Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận pháp luật đại cương trách nhiệm của nhà báo trong phòng, chống tham nhũng ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.63 KB, 28 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

Đề tài:

“Trách nhiệm của nhà báo trong phòng,
chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”.

Mục lục
Mở đầu................................................................................................................................................3

1. Lý do chọn đề tài............................................................................................3
2. Mục đích, nhiệm vụ........................................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu................................................................................4
Nội dung.............................................................................................................................................4
Chương 1: Khái quát về phòng, chống tham nhũng và pháp luật về phòng chống
tham nhũng........................................................................................................................................4
1. Khái quát........................................................................................................4

1.1. Khái niệm tham nhũng.............................................................................4
1.2. Hành vi và phương thức thực hiện hành vi tham nhũng..........................5
1.3. Nguyên nhân tham nhũng........................................................................7
1.4. Hậu quả tham nhũng................................................................................9
1.5. Khái niệm phòng, chống tham nhũng....................................................11
2. Tổng quan về pháp luật phòng, chống tham nhũng.....................................11
2.1. Khái quát về pháp luật phòng, chống tham nhũng.................................11
2.2. Áp dụng pháp luật phòng, chống tham nhũng.......................................13
Chương II: Thực trạng phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam..................................17
1. Thực trạng cơng tác phịng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay..........17
2. Định hướng, chính sách của Đảng đề ra về phòng, chống tham nhũng.......19
Chương III: Trách nhiệm của nhà báo trong việc phòng, chống tham nhũng ở


Việt Nam..........................................................................................................................................23
1. Quy định của pháp luật về vai trò trách nhiệm của nhà báo trong phòng.
chống tham nhũng............................................................................................23
2. Nhận xét và đánh giá việc thực hiện cơng tác phịng, chống tham nhũng của
nhà báo.............................................................................................................23
3. Trách nhiệm của nhà báo trong cơng tác phịng, chống tham nhũng...........24
Kết luận............................................................................................................................................26
Tài liệu tham khảo.....................................................................................................................27

2

Chủ đề 9: Trách nhiệm của nhà báo trong phòng, chống tham nhũng ở Việt
Nam hiện nay.

Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài.

Ngày nay, cùng với sự năng động của nền kinh tế thị trường, tham
nhũng ngày càng phát triển và đã vượt qua phạm vi lãnh thổ của một quốc gia
và trở thành một thách thức mang tính tồn cầu. Ở Việt Nam, tham nhũng được
nhận định ngày càng nghiêm trọng. Hệ thống pháp luật vẫn còn thiếu sự đồng
bộ và một số văn bản đã sớm lạc hậu với thực tiễn gây nên nhiều kẽ hở, dễ bị
lợi dụng. Mặt khác Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách chủ trương
mới tạo điều kiện để các thành phần kinh tế phát triển, nhưng vẫn còn tồn động
những tiêu cực làm cho một phân tử xã hội bị tha hóa, lạc hướng và có tham
vọng làm giàu bất chấp pháp luật và đạo lý. Tham nhũng gây ra lãng phí, gây
thiệt hại lớn về tài sản của Nhà nước, làm tác động xấu tới đạo đức, cản trở quá
trình phát triển kinh tế. Điều này địi hỏi chúng ta phải tích cực và chủ động
phịng chống tham nhũng có hiệu quả.


Nhận thấy tham nhũng là những biểu hiện tiêu cực trong xã hội, do
đó việc chủ động tích cực tham gia đấu tranh phịng chống tham nhũng và tiêu
cực là quyền hạn, nhiệm vụ của báo chí, đi đơi là trách nhiệm, bổn phận của
người làm báo. Ngịi bút báo chí là “vũ khí” đắc lực và nhà báo là “dũng sĩ”
trong cuộc chiến phòng chống tham nhũng, đưa cái xấu ra ánh sáng.

Với những lý do trên, em lựa chọn đề tài: “Trách nhiệm của nhà
báo trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”. Do kiến thức và
hoàn cảnh cịn hạn chế nên trong q trình làm tiểu luận còn một số vấn đề tồn
đọng nhất định, mong thầy cơ có thể đóng góp để bài viết được hoàn chỉnh hơn.

3

2. Mục đích, nhiệm vụ.

Mục đích nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề về tham nhũng và
vai trị rách nhiệm của nhà báo trong cơng tác phịng chống tham nhũng. Từ đó
đề xuất các giải pháp bảo đảm tăng cường phòng chống tham nhũng tại Việt
Nam.

Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nhận định tình hình tham nhũng hiện nay tại Việt Nam
- Đánh giá thực tiễn vai trò của nhà báo trong phòng chống tham nhũng
- Đưa ra định hướng, đề xuất giải pháp nhằm tăng cường phòng chống
tham nhũng lây lan.
3. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện, bài tiểu luận sử dụng tài liệu tham khảo
như: giáo trình, các cơng trình nghiên cứu đi trước, các báo cáo và tài liệu liên

quan khác. Kết hợp với phương pháp như: phân tích, so sánh, thực tiễn,… để
hồn thành.

