho học viên ở Trường Sĩ quan Đặc công, trên cơ sở đó
cung cấp những căn cứ khoa học để nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục chủ
nghĩa yêu nước cho học viên ở Nhà trường. Luận văn có thể dùng làm tài liệu
tham khảo để tổ chức giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các học viện,
trường sĩ quan khác trong quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CHO HỌC VIÊN
Ở TRƯỜNG SĨ QUAN ĐẶC CÔNG HIỆN NAY
1.1. Chủ nghĩa yêu nước và giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học
viên ở Trường Sĩ quan Đặc công
1.1.1. Quan niệm về chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
* Quan niệm về chủ nghĩa yêu nước
Chủ nghĩa yêu nước là một hiện tượng xã hội có tính phổ quát trong
lịch sử phát triển của nhân loại. Tuy nhiên, CNYN luôn gắn liền với một quốc
gia dân tộc nhất định, chịu sự quy định bởi điều kiện riêng của dân tộc đó,
nên cách tiếp cận và quan niệm về CNYN giữa các dân tộc, các quốc gia và
các cộng đồng người khác nhau cũng có sự khác biệt. Có thể nêu ra một số
quan niệm tiêu biểu sau:
Khi bàn đến CNYN, V.I.Lênin đã nhấn mạnh đó là: “Một trong những
tình cảm sâu sắc nhất, đã được củng cố qua hàng trăm, hàng nghìn năm tồn tại
của các tổ quốc biệt lập” [33, tr.226]. Ở đây CNYN được V.I.Lênin xem xét
với tư cách là một tình cảm tự nhiên thiêng liêng gắn bó với mỗi thành viên
của Tổ quốc, được truyền nối, kế thừa và phát huy theo dòng chảy lịch sử của
mỗi quốc gia dân tộc. Từ điển Triết học của Liên Xô (1986) tiếp tục làm rõ,
CNYN: “Một tình cảm xã hội, mà nội dung là tình yêu và lòng trung thành đối
với Tổ quốc, là lòng tự hào về quá khứ và hiện tại của Tổ quốc, ý chí bảo vệ
những lợi ích của Tổ quốc,... Trong xã hội có giai cấp, nội dung chủ nghĩa yêu
nước có tính chất giai cấp, bởi vì mỗi giai cấp biểu hiện thái độ của mình đối
với Tổ quốc thông qua những lợi ích riêng vốn có của nó” [58, tr.712].
Một số công trình nghiên cứu tiếp cận CNYN dưới góc độ đạo đức, văn
hóa như Bách khoa thư Trung Quốc (1994) định nghĩa: “Chủ nghĩa yêu nước Những quan điểm, tư tưởng và cách ứng xử, hành vi của con người xuất phát
10
từ tình cảm nồng nàn đối với Tổ quốc. Đó cũng là quy phạm, chuẩn mực đạo
đức để điều tiết giữa lợi ích cá nhân và lợi ích Tổ quốc... Đồng thời căn cứ vào
đó để đánh giá hành vi là thiện hay ác, phù hợp với chuẩn mực đạo đức không”
[11, tr.7]. Từ điển bách khoa Larousse của Pháp (1995) quan niệm: “Chủ nghĩa
yêu nước - Sự gắn bó tình cảm với đất nước, với Tổ quốc biểu hiện thành ý chí
bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển của đất nước mình” [11, tr.8].
Ở Việt Nam, Đại từ điển tiếng Việt (1998) khẳng định CNYN là:
“Lòng yêu nước biểu hiện ở tinh thần sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc” [70,
tr.394]. Cuốn Từ điển Công tác Đảng, công tác chính trị Quân đội nhân dân
Việt Nam (2007) quan niệm: “Chủ nghĩa yêu nước, hệ thống tư tưởng, yếu tố
tâm lý, tinh thần xã hội với sự sinh tồn, phát triển của đất nước, của dân tộc;
tập trung ở tình yêu, lòng trung thành với Tổ quốc, ý thức sâu sắc về lãnh thổ
và quốc gia dân tộc, lòng tự tôn và tự hào về văn hiến, ý thức trách nhiệm,
tinh thần tự lực, tự cường trong quá trình dựng nước, giữ nước” [59, tr.97].
Còn Từ điển bách khoa Việt Nam (1995) cho rằng, CNYN là: “Nguyên tắc
đạo đức về chính trị mà nội dung là tình yêu, lòng trung thành, ý thức phục
vụ Tổ quốc... Chủ nghĩa yêu nước chân chính thể hiện ở lòng trung thành
với Tổ quốc vì lợi ích của dân tộc, của nhân dân bảo vệ sự sinh tồn của dân
tộc và đấu tranh cho sự phồn vinh của đất nước” [64, tr.518].
Như vậy, các quan niệm trên tuy khác nhau về hướng tiếp cận, nhưng
đã chỉ ra một số đặc điểm nổi bật của CNYN, đó là:
Thứ nhất, CNYN phản ánh một hệ thống những quan điểm, tư tưởng,
tình cảm và thái độ của của một cộng đồng người với Tổ quốc và dân tộc, được
hình thành, củng cố trong quá trình sống và hoạt động của cộng đồng người đó.
