Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Đào tạo nghề cho lao động nông thôn huyện phổ yên, tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.39 KB, 94 trang )

DANH MỤC NHŨNG TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Đọc là
CNH Công nghiệp hóa
ĐTN Đào tạo nghề
HĐH Hiện đại hóa
KTXH Kinh tế xã hội
LĐ Lao động
LĐPT Lao động phổ thông
LĐ NT Lao động nông thôn
LĐTB & XH Lao động thương binh và xã hội
LN Làng nghề
TTCN Tiểu thủ công nghiệp
KT -XH Kinh tế - xã hội
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
ii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
iii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết lần thứ 7 khóa X của Đảng ta đã khẳng định phát triển nông
nghiệp, nông thôn và nông dân là cơ sở để ổn định chính trị đất nước trong
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Nghị
quyết có tầm chiến lược rất quan trọng, đã đề cập toàn diện và đầy đủ các quan
điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông
thôn và nông dân. Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của
Đảng, nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội. Tăng cường đầu tư để phát
triển và đào tạo nghề cho LĐNT, đảm bảo công bằng xã hội về cơ hội học
nghề cho người lao động, khuyến khích và huy động để toàn xã hội tham gia
vào đào tạo nghề cho LĐNT. Nhằm nâng cao chất lượng LĐNT, đáp ứng yêu
cầu CNH- HĐH nông thôn.


Để cụ thể hóa Nghị quyết lần thứ 7, khóa X của Đảng, Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt Đề án "Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm
2020" tại Quyết định số: 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 với Mục tiêu tổng
quát là: "Bình quân hàng năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao động nông
thôn, trong đó đào tạo bồi dưỡng 100.000 lượt cán bộ công chức xã. Nâng
cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề, nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập
của lao động nông thôn (LĐNT), góp phần dịch chuyển cơ cấu lao động và
cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông
thôn".
Đây là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước nhằm tổ
chức hiệu quả công tác đào tạo nghề cho LĐNT, nâng cao trình độ, năng lực
cho đội ngũ cán bộ xã, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động trong
khu vực nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế,
phục vụ sự nghiệp CNH- HĐH nông