Nội dung

Chương 1: Khái quát về phòng, chống tham nhũng và pháp luật về
phòng chống tham nhũng.

1. Khái quát.

1.1. Khái niệm tham nhũng

Tham nhũng là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, ln gắn
bó chặt chẽ hữu cơ với sự tồn tại và phát triển của bộ máy nhà nước. Tham
nhũng không chỉ là vấn đề của một quốc gia mà diễn ra ở tất cả các quốc gia,
khơng phân biệt chế độ chính trị, khơng kể quốc gia đó giàu hay nghèo, đang ở
trình độ phát triển kinh tế như thế nào, tham nhũng diễn ra ở mọi lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội, nó tồn tại và phát triển thường xuyên hàng ngày, hàng

4

giờ, nó len lỏi vào mọi mặt của đời sống xã hội và đụng chạm hầu hết đến lợi
ích của người dân.

Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International - TI)
“Tham nhũng là hành vi lợi dụng quyền hành để gây phiền hà, khó khăn và lấy
của dân. Tham ô là hành vi lợi dụng quyền hành để lấy cắp của công. Tham
nhũng và tham ô là một hệ quả tất yếu của nền kinh tế kém phát triển, quản lý
kinh tế - xã hội lỏng lẻo tạo ra nhiều sơ hở cho các hành vi tiêu cực, hiện tượng
tham nhũng và các tệ nạn có điều kiện phát triển và tại đó một phần quyền lực

chính trị được biến thành quyền lực kinh tế”

Ở góc độ từ điển, theo như tìm hiểu:
Trong Từ điển Luật học Việt Nam: “Tham nhũng là hành vi lợi dụng
chức vụ, quyền hạn hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật, gây thiệt hại cho tài
sản của Nhà nước, tập thể, cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ
quan, tổ chức.”
- Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam: “Tham nhũng là hành
vi của ngời có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ quyền hạn để sách
nhiễu, tham ô, nhận hối lộ hoặc cố ý làm trái chính sách, chế độ, thể lệ về kinh
tế tài chính vì động cơ vụ lợi gây thiệt hại cho tài sản nhà nước, tập thể và cá
nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị
xã hội”
- Xét theo quy định của pháp luật, Khoản 1, Điều 3 của Luật Phòng,
chống tham nhũng năm 2018 quy định: "Tham nhũng là hành vi của người có
chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì mục đích vụ lợi".

Nhìn chung khái niệm tham nhũng được hiểu thống nhất là một
hiện tượng xã hội tiêu cực, lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt bất hợp
pháp công quyền hay nguồn lực tập thể, gắn liền với quá trình hình thành quyền
lực xã hội.

5

1.2. Hành vi và phương thức thực hiện hành vi tham nhũng.

1.2.1. Các dấu hiệu cơ bản
- Thứ nhất, chủ thể tham nhũng là người có chức vụ quyền hạn.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Phòng chống tham nhũng 2018
(có hiệu lực thi hành từ 01/7/2019) thì tham nhũng là hành vi của người có chức

vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi. Trong đó, người có
chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, do hợp
đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương,
được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định
trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó, bao gồm:
+) Cán bộ, công chức, viên chức;
+) Sĩ quan, qn nhân chun nghiệp, cơng nhân, viên chức quốc phịng
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân công an trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân;
+) Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp;
+) Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức;
+) Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ và có quyền
hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó.
- Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ quyền hạn
trong khi thi thành công vụ được giao.
Lợi dụng chức vụ thể hiện đó là khi họ dung chức vụ, quyền hạn của
mình làm trái hoạt động của cơ quan tổ chức, gây ra thiệt hại cho lợi ích Nhà
nước và xã hội. Bên cạnh đó, tham nhũng cịn có thể xuất hiện ở khía cạnh khác
đó là người có chức vụ quyền hạn khơng lạm dụng chính chức vụ quyền hạn ấy
khi đang thực thi nhiệm vụ, mà do xung quanh họ có mối quan hệ nhất định với
những người có quyền hạn chức vụ khác để tác động sao cho đem lại lợi ích cho
chính cá nhân tác động.

6

- Thứ ba, người thực hiện hành vi tham nhũng phải có mục đích vụ lợi
(vật chất, tinh thần).

Đây là dấu hiệu chủ chốt để làm rõ giữa hành vi tham nhũng và những

hành vi vi phạm pháp luật khác mà người có chức vụ, quyền hạn thực hiện.
Động cơ cho hành vi vụ lợi còn được hiểu khơng chỉ người có quyền hạn, chức
vụ chiếm đoạt tài sản của Nhà nước và của công thu lợi bất chính cho cá nhân,
mà có thẻ chuyển cho người hoặc nhóm người khác gây thiệt hại cho những
quyền lợi hợp pháp.

1.2.2. Đặc điểm hành vi tham nhũng.
Hành vi tham nhũng là hành vi của một cá nhân hoặc một nhóm người.

Hành vi này đang có nguy cơ tăng rất mạnh, mang lại hậu quả khôn lường.
- Thứ nhất, tham nhũng là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, đó là những

hành động xâm hại đến những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, trực tiếp
xâm hại đến uy tín và quyền lợi hợp pháp của công dân.