Biểu hiện ở: Sự hiểu biết của con người về điều kiện tự nhiên, xã hội của đất
nước; về truyền thống lịch sử, văn hóa; ý thức tự tôn, lòng tự hào về những giá
trị vật chất - tinh thần của dân tộc; tình cảm yêu quý và sự gắn bó của mỗi
người với gia đình, quê hương, đất nước...
11
Thứ hai, CNYN là sản phẩm của một quá trình kế thừa, bổ sung, phát
triển lâu dài và liên tục từ thế hệ này qua thế hệ khác, đạt đến độ bền vững cao,
trở thành nguyên tắc đạo đức của cộng đồng người, thôi thúc mỗi cá nhân thực
hiện trách nhiệm với gia đình, nghĩa vụ với Tổ quốc và dân tộc. Đặc biệt,
trong trường hợp Tổ quốc lâm nguy, CNYN đòi hỏi mỗi thành viên phải hy
sinh quyền lợi của cá nhân, đặt lợi ích của cộng đồng lên trước, sẵn sàng hy
sinh cho đất nước, dân tộc.
Thứ ba, CNYN là một hiện tượng xã hội - lịch sử, có nội dung và biểu
hiện khác nhau ở từng thời đại, từng quốc gia dân tộc. Trong xã hội có giai
cấp, CNYN mang bản chất giai cấp sâu sắc, phản ánh quan điểm, lợi ích của
giai cấp thống trị tương quan với lợi ích của cộng đồng người. Trên bình diện
thế giới, CNYN phản ánh một dạng tình cảm có tính chất phổ biến của con
người, tuy nhiên CNYN luôn chịu sự quy định của điều kiện riêng về lịch sử,
văn hóa, đặc trưng tộc người của mỗi quốc gia dân tộc, nên nó vừa có tính
phổ quát, vừa có tính đặc thù rõ nét.
Từ những cơ sở trên có thể hiểu: Chủ nghĩa yêu nước là một hệ thống
tổng hòa những tư tưởng, tình cảm, ý chí yêu nước bền vững của một cộng đồng
người với quê hương, đất nước, được hình thành phát triển trong lịch sử, trở
thành nguyên tắc chuẩn mực chi phối tình cảm, thúc đẩy hành động tích cực, tự
giác của mỗi cá nhân trong quá trình xây dựng và bảo vệ quốc gia, dân tộc.
* Quan niệm về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
Trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam
đã sáng tạo nên một nền văn hóa rực rỡ, với vô vàn những giá trị vật chất tinh
thần đặc sắc, trong đó “yêu nước” là giá trị tinh thần bền vững, là truyền thống
tốt đẹp được lưu truyền qua nhiều thế hệ và thường xuyên được bồi đắp, phát
triển để trở thành CNYN Việt Nam, hạt nhân tinh thần tạo nên sức mạnh to lớn
bảo đảm cho dân tộc Việt Nam vượt qua mọi thăng trầm của lịch sử. Chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam là kết quả của sự hòa quyện giữa tư tưởng yêu nước với tình
cảm yêu nước của người Việt, là sự phát triển, nâng cao tinh thần yêu nước của
12
mỗi cá nhân thành truyền thống yêu nước của cộng đồng dân tộc, đóng vai trò
như một nguyên tắc chuẩn mực quy định thái độ, hành vi của mỗi người Việt
Nam đối với quê hương, đất nước ngay từ khi họ được sinh ra.
Từ góc độ tiếp cận về chủ nghĩa yêu nước nêu trên, có thể khái quát:
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là một hệ thống tổng hòa những tư tưởng, tình
cảm, ý chí, quyết tâm yêu nước bền vững của dân tộc Việt Nam, được hình
thành, phát triển trong tiến trình dựng nước và giữ nước, trở thành nguyên tắc
đạo đức chi phối tình cảm, thúc đẩy mỗi người Việt Nam tự giác cống hiến, sẵn
sàng xả thân cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có một số đặc điểm nổi bật như sau:
Thứ nhất, CNYN Việt Nam được hình thành trong tiến trình dựng nước
và giữ nước, bắt nguồn từ công cuộc chinh phục thiên nhiên phát triển nông
nghiệp và quá trình đấu tranh chống xâm lăng của các thế hệ người Việt
Nằm ở vị trí trung tâm khu vực Đông Nam Châu Á, đất nước ta được
thiên nhiên ưu ái những điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển nền nông
nghiệp lúa nước. Nhưng tự nhiên cũng diễn biến thất thường, thiên tai, hạn
hán, lũ lụt thường xuyên xảy ra, đe dọa đời sống của con người. Để tồn tại các
thế hệ người Việt đã đổ không biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, công sức,
thậm chí máu xương trên từng tấc đất, từng dòng sông trong quá trình khai
hoang, mở mang bờ cõi. Bởi vậy, người Việt Nam ngay từ lúc ra đời đã mang
nặng trong lòng tình cảm gắn bó tự nhiên với xóm làng, đồng ruộng, đây
chính là cơ sở bền vững của tình yêu quê hương, đất nước ở mỗi người. Cùng
với quá trình cải tạo điều kiện tự nhiên, dân tộc Việt Nam cũng thường xuyên
phải tiến hành đấu tranh với các âm mưu thôn tính, đồng hóa của kẻ thù để
tồn tại và phát triển. Trong quá trình đó, tình yêu đất nước đã trở thành động
lực tinh thần thôi thúc mỗi người Việt Nam cùng đứng lên đấu tranh chống
xâm lược và sẵn sàng xả thân vì nước. Yêu nước đã trở thành truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam, không ngừng được củng cố, bồi đắp và phát triển
qua nhiều thế hệ người Việt.