- Thứ hai, tham nhũng là một tập hợp những hành vi tiêu cực và trái đạo
đức, phản ánh trực tiếp việc gây tổn hại cho các quan hệ xã hội. Vì có những
hành động rất tinh vi, trắng trợn đầy thủ đoạn dể chiếm đoạt tài sản công và tư.
Đây được xem là đi ngược lại với quy định Nhà nước và đạo đức xã hội.

- Thứ ba, tham nhũng được thực hiện bởi người có chức vụ quyền hạn,
nên họ là chủ thể của tội phạm tham nhũng. Chức vụ và quyền hạn cũng là yếu
tố quan trọng, điều kiện quyết định loại tội phạm này. Lợi dụng chức vụ quyền
hạn để xâm hại, làm tổn thất các quan hệ xã hội một cách xảo trá, trắng trợn và
tinh vi, bất chấp hậu quả về pháp luật và đạo đức để chiếm đoạt.

- Thứ tư, tham nhũng là hành vi trục lợi cá nhân. Hành vi tham nhũng đều
bắt nguồn từ động cơ vụ lợi dưới mọi hình thức, mục đích chủ yếu nhắm vào tài
sản, tiền bạc để thỏa mãn cá nhân trái pháp luật.


- Thứ năm, tham nhũng là hành vi khó phát hiện và xử lí. Độ ẩn náu của
những hành vi này rất cao bởi họ có nhiều liên kết móc nối từ người hối lộ đến
người ăn hối lộ. Có nhiều trường hợp do yêu sách, nhưng không hiếm gặp

7

những người “dâng hiến của cải” để đối phương “hài lịng” nhận. Cho nên q
trình điều tra và phá án gây khơng ít khó khăn và cản trở.

1.3. Nguyên nhân tham nhũng

Cho tới hiện tại, tham nhũng là vấn đề nan giải mang tính tồn cầu
nhưng nó cũng mang những yếu tố riêng biệt ứng với mỗi quốc gia. Nhận định
thấy, mỗi quốc gia sẽ có những nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham nhũng
riêng. Tuy nhiên, trên cơ sở đánh giá nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham
nhũng của các nước trên thế giới, tuy có điểm riêng nhưng cũng mang tính chất
chung:

Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng nguồn gốc sâu xa của
tệ tham nhũng là sự gặp nhau của hai nhân tố: Quyền lực cơng và lịng tham cá
nhân. Điều này rất đúng khi gắn thực tế vào sự phát triển của các hình thái Nhà
nước, đặc biệt là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, các quan hệ kinh
tế, chính trị tạo ra tiền đề khách quan cho tham nhũng nảy sinh, phát triển.

Xã hội nào cũng đều có giai cấp, Nhà nước đại diện cho quyền lực của
một giai cấp nhất định. Quyền lực của Nhà nước khi được trao cho những người
cụ thể, mang danh nghĩa đại diện cho Nhà nước thực thi quyền lực cơng, nếu
khơng có cơ chế kiểm sốt sẽ dẫn tới việc lợi dụng hoặc lạm quyền. Khi quyền
lực công không được chế ước, mà mưu cầu cá nhân đi quá giới hạn cho phép,
lòng tham nổi lên, đã dẫn tới việc dùng quyền lực công phục vụ cho chính nhu

cầu cá nhân. Đó chính là cơ sở nảy sinh tham nhũng, hay còn được coi là “sản
phẩm của sự tha hóa quyền lực”.

Nền kinh tế kém phát triển, quản lý kinh tế và xã hội lỏng lẻo, yếu kém là
“môi trường có lợi” cho tham nhũng hồnh hành. Tại các quốc gia có nền kinh
tế phát triển, quản lý chặt chẽ, minh bạch, văn minh tương đương với việc tham
nhũng xảy ra ít hơn. Trái lại, các quốc gia, vùng lãnh thổ đang phát triển, trình
độ quản lý cịn non yếu và dân trí chưa cao thì tham nhũng phức tạp hơn.

8

Một trong những nguyên nhân và điều kiện nảy sinh của tham nhũng
hang đầu là do hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và đồng bộ hoặc việc thực thi
pháp luật yếu kém cũng là. Cơ chế, chính sách, pháp luật thiếu đồng bộ, có
nhiều sơ hở dẫn đến những người có chức vụ, quyền hạn có “điều kiện tốt” để
“lách luật” trục lợi, làm giàu bất hợp pháp.

Suy thoái tư tưởng và phẩm chất đạo đức chính trị là ngun nhân đáng
lo nhất vì họ sẵn sàng bỏ qua lợi ích chung, lợi ích tập thể để trục lợi, làm giàu
bất chính cho bản thân, gia đình, đặc biệt là trong điều kiện khủng hoảng chính
trị, xã hội, kinh tế gây khơng ít ảnh hưởng tiêu cực tới đạo đức của đội ngũ công
chức.

Trình độ dân trí cịn thấp, ý thức pháp luật của người dân chưa cao dẫn
đến việc vơ tình tạo “điều kiện thuận lợi” cho những người có chức quyền có
thể hạch sách dân, vịi vĩnh nhận biếu xén quà cáp hay nói cách khác là nhận hối
lộ. Thực tế, tại các nước phát triển, trình độ dân trí cao nên tham nhũng cũng ít
xảy ra hơn là những nước đang phát triển và kém phát triển với trình độ dân trí
thấp, người dân chưa có điều kiện tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham
nhũng.


Bộ máy hành chính nhà nước cịn cồng kềnh, đi kèm là nhiều thủ tục
hành chính nặng nề, bất hợp lý tạo điều kiện cho một số cán bộ, công chức nhà
nước sách nhiễu, dễ dàng ăn hối lộ của người dân, doanh nghiệp. “Mảnh đất
màu mỡ” của tham nhũng được “vun trồng” bởi một số cơ chế mang tên “xin -
cho”.

Chế độ, chính sách đãi ngộ, nhất là việc tiền lương cho cán bộ, công chức
chưa đáp ứng thỏa đáng. Khi cán bộ, công chức Nhà nước chưa thể sống no ấm,
đầy đủ với tiền lương của mình thì tâm lý tất yếu họ sẽ tìm mọi cách để kiếm
thêm thu nhập từ chính cơng việc, chức vụ mà Nhà nước giao, kể cả tham
nhũng.

9

1.4. Hậu quả tham nhũng.

Tham nhũng xuất phát điểm từ nhu cầu của cá nhân, khi lợi ích đi đơi
cùng với việc lạm dụng quyền lực của những người có chức vụ, quyền hạn thì
khả năng xảy ra tham nhũng là vơ cùng rất lớn sẽ dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm
trọng trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống.

- Về mặt chính trị
Hiện nay, tham nhũng ở khắp các nước trên thế giới nói chung và nước ta
nói riêng đã ở mức báo động đỏ, dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng. Tham
nhũng không chỉ xảy ra ở cấp Trung ương, ở những chương trình, dự án lớn mà
cịn xuất hiện ở cả những cấp chính quyền cơ sở- những cơ quan tiếp xúc với
nhân dân hàng ngày. Tệ nạn tham nhũng, ăn hối lộ, vung tiền chơi bời phung
phí gây tác hại rất lớn, làm tổn hại thanh dàanh Nhà nước, gây bất bình đối và
giảm lịng tin của nhân dân đối với chính phủ, nhà nước, trực tiếp nối tay cho

các thế lực thù địch chống phá.
- Về mặt kinh tế
Tác hại của tham nhũng trong vấn đề kinh tế là đặc biệt nghiêm trọng,
hành vi này gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, tiền bạc, công sức và
thời gian của nhân dân. Theo thống kê, giá trị tài sản bị thiệt hại liên quan đến
hành vi tham nhũng của mỗi vụ lên đến hàng chục, hàng trăm, thậm chí hàng tỷ
đồng. Tác hại tham nhũng mang lại trong lĩnh vực kinh tế không chỉ là vấn đề
về tài sản, lợi ích của Nhà nước, của tập thể và cá nhân bị biến thành tài sản
riêng của một người, mà nguy hiểm hơn hành vi này còn gây thiệt hại, thất
thốt, lãng phí.
- Về mặt xã hội
Hành vi tham nhũng là hành vi trái đạo đức vì đối với khía cạnh xã hội,
hậu quả tham nhũng chính là làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực đạo đức
xã hội, làm tha hóa đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Đứng trước những lợi
ích bất chính có được khi thực hiện hành vi tham nhũng, nhiều người có chức

10

vụ, quyền lợi đã không giữ được phẩm chất đạo đức của mình. Chức vụ, quyền
lực được giao giờ đây khơng cịn được sử dụng nhằm sẵn lịng phục vụ nhân
dân mà đang hướng tới các lợi ích bất hợp pháp, nặng nề hơn là “ăn chặn của
dân”. Hành vi tham nhũng không chỉ diễn ra trong các lĩnh vực như kinh tế, tài
chính, ngân hàng,…. Mà đang dần có xu hướng lan sang các lĩnh vực khác-
những lĩnh vực ít có khả năng xảy ra tham nhũng như: văn hóa, y tế, giáo dục,
…thậm chí đã mở rộng sang cả những lĩnh vực được đánh giá là không thể có
hành vi tham nhũng dưới góc nhìn pháp luật và đạo đức như phúc lợi xã hội,
bảo vệ pháp luật. Càng như vậy, hậu quả của tham nhũng càng ngày trầm trọng
thêm.

Điều đáng báo động hơn cả là dường như tham nhũng đang trở thành một

điều “rất bình thường” trong quan niệm của một bộ phận cán bộ nhà nước, có
khi cịn là việc “nên làm”. Điều này đã rấy lên báo động của sự suy thoái, xuống
cấp về đạo đức xâm hại đến những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.