13
Thứ hai, CNYN Việt Nam là cội nguồn sức mạnh tinh thần của dân tộc,
bảo đảm cho quốc gia dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn thử thách để
tồn tại và phát triển
Lịch sử dân tộc Việt Nam luôn gắn liền với những chiến công vẻ
vang đánh bại những đội quân xâm lược hàng đầu trên thế giới, đó cũng là
điểm mà ít có dân tộc nào làm được. Thực tiễn đã nhiều lần chứng kiến vận
mệnh dân tộc ta đứng trước nguy cơ tồn vong “ngàn cân treo sợi tóc”.
Chính trong những tình thế nguy nan đó, các thế hệ người Việt Nam đã
khơi dậy và phát huy sức mạnh tinh thần của dân tộc, đặc biệt là lòng yêu
nước, biến nó trở thành vũ khí quan trọng để tập hợp, đoàn kết toàn dân
cùng nhất tề đứng lên chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Ở
đây, CNYN đã đóng vai trò là hạt nhân để đoàn kết dân tộc, xóa bỏ mọi
hiềm khích cá nhân, quy tụ mọi thành phần và lực lượng, tạo thành sức
mạnh nội sinh to lớn, bảo đảm cho một dân tộc “nhỏ bé” “đất không rộng,
người không đông” nhưng vẫn đủ sức đánh bại kẻ thù dù chúng hùng mạnh
như thế nào, đúng như lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Mỗi khi
Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng
vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” [43, tr.38].
Thứ ba, CNYN Việt Nam là sự tổng hòa của tri thức, tình
cảm, ý chí quyết tâm, chuyển hóa thành hành động yêu
nước của mỗi người Việt Nam đối với quê hương, đất nước
mình
Nghiên cứu cấu trúc của CNYN Việt Nam cho thấy có sự gắn kết chặt
chẽ giữa tri thức, tình cảm và ý chí, quyết tâm chuyển hóa thành hành động tự
giác yêu nước của người Việt. Trong đó, tri thức về đất nước của con người
Việt Nam là nền tảng để các yếu tố khác nảy sinh và phát triển. Tri thức đó
thể hiện sự hiểu biết toàn diện của của con người về điều kiện tự nhiên “rừng
vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”; về truyền thống lịch sử dựng nước gắn liền giữ
nước hào hùng của dân tộc; về bản sắc văn hóa thống nhất trong đa dạng của
14
54 dân tộc anh em; ý thức cộng đồng từ truyền thuyết “Lạc Long Quân và Âu
Cơ - trăm trứng nở trăm con”; tinh thần độc lập dân tộc và chủ quyền quốc
gia, “không có gì quý hơn độc lập tự do”...
Bên cạnh đó, CNYN Việt Nam bắt nguồn từ tình cảm của mỗi cá nhân đối
với quê hương mình, rồi phát triển thành tình yêu Tổ quốc. Trong tâm thức,
người Việt luôn coi trọng “đất mẹ” nơi họ đã đổ biết bao mồ hôi, nước mắt và
máu xương để tồn tại qua bao đời, nơi gắn liền với hình ảnh của cha, mẹ, anh
em, làng xóm... hết sức gần gũi, thân thương. Do đó, người Việt có tình cảm cố
kết cộng đồng sâu sắc, trong nhận thức của mỗi người Việt Nam vận mệnh của
gia đình luôn gắn liền với vận mệnh của đất nước “nước mất thì nhà tan”, nên họ
dám đứng lên đấu tranh và sẵn sàng xả thân để cứu nước, bởi cứu nước cũng
chính là cứu nhà. Yêu nước trở thành tình cảm chung của người Việt, yếu tố tinh
thần tự nhiên gắn bó những cá nhân khác nhau thành một cộng đồng bền vững.
Trên cơ sở sự thấm nhuần và chuyển hóa giữa tri thức về đất nước con
người với tình cảm yêu nước sâu sắc của người Việt, hình thành nên ý chí,
quyết tâm thúc đẩy hành động yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do
của Tổ quốc. Ý chí đó được biểu hiện ở sự sáng tạo, không khuất phục trước
khó khăn của thiên nhiên, để phát triển một nền văn minh nông nghiệp rực rỡ;
ở tinh thần bất khuất dám nghĩ, dám đánh và biết đánh kẻ thù xâm lược.