1.5. Khái niệm phòng, chống tham nhũng.

Phòng chống tham nhũng là tổng thể các biện pháp à một nhà nước áp
dụng để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý. Những biện pháp đó có thể
là lập pháp (ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh những hành vi tham
nhũng), hành pháp (thực hiện các quy định pháp luật về phòng chống tham
nhũng), tư pháp (xử lý những hành vi tham nhũng theo luật định) hoặc những
biện pháp mang tính giáo dục, tuyên truyền để nâng cao nhận thức, ý thức trách
nhiệm của những chủ thể có liên quan về vấn đề này.

Phòng chống tham nhũng bao gồm hai lĩnh vực hoạt động:
- Một là, phòng ngừa tham nhũng là hoạt động của các cơ quan, tổ chức,
đơn vị và cá nhân công dân nhằm làm giảm đi các điều kiện tham nhũng, bao
gồm các hoạt động như: Ban hành các văn bản điều chỉnh hành vi tham nhũng,
tuyên truyền và giáo dục nâng cao nhận thức. Minh bạch trong mọi hoạt động

11

của các cơ quan và tài sản thu nhận, xây dựng và thực hiện các chuẩn mực đạo
đức và cải cách hành chính

- Hai là, chống tham nhũng là hoạt động cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá
nhân công dân trong phát hiện tham nhũng và xử lý tham nhũng, bao gồm các
hoạt động như: khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, kiểm tra, điều tra, truy
tố, xét xử,…


2. Tổng quan về pháp luật phòng, chống tham nhũng

2.1. Khái quát về pháp luật phòng, chống tham nhũng

Pháp luật về phòng, chống tham nhũng là hệ thống các quy phạm pháp
luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực phỏng, chống tham nhũng.

Từ khái niệm pháp luật về phòng chống tham nhũng, có thể xác định
đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh, nguồn pháp luật phòng chống
tham nhũng như sau:

Đối tượng điều chỉnh của pháp luật nói chung, chính là các quan hệ xã
hội. Tuy nhiên, pháp luật không điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội cụ thể mà
chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng nhất liên quan trực tiếp đến lợi ích
của nhà nước, xã hội và cá nhân con người.

Mỗi một ngành luật sẽ có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều
chỉnh riêng. Xác định được đối tượng điều chỉnh của pháp luật là đã xác định
ranh giới của việc sử dụng pháp luật vào việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, xác
định ranh giới của sự can thiệp công khai của nhà nước thông qua pháp luật vào
sự phát triển của các quan hệ xã hội. Luật Hành chính điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan hành
chính nhà nước; trong tổ chức và hoạt động nội bộ của các cơ quan quyền lực
nhà nước, tòa án, viện kiểm sát; trong hoạt của các tổ chức xã hội được nhà
nước trao quyền hành pháp. Pháp luật về phịng chống tham nhũng khơng phải
là một ngành luật độc lập mà là một chế định thuộc ngành luật hành chính. Vì

12


vậy, pháp luật về phòng chống tham nhũng điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã
hội phát sinh giữa các chủ thể trong hoạt động phòng ngừa, phát hiện và xử lí
tham nhũng. Đồng thời cũng xuất phát từ phương pháp điều chỉnh chung của
Luật Hành chính, pháp luật về phòng chống tham nhũng sử dụng phương pháp
điều chỉnh là mệnh lệnh – phục tùng. Tính mệnh lệnh được hình thành từ quan
hệ “quyền lực – phục tùng” giữa một bên nhân danh nhà nước ra những mệnh
lệnh bắt buộc bên kia (cá nhân, cơ quan, tổ chức phải phục tùng các mệnh lệnh
đó).

Nhìn chung có thể thấy nguồn của pháp luật về phòng chống tham rất đa
dạng. Các quy phạm pháp luật phòng chống tham nhũng cũng được chứa đựng
bao gồm trong nhiều văn bản pháp luật như: Luật PCTN; Bộ Luật Hình sự; Luật
Khiếu nại; Luật Tố cáo; Luật Giám sát; Luật Thanh tra; Luật phòng chống rửa
tiền; Luật Cán bộ, cơng chức; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí... và cả
trong các Điều ước Quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Được ban hành lần đầu
năm 2005 và sửa đổi, bổ sung vào các năm 2007 và 2012, năm 2018 Luật phòng
chống tham nhũng được coi là văn bản xương sống trong khuôn khổ pháp luật
Việt Nam về phòng chống tham nhũng.

2.2. Áp dụng pháp luật phòng, chống tham nhũng

Các yếu tố cấu thành cơ bản để duy trì sự tồn tại của đời sống pháp luật
là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật, đồng
thời thể hiện sự phân công quyền lực nhà nước theo các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp của nhà nước pháp quyền. Các yếu tố này cùng tồn tại, tác
động và hỗ trợ lẫn nhau, bổ sung cho nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. Công tác tổ
chức thực hiện pháp luật trong cuộc sống chủ yếu là thuộc về trách nhiệm và là
chức năng của cơ quan hành pháp.

Áp dụng pháp luật về phòng chống tham nhũng sẽ là chức năng chính

của cơ quan hành pháp trong quá trình chuẩn bị các nguồn lực (con người, tổ
chức bộ máy, cơ sở vật chất để thực hiện từng văn bản pháp luật) bảo đảm sẵn

13

sàng, phù hợp ngay từ khi tổ chức học tập, quán triệt ngay từ đầu, vận dụng để
mọi hành vi ứng xử của các chủ thể đều phù hợp với các quy định của pháp luật
có liên quan đến phịng chống tham nhũng. Tuy nhiên, xét về mức độ hiệu quả
của việc tổ chức thực hiện pháp quan luật về phòng chống tham nhũng còn phụ
thuộc vào chất lượng của hoạt động lập pháp – ban hành luật và giám sát thực
hiện luật của Quốc hội, của hoạt động tư pháp trong bảo vệ pháp luật và sử
dụng cưỡng chế nhà nước trong phòng chống tham nhũng.

Mặt khác, tổ chức thực hiện pháp luật về phòng chống tham nhũng còn
bị ảnh hưởng bởi các chủ thể khác như tổ chức kinh tế, xã hội, công dân khi các
chủ thể này tổ chức thực hiện phản biện và giám sát xã hội, thực hiện quyền
phản ánh, kiến nghị, tố cáo, khiếu nại..., cũng như mức độ tuân thủ và chấp
hành pháp luật khi thực thi các quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong đời sống.
trình độ dân trí, ý thức và truyền thống pháp luật, xu thế vận động xã hội, xu thế
tồn cầu hố và hội nhập,…cũng là những yếu tố khác có ảnh hưởng và tác
động mạnh mẽ đến quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về phòng chống tham
nhũng trong cuộc sống. Việc tổ chức thực hiện pháp luật về phòng chống tham
nhũng làm cho những quy định mà lập pháp đã tạo dựng (còn là văn bản trên
giấy) vận hành trong hoạt động hang ngày của xã hội, là quá trình tiến đến mục
tiêu của nhà làm luật nhằm mục đích sử dụng cơng cụ pháp luật để quản lý, thúc
đẩy sự phát triển xã hội theo xu thế tiến bộ trong mọi lĩnh vực của đời sống,
phát huy hiệu quả của pháp luật về phòng chống tham nhũng.

Triển khai thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
- Một là, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng chống tham nhũng.

Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và ý thức trách
nhiệm của cán bộ, công chức viên chức và nhân dân về cơng tác phịng chống
tham nhũng; tuyên truyền, phổ biến quan điểm, chủ trương, chính sách pháp
luật của Đảng và Nhà nước về phòng chống tham nhũng. Đưa nội dung của
Luật phòng chống tham nhũng và chương trình giáo dục. Mở ra các chuyên mục
tuyên truyền, giáo dục pháp luật vè phòng chống tham nhũng trên các báo, đài.

14

- Hai là, thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng.
Công khai và minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn
vị. Hình thức cơng khai bao gồm: cơng bố tại cuộc họp; niêm yết tại trụ sở làm
việc; thông báo bằng văn bản; phát hành ấn phẩm; thông báo trên các phương
tiện thông tin đại chúng. Nội dung công khai minh bạch dựa trên tất cả các lĩnh
vực quản lý nhà nước như: mua sắm, xây dựng cơ bản; quản lý dự án đầu tư xây
dựng; tài chính và ngân sách nhà nước; huy động và sử dụng các khoản đóng
góp của nhân dân; quản lý, sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ...
Tiến hành xây dựng và triển khai thực hiện các chế độ, định mức, tiêu
chuẩn. Tổ chức thực hiện các quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp;
thực hiện việc chuyển đổi vị trí cơng tác của cán bộ, công chức, viên chức; thực
hiện những việc cán bộ công chức viên chức không được làm, các quy định về
việc tặng quà và nhận quà tặng của cán bộ công chức viên chức; thực hiện kê
khai, xác minh, giải trình về tài sản, thu nhập của cán bộ công chức viên chức;
thực hiện chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi
để xảy ra tham nhũng; thực hiện cải cách hành chính, đổi mới cơng nghệ và
phương thức thanh tốn.
- Ba là, thực hiện các biện pháp phát hiện tham nhũng.
Thực hiện cơng tác kiểm tra hành chính của các cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Thủ trưởng cơ quan có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra việc chấp hành pháp
luật của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của mình

nhằm kịp thời phát hiện hành vi tham nhũng, kịp thời xử lý theo thẩm quyền
hoặc báo cáo cơ quan thanh tra, điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền.
Các cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước, điều tra, Việc kiểm sát, Tịa
án thơng qua hoạt động của mình chủ động phát hiện tham nhũng xử lý theo
thẩm quyền hoặc kiến nghị xử lý theo quay định của pháp luật.
Quốc hội, Hội đồng nhân dân thông qua hoạt động giám sát có trách
nhiệm phát hiện hành vi tham nhũng, yêu cầu hoặc kiến nghị xử lý theo quy
định của pháp luật.