Trước những thử thách tưởng chừng không thể vượt qua, lòng yêu nước
thương nòi đã trở thành động lực chính thôi thúc người Việt Nam kiên quyết
đứng lên, không “khom lưng”, “quỳ gối” cam chịu làm thân nô lệ. Từ quyết
tâm “Sát Thát” và tiếng hô “Đánh” của Hội nghị Diên Hồng, cho đến tinh
thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ” [40, tr.534], đã chuyển hóa thành hành động chung của cả
cộng đồng dân tộc Việt Nam, để tạo nên những chiến công oanh liệt lưu danh
sử sách như Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ...
Thứ tư, CNYN Việt Nam là một dòng chảy phát triển liên tục từ truyền
thống đến hiện đại
15
Khởi đầu là CNYN Việt Nam truyền thống, gắn liền với vai trò của các
triều đại phong kiến Việt Nam, trước những nguy nan của đất nước, CNYN
truyền thống đã góp phần tập hợp, phát huy sức mạnh đoàn kết của toàn dân
tộc, đánh bại mưu đồ thôn tính nước ta của các thế lực phong kiến bên ngoài,
bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
Tuy nhiên đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khi ngọn cờ cứu nước theo hệ
tư tưởng phong kiến thất bại, con đường phát triển của dân tộc ta bước sang
một giai đoạn mới, gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, từ đây một loại hình CNYN kiểu mới đã xuất hiện ở nước ta, đó là
CNYN Việt Nam hiện đại hay còn được gọi là CNYN Việt Nam thời đại Hồ
Chí Minh, đó là sự “kết hợp nhuần nhuyễn trong nội dung của nó truyền
thống tinh hoa hàng nghìn năm của dân tộc ta... với chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ
tư tưởng cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân hiện đại” [65, tr.48].
Thứ năm, CNYN Việt Nam chịu sự quy định của các nhân tố khách
quan và chủ quan của mỗi giai đoạn lịch sử
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được hình thành trong lịch sử Việt
Nam, gắn với những thăng trầm của dân tộc ta, nên có những biểu hiện
khác nhau trong từng giai đoạn. Sự khác biệt đó không mâu thuẫn với
nhau, nó chỉ phản ánh sự thay đổi của các nhân tố khách quan và chủ quan
trong từng thời đại. Các nhân tố đó là điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội của mỗi giai đoạn lịch sử; là nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước
gắn với vai trò của các giai tầng tiến bộ trong xã hội; là xu thế vận động
của thời đại, sự phát triển của tình hình khu vực và thế giới; đồng thời, nó
còn chịu tác động từ những mưu đồ của các thế lực ngoại bang luôn rình rập,
đe dọa nền độc lập tự chủ của dân tộc...
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam biểu hiện ở con người Việt Nam hiện
nay trên một số nội dung sau:
Một là, nhận thức đầy đủ về nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người đối
với dân tộc, với quê hướng, đất nước Việt Nam
16
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, từ khi ra đời và lãnh
đạo cách mạng Việt Nam đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tập hợp và huy động
được sức mạnh của toàn thể dân tộc để đánh cho “Pháp chạy”, Nhật hàng”,
“Mỹ cút”, “Ngụy nhào”, hoàn thành sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, xây dựng
một nước Việt Nam XHCN dân chủ. Thành quả đó là công sức, máu xương
của biết bao nhiêu triệu người Việt Nam đánh đổi mới có được. Do đó mỗi
người Việt Nam yêu nước, luôn phải khắc cốt ghi tâm sự hy sinh lớn lao của
lớp lớp các thế hệ cha anh, đã ngã xuống vì độc lập tự do của Tổ quốc. Để
làm được điều đó, đòi hỏi mỗi người phải nhận thức được đầy đủ nghĩa vụ,
trách nhiệm của bản thân mình đối với quê hương, đất nước. Hiểu đúng về
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, về mối quan hệ không thể
tách rời giữa độc lập dân tộc và CNXH trong thời đại ngày nay. Nhận thức
đúng đắn về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với quê hương, đất nước chính là cơ sở
để bồi dưỡng tình cảm cách mạng trong sáng, củng cố ý chí kiên định với
mục tiêu lý tưởng cách mạng, thúc đẩy mỗi cá nhân tích cực tham gia vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ nước nhà.
Hai là, trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân, sẵn sàng hy
sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc
Yêu nước đòi hỏi mỗi cá nhân phải trung thành với Tổ quốc, với dân
tộc. Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích giai
cấp công nhân cũng như của toàn thể dân tộc. Do đó yêu nước, trung với nước
chính là trung với Đảng, cụ thể hơn là trung thành với con đường cách mạng
XHCN mà Đảng, Bác Hồ và các thế hệ tiền bối đã lựa chọn. Trong những năm
chiến tranh gian khổ, lòng yêu nước của người Việt Nam luôn gắn liền với hành
động anh hùng trong chiến đấu và sự sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc, được biểu
hiện tập trung trong truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam:
“Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc
lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó
khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” [49, tr.435]. Hiện nay
17
trước những yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, yêu nước đòi hỏi mỗi cá
nhân phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng
tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực ủng hộ và tham gia vào công cuộc
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam
thành một nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Ba là, tình cảm yêu mến, gắn bó với quê hương đất nước, tinh thần
đoàn kết cố kết cộng đồng, sẵn sàng vượt qua mọi khác biệt, để xây dựng
cộng đồng ngày càng bền vững và tốt đẹp
Tình cảm yêu nước là một yếu tố quan trọng của CNYN Việt Nam.
Những người yêu nước luôn thể hiện quan điểm, thái độ, trách nhiệm hết sức rõ
ràng với quê hương, đất nước. Trước hết tình cảm đó được biểu hiện qua sự gắn
bó với quê hương, với mảnh đất thân thương nơi nuôi dưỡng mỗi người lớn lên,
với những hình ảnh quen thuộc “cây đa”, “giếng nước”, “sân đình” và những
người thân yêu của họ. Mỗi cá nhân có tình cảm yêu mến với quê hương, đất
nước đều biết trân trọng những ký ức về quê hương, dù đi đâu cũng luôn mang
trong mình nỗi nhớ thương da diết. Yêu mến, gắn bó với quê hương khiến cho
mỗi người biết nâng niu, trân trọng những giá trị tốt đẹp của cộng đồng, biết lưu
giữ những nét đẹp văn hóa truyền thống và đấu tranh với thói hư tật xấu của con
người trong cộng đồng, nhằm xây dựng cộng đồng ngày càng tốt đẹp hơn. Tình
yêu quê hương, đất nước khiến cho mỗi người biết yêu thương nhau, sẵn sàng
xóa bỏ mọi sự khác biệt giữa các cá nhân, gắn bó chặt chẽ họ lại với nhau, cùng
nhau tham gia quá trình xây dựng cộng đồng, phát triển quê hương, đất nước.
Bốn là, hành động tích cực, tự giác tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN
Thực tế đã chứng minh lòng yêu nước của người Việt Nam bao giờ
cũng được biểu hiện rõ ràng, qua các hành động tích cực của con người đối
với quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những người yêu nước luôn thống
nhất giữa lời nói với việc làm, giữa nhận thức đầy đủ về nghĩa vụ của bản
18
thân với việc hoàn thành trách nhiệm của cá nhân đối với gia đình, dòng họ,
quê hương và đất nước. Bởi họ có tinh thần yêu nước sâu sắc, nên luôn luôn
phát huy vai trò tích cực trong tham gia lao động - sản xuất ở cơ quan, đơn vị,
đồng thời luôn là người sống có trách nhiệm với gia đình của mình. Họ luôn
tin tưởng vào sự lãnh đạo Đảng, tự giác thực hiện một cách nghiêm chỉnh các
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước. Chủ
động tham gia xây dựng đời sống văn hóa ở cộng đồng dân cư và phong trào
xây dựng nông thôn mới. Chính họ là những người giữ gìn truyền thống văn
hóa dân tộc, gương mẫu xây dựng tổ ấm của mình thành gia đình văn hóa,
kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng và hành vi sai lệch chuẩn mực đạo
đức, chủ động chăm lo bồi dưỡng con em mình trở thành những người có đủ
đức đủ tài, chuẩn bị thế hệ nối tiếp cho tương lai của dân tộc.