15

Các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có trách nhiệm tạo điều kiện để
đảm bảo cho công dân tố cáo trực tiếp, gửi đơn tố cáo, tố cáo qua điện thoại,
qua mạng thơng tin điện tử và các hình thức khác. Người đứng đầu cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền khi nhận được tố cáo hành vi tham nhũng phải xem xét và
xử lý theo thẩm quyền, giữ bí mật thông tin về người tố cáo, áp dụng các biện
pháp bảo vệ người tố cáo khi có biểu hiện đe dọa, trả thù hoặc khi người tố cáo
yêu cầu; khen thưởng về vật chất và tinh thần theo quy định của pháp luật đối
với người tố cáo trung thực, tích cực cơng tác với cơ quan có thẩm quyền trong
việc phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi tham nhũng.

Các cơ quan thanh tra, điều tra, Việm kiểm sát khi nhận được tố cáo về
hành vi tham nhũng phải xử lý theo thẩm quyền.

- Bốn là, thực hiện các biện pháp xử lý tham nhũng.
+) Tổ chức thực hiện việc xử lý theo thẩm quyền đối với người có hành
vi tham nhũng.
“Người có hành vi tham nhũng thì tùy theo tính chất mức độ vi phạm mà
bị xử lý kỷ luật, truy cứu trách nhiệm hình sự; trong trường hợp bị kết án về
hành vi tham nhũng và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải bị

buộc thội việc; đối với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân thì đương
nhiên mất quyền đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân”.
+) Tổ chức và thực hiện việc xử lý tài sản tham nhũng: Cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi, tịch thu tài sản tham
nhũng; trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc sung quỹ nhà nước.
Giám sát, thanh tra, kiểm tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về phòng
chống tham nhũng.
Cơ quan thanh tra có trách nhiệm tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn thanh tra
việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng chống tham nhũng; trường
hợp phát hiện hành vi tham nhũng thì đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
xử lý; xây dựng hệ thống dữ liệu chung về phòng chống tham nhũng.

16

Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát cơng tác phịng chống
tham nhũng trong phạm vị cả nước. Hội đồng nhân dân các cấp trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát cơng tác phịng chống
tham nhũng tại địa phương.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có trách nhiệm
phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên truyền các quy định
pháp luật về phòng chống tham nhũng; kiến nghị các biện pháp nhằm phát hiện,
phòng ngừa tham nhũng, động viên nhân dân tích cực tham gia phát hiện, tố cáo
hành vi tham nhũng; giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng chống tham
nhũng.

Các cơ quan báo chí có trách nhiệm biểu dương tinh thần và những việc
làm tích cực trong cơng tác phịng chống tham nhũng; lên án, đấu tranh với
người có hành vi tham nhũng; tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
phòng chống tham nhũng.


Chương II: Thực trạng phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam.

Tham nhũng và đấu tranh phịng, chống tham nhũng ln là sự quan tâm
đặc biệt của mọi quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, tham nhũng được nhận
định là một vấn nạn, một trong bốn nguy cơ gây hậu quả đánh mất niềm tin của
nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Cơng tác phịng,
chống tham nhũng được xác định là cuộc chiến đấu tranh lâu dài, khó khăn và
phức tạp.

1. Thực trạng cơng tác phịng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.

Để phịng, chống tham nhũng, Chính phủ, các bộ, Ủy ban nhân dân các
cấp và các cơ quan nhà nước khác đã thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt
động của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức,
tiêu chuẩn. Thực hiện các biện pháp về minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ,
công chức. Đổi mới khoa học công nghệ quản lý và phương thức thanh toán

17

khơng dùng tiền mặt nhằm phịng ngừa tham nhũng. Cơng tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục đấu tranh phòng, chống tham nhũng với nhiều hình thức phong
phú. Đặc biệt, Ban Chỉ đạo Phòng, chống tham nhũng Trung ương, đứng đầu là
đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cùng với Ủy ban Kiểm tra Trung
ương, Ban Nội chính Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt nhiều vụ việc, vụ
án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, đưa ra xét xử nghiêm minh theo đúng
các quy định của pháp luật, được dư luận xã hội đồng tình ủng hộ, đánh giá cao.

Những thành tựu đạt được cơng tác phịng, chống tham nhũng rất đáng
kể. Bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại một số bất cập, hạn chế. Hệ thống pháp luật về

phịng, chống tham nhũng cịn có một số quy định chưa phù hợp, tính khả thi
thấp, hoặc cịn có "lỗ hổng", nhưng chưa được sửa đổi bổ sung; hoàn thiện kịp
thời để làm cơ sở pháp lý cho việc phịng, chống tham nhũng. Hiện nay, quyền
tiếp cận thơng tin của người dân, doanh nghiệp chưa được bảo đảm đầy đủ. Một
số cán bộ, công chức lợi dụng quy định về bí mật nhà nước để che giấu thơng
tin, nhằm mục đích tham nhũng.

Việc kê khai tài sản, thu nhập vẫn tồn tại nặng về hình thức. Hầu hết
các bản kê khai chưa được kiểm tra, xác minh, kiểm chứng dẫn tới việc chưa
giúp cho các cơ quan chức năng kiểm soát được những biến động về tài sản của
người có chức vụ, quyền hạn. Nhiều cơ quan, đơn vị chưa nắm đầy đủ trình tự,
thủ tục kê khai và cơng khai giải trình.