Năm là, tích cực phê phán nhận thức, hành vi sai trái; kiên quyết
đấu tranh với những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc và âm mưu thủ đoạn
chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch
Những người thấm nhuần CNYN, luôn hiểu rõ các chuẩn mực đạo đức,
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, điều đó thôi thúc họ tích cực đấu
tranh với những quan điểm, hành vi sai trái, đi ngược với thuần phong mỹ tục,
với dòng chảy của cách mạng Việt Nam, kiên trì bảo vệ những giá trị tốt đẹp
của nền văn hóa dân tộc trước ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai, lối sống
phương Tây. Bên cạnh đó, CNYN còn được biểu hiện trong mỗi cá nhân là
lòng tự hào tự tôn dân tộc sâu sắc, thôi thúc những người có lương tri, có
trách nhiệm mạnh dạn đứng lên phản bác những luận điệu tuyên truyền xuyên
tạc, kích động, vu khống, bôi nhọ, cũng như kiên quyết đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu, thủ đoạn mà các thế lực thù địch đang tiến hành nhằm phá hoại
tính ổn định trong đời sống xã hội ở nước ta. Yêu nước có thể được thể hiện
bằng hành động xả thân vì nước, cũng có thể thông qua hoạt động đấu tranh
tư tưởng - lý luận với kẻ thù, bởi trong điều kiện mới chiến trường của chúng
ta có thể tồn tại trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
19
1.1.2. Quan niệm và vai trò giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học
viên ở Trường Sĩ quan Đặc công
* Một số nét khái quát về học viên ở Trường Sĩ quan Đặc công hiện nay
Ngày 20 tháng 7 năm 1967, Trường bổ túc cán bộ Đặc công được thành
lập theo quyết định của Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam,
đến năm 1974 Nhà trường chính thức mang tên Trường SQĐC trực thuộc
Binh chủng Đặc công. Trải qua 50 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành,
Trường SQĐC đã có nhiều đóng góp vào quá trình xây dựng phát triển lực
lượng Đặc công toàn quân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng,
quân đội và binh chủng giao phó. Ngày 18 tháng 12 năm 2014, Nhà trường
được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hiện nay
Trường SQĐC có nhiệm vụ đào tạo và bổ túc cán bộ Đặc công trình độ đại
học; đào tạo nhân viên, kỹ thuật trung và sơ cấp; nghiên cứu khoa học nghệ
thuật quân sự; trình diễn kỹ, chiến thuật Đặc công phục vụ các phái đoàn
trong nước và quốc tế đến tham quan, học tập; huấn luyện chống khủng bố;
tập huấn cán bộ cho Binh chủng Đặc công.
Đang học tập ở Trường SQĐC hiện nay có nhiều đối tượng học viên và
mô hình đào tạo khác nhau, có thể kể ra một số đối tượng học viên sau: Học viên
đào tạo sĩ quan CH-TM cấp phân đội trình độ đại học (gọi tắt là học viên đào tạo
CH-TM cấp phân đội); học viên hoàn thiện đại học; học viên trung cấp chuyên
nghiệp; học viên cao đẳng, học viên quốc tế (đào tạo trình độ đại học chuyên
ngành Đặc công cho Quân đội nhân dân Lào và Quân đội hoàng gia Campuchia);
học viên sơ cấp (tổ trưởng Đặc công, nhân viên chuyên môn kỹ thuật)...
Trong phạm vi của đề tài, tập trung nghiên cứu đối tượng học viên đào
tạo CH-TM cấp phân đội ở Nhà trường, với những đặc điểm cơ bản như sau:
Là những người đã trúng tuyển trong kỳ thi tuyển sinh
quốc gia và đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn quy định của Bộ
Quốc phòng, Binh chủng Đặc công.
20
Học viên đào tạo CH-TM cấp phân đội ở Nhà trường bao gồm hai bộ
phận: Một bộ phận là thanh niên học sinh, bộ phận còn lại là quân nhân tại
ngũ có thời gian công tác trong các đơn vị quân đội từ 06 tháng cho đến 01
năm, một số ít học viên là quân nhân được các đơn vị lựa chọn cử tuyển về
học tập tại Nhà trường. Đối tượng học viên này được thẩm định kỹ càng mọi
mặt: Có lý lịch chính trị của gia đình và bản thân rõ ràng, trong sạch, phần lớn
là con em nông dân; có phẩm chất đạo đức tốt, ý thức trách nhiệm công dân
cao; có thể lực tốt đáp ứng với các quy định của quân đội, đủ tiêu chuẩn để trở
thành người cán bộ, sĩ quan Đặc công, đa số học viên có khả năng bơi lội tốt
và có tinh thần ham mê với võ thuật dân tộc, võ thuật Đặc công. Trước khi về
học tập chính thức ở Nhà trường, đã trải qua thời gian huấn luyện cơ bản gần
một năm tại Trường Sĩ quan Lục quân I.
Tuổi đời còn khá trẻ, trình độ văn hóa đồng đều, có khả năng tiếp thu
nhanh và xử trí linh hoạt các tình huống.
Học viên đào tạo CH-TM cấp phân đội ở Nhà trường có tuổi đời từ 18 đến
25, đều đã tốt nghiệp phổ thông trung học, có nền tảng tri thức tốt, khả năng tiếp
thu nhanh, thông minh, linh hoạt trong xử trí các tình huống. Bên cạnh đó, học
viên đã được giáo dục, rèn luyện tại các Nhà trường phổ thông, một số đã trải
qua thời gian huấn luyện, rèn luyện tại các đơn vị của Binh chủng Đặc công và
các đơn vị trong toàn quân, nên đều có sự giác ngộ tinh thần yêu nước nhất định,
có xu hướng nghề nghiệp rõ ràng, nguyện vọng phục vụ lâu dài trong quân đội
và Binh chủng Đặc công. Tuy nhiên, tuổi đời còn trẻ, kinh nghiệm sống và trải
nghiệm thực tiễn còn ít, phẩm chất và năng lực của học viên đang trong quá trình
phát triển, hoàn thiện, dễ chịu ảnh hưởng từ các tác động tiêu cực của môi
trường bên ngoài, nên cần được quan tâm giáo dục thường xuyên.
Mục tiêu yêu cầu học tập rèn luyện cao, chương trình huấn luyện toàn
diện với nhiều khó khăn, gian khổ.
21
Học viên đào tạo CH-TM cấp phân đội ở Nhà trường có mục tiêu đào
tạo để trở thành sĩ quan Đặc công, nên có yêu cầu cao về năng lực, trình độ,
phẩm chất; là đối tượng đào tạo chính của Nhà trường, luôn được quan tâm
giáo dục rèn luyện thường xuyên về mọi mặt. Trong quá trình học tập tại Nhà
trường, học viên phải qua chương trình đào tạo toàn diện, với nhiều khó khăn,
gian khổ và những yêu cầu cao về kết quả, về thể lực; nhất là giai đoạn
chuyển huấn luyện chuyên ngành Đặc công bộ, nước và biệt động, có cường
độ huấn luyện căng thẳng, kéo dài, không kể điều kiện thời tiết nắng, mưa,
mùa hè hay mùa đông. Đòi hỏi mỗi học viên phải có ý chí kiên định, quyết
tâm cao và phấn đấu hết mình, mới bảo đảm hoàn thành tốt mỗi khoa mục
huấn luyện. Bởi vậy, việc khơi dậy và phát huy lòng tự tôn dân tộc, tự hào về
truyền thống quân đội, binh chủng và Nhà trường là cơ sở vững chắc để thúc
đẩy mỗi học viên tự giác nỗ lực vươn lên, khắc phục mọi khó khăn, hoàn
thành nhiệm vụ học tập, rèn luyện tại Nhà trường, đó cũng là cơ sở để bảo
đảm cho người học phát triển, hoàn thiện những phẩm chất cần thiết, đáp ứng
tốt với yêu cầu nhiệm vụ trong tương lai.
* Quan niệm về giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên ở Trường
Sĩ quan Đặc công
Lịch sử dân tộc ta đã khẳng định tiềm năng, sức mạnh to lớn của
CNYN Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chỉ khi nào được khơi dậy đúng
cách CNYN mới phát huy được đầy đủ sức mạnh to lớn của nó và ngược lại.
Bài học mất nước của Nhà Hồ năm 1407 là lời cảnh tỉnh nghiêm khắc đối với
các thế hệ người Việt, đòi hỏi phải biết cách sử dụng ngọn cờ yêu nước để tập
hợp toàn dân đánh giặc, nếu không sẽ chỉ chuốc lấy bại vong. Vì vậy, bồi
dưỡng và phát triển tinh thần yêu nước cho mỗi người là cách thức phù hợp
để “đánh thức” tiềm năng to lớn của CNYN, huy động sức mạnh và hiện thực
hóa nó vào quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, như Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng
bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất
22
giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho
những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức
giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất
cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng
chiến” [43, tr.38-39].
Nghiên cứu giáo dục CNYN cho học viên ở Trường SQĐC cần đi từ sự
nhận thức cơ bản về quá trình giáo dục. Theo Từ điển giáo dục học của nhà
xuất bản Từ điển bách khoa (2001) định nghĩa: “Giáo dục - hành động hướng
tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ
những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư
tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình thành và phát triển năng
lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối
tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội” [24, tr.105]. Như vậy,
giáo dục là quá trình tương tác hai chiều giữa chủ thể giáo dục với đối tượng
giáo dục, thông qua các hình thức, biện pháp khác nhau, nhằm chuyển biến đối
tượng giáo dục cả về nhận thức, tư tưởng, tình cảm và hành động đủ để đáp
ứng các yêu cầu của xã hội.
Trên cơ sở đó, có thể quan niệm: Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho
học viên ở Trường Sĩ quan Đặc công là tổng thể hoạt động của các chủ thể
giáo dục, nhằm củng cố, bổ sung, phát triển tri thức, tình cảm, ý chí yêu
nước, tạo ra động lực thúc đẩy mỗi học viên ở Trường Sĩ quan Đặc công
khắc phục khó khăn, tích cực, tự giác học tập, rèn luyện, nâng cao năng
lực, hoàn thiện phẩm chất người cán bộ, sĩ quan Đặc công, đáp ứng mục
tiêu đào tạo của Nhà trường, nhiệm vụ của binh chủng và quân đội trong
giai đoạn mới.
Giáo dục CNYN cho học viên là một nội dung cơ bản của công tác giáo
dục chính trị - tư tưởng ở Trường SQĐC, một nhiệm vụ quan trọng của hoạt
động giáo dục - đào tạo của Nhà trường. Thực chất đó là quá trình tác động có
mục đích, có kế hoạch của chủ thể giáo dục ở Nhà trường vào nhận thức, tình
23
cảm, ý chí của học viên, trên cơ sở đó làm chuyển biến hành động của họ theo
hướng tích cực, góp phần bảo đảm cho người học hoàn thành tốt nhiệm vụ
học tập, rèn luyện tại Nhà trường và chuẩn bị đầy đủ những yếu tố cần thiết
đáp ứng với chức trách, nhiệm vụ được phân công sau khi ra trường.