Một số người đứng đầu chưa nêu cao vai trị của mình trong phịng,
chống tham nhũng, số người bị xử lý trách nhiệm khi để xảy ra tham nhũng ở
các cơ quan, đơn vị còn ít so với số vụ việc tham nhũng được phát hiện.

Trong việc xử lý tham nhũng còn nhiều trường hợp còn lỏng và chưa
nghiêm minh, chưa kịp thời. Ngày nay hành vi tham nhũng ngày càng tinh vi,
phức tạp nên dẫn tới việc phát hiện và xử lý tham nhũng gặp nhiều bất cập và
khó khăn. Hành vi “tham nhũng vặt” của một số cán bộ, công chức xử lý chưa
được triệt để.

18

Còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc xử lý và thu hồi tài sản bị chiếm
đoạt, tham nhũng do một số nguyên nhân như: bị can, bị cáo trốn ra nước ngoài,
hoặc bị can, bị cáo chết, hoặc chưa kiểm soát được tài sản, thu nhập của xã hội
nên tài sản có nguồn gốc tham nhũng dễ dàng bị tẩu tán. Dẫn tới việc một số vụ
án tiền, tài sản tham nhũng thu hồi được nhỏ hơn nhiều so với tổng số thiệt hại

do các đối tượng chiếm đoạt, gây nhiều thất thoát.

Sau là những dấu hiệu đáng báo động về tình hình tham nhũng tại Việt
Nam:

- Theo báo cáo tại Hội nghị tồn quốc tổng kết cơng tác phòng, chống
tham nhũng giai đoạn 2013-2020, đã xử lý kỷ luật 131.000 đảng viên, trong đó
có nhiều trường hợp liên quan đến tham nhũng. Khởi tố, điều tra truy tố xem xét
hơn 1.900 vụ án tham nhũng với 4.400 bị cáo trong đó có 18 cán bộ diện Trung
ương quản lý bị xử lý hình sự, trong đó có: 1 Ủy viên Bộ Chính trị, 7 Ủy viên,
nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 4 Bộ trưởng và nguyên Bộ trưởng, 7 sĩ quan
cấp tướng thuộc lực lượng vũ trang. Các cơ quan có thẩm quyền đã kiến nghị
thu hồi 700.000 tỉ đồng, 20.000 ha đất, kiến nghị xử lý trách nhiệm 14.000 tập
thể và cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xử lý 700 vụ việc có dấu hiệu tội phạm;
tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng đạt 32,04%. Từ năm 2016 đến năm 2020, đã kỷ
luật 87.000 đảng viên trong đó có hơn 3.200 trường hợp liên quan tới tham
nhũng.

- Ngoài tham nhũng “truyền thống” tại một số lĩnh vực, đã phát sinh tham
nhũng liên quan cơng tác phịng chống dịch bệnh Covid-19. Báo cáo của Chính
phủ do đại tướng Tơ Lâm, Bộ trưởng Bộ Cơng an, trình bày cho biết năm 2021,
Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tăng cường cơng tác nắm, dự
báo tình hình, xây dựng thể chế, hồn thiện cơ chế, chính sách phục vụ cơng tác
phịng chống tội phạm và vi phạm pháp luật. Đại tướng Tô Lâm nêu rõ: “Về cơ
bản, các vụ án rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng đều được khẩn trương
điều tra làm rõ, đạt 87,05%, trong đó án rất nghiêm trọng đạt 95%, án đặc biệt

19

nghiêm trọng đạt gần 96,6%, vượt chỉ tiêu Quốc hội; tội phạm về trật tự xã hội

tiếp tục được kéo giảm 8,06%”.

2. Định hướng, chính sách của Đảng đề ra về phịng, chống tham
nhũng

Để thực hiện các quan điểm, chủ trương của Đảng về phòng, chống tham
nhũng trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, cần thực hiện
một số nhiệm vụ trọng tâm như sau:

- Thứ nhất, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh phịng,
chống tham nhũng, trong đó:

+) Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính
quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng, chống tham
nhũng. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị phải thật sự coi cơng tác phịng, chống tham nhũng là một nhiệm
vụ trọng tâm, thường xuyên và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện.

+) Nâng cao vai trò, trách nhiệm, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
đảng, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Người đứng đầu cấp
ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp phải cam kết về sự liêm khiết và kiên
quyết đấu tranh chống tham nhũng. Các cấp ủy quản lý chặt chẽ đảng viên, cán
bộ; thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở, ngăn ngừa và phát hiện cán bộ, đảng viên
vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

+) Cơ quan kiểm tra của Đảng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có chức
năng phịng, chống tham nhũng của Nhà nước để kiểm tra, giám sát, phát hiện,
xử lý kịp thời và công khai kết quả xử lý tổ chức, cán bộ, đảng viên có vi phạm
pháp luật về phòng, chống tham nhũng.


- Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
+) Hồn thiện Luật phịng, chống tham nhũng. Cần phải tiếp tục sửa đổi
để quy định một cách toàn diện, bao quát, minh bạch đầy đủ, kịp thời các hoạt
động của cơ quan, tổ chức, đơn vị để mọi người biết. Việc quy định rõ các

20


×