Mục đích giáo dục CNYN cho học viên ở Trường SQĐC: Nhằm bồi
đắp, phát triển tinh thần yêu nước, yêu CNXH của mỗi học viên, qua đó nâng
cao nhận thức của họ về truyền thống yêu nước, về các giá trị đạo lý tốt đẹp
của dân tộc, về mục tiêu lý tưởng cộng sản và con đường cách mạng Việt
Nam; khơi dậy tinh thần tự tôn tự hào dân tộc, bồi dưỡng tình yêu Tổ quốc,
tình cảm gắn bó với quân đội, binh chủng và Nhà trường; tôi luyện nâng cao
bản lĩnh chính trị, bản lĩnh chiến đấu, củng cố ý chí vượt lên khó khăn, quyết
tâm hoàn thành nhiệm vụ học tập, rèn luyện cho người học. Trên cơ sở đó góp
phần trau dồi, hoàn thiện nhân cách người cán bộ, sĩ quan Đặc công cho mỗi
học viên, đáp ứng với yêu cầu xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị và
nhiệm vụ chiến đấu của Binh chủng Đặc công trong giai đoạn mới.
Chủ thể giáo dục CNYN cho học viên ở Trường SQĐC: Là tất cả các lực
lượng ở trong và ngoài Nhà trường, tham gia vào hoạt động quản lý, giáo dục,
rèn luyện học viên. Bao gồm: Hệ thống tổ chức đảng các cấp, từ Đảng ủy Nhà
trường cho đến chi ủy, chi bộ của các đơn vị quản lý học viên, giữ vai trò lãnh
đạo, chỉ đạo việc tiến hành hoạt động giáo dục CNYN ở Nhà trường; đội ngũ
cán bộ quản lý, cán bộ chính trị và lực lượng giáo viên là lực lượng trực tiếp
tiến hành giáo dục CNYN cho học viên; phòng Chính trị là cơ quan chỉ đạo,
hướng dẫn, điều hành và bảo đảm phương tiện vật chất cho hoạt động giáo dục
CNYN của Nhà trường; tham gia giáo dục CNYN cho học viên còn có các tổ
chức quần chúng của Nhà trường, nhất là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh các đơn vị quản lý học viên; bản thân mỗi học viên ở Trường SQĐC là
một chủ thể tích cực trong tự giáo dục CNYN. Ngoài ra, gia đình học viên, địa
phương nơi đơn vị đóng quân, địa phương nơi học viên cư trú, đơn vị kết nghĩa
24
của học viên... cũng có vai trò, tác động không nhỏ đến quá trình quản lý, giáo
dục, rèn luyện học viên, trong đó có giáo dục CNYN.
Nội dung giáo dục CNYN cho học viên ở Trường SQĐC: Trang bị cho
người học tri thức toàn diện, không chỉ bó hẹp ở kiến thức về lịch sử truyền
thống, mà còn cung cấp cho người học những tri thức về lý luận chính trị - xã
hội, khoa học xã hội & nhân văn. Bao gồm những nội dung cơ bản sau: Giáo
dục lịch sử, văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đặc biệt là truyền thống
yêu nước thương nòi, tinh thần đoàn kết cố kết cộng đồng, ý chí sẵn sàng xả thân
cứu nước của con người Việt Nam... Giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước; mục tiêu lý tưởng cộng sản; yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước hiện nay... Giáo dục về chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN; đối tượng tác chiến, nhiệm vụ chiến đấu của quân đội, của binh
chủng trong giai đoạn mới; mục tiêu yêu cầu đào tạo của Nhà trường... Giáo dục
về lịch sử, truyền thống “quyết chiến quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt
Nam; truyền thống “đặc biệt tinh nhuệ, anh dũng tuyệt vời, mưu trí táo bạo, đánh
hiểm thắng lớn” của Bộ đội Đặc công và Nhà trường... Giáo dục quan điểm của
Đảng về “đối tượng”, “đối tác”; về bản chất chiến lược “diễn biến hóa bình”,
bạo loạn lật đổ, âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng nước ta của các thế
lực thù địch; thực chất các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, vu khống, kích
động của kẻ thù... Đây là cơ sở để nâng cao nhận thức chính trị, bồi dưỡng
tình cảm yêu nước, yêu chế độ XHCN, thúc đẩy ý chí khắc phục khó khăn,
hoàn thành nhiệm vụ học tập, rèn luyện của mỗi học viên.
Phương thức giáo dục CNYN cho học viên ở Trường SQĐC: Giáo dục
chủ nghĩa yêu nước cho học viên chủ yếu và thường xuyên được tiến hành
thông qua công tác giáo dục chính trị - tư tưởng của các tổ chức đảng, tổ chức
quần chúng, qua hoạt động quản lý, giáo dục, rèn luyện học viên của đội ngũ
cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị ở các cơ quan đơn vị của Nhà trường. Gắn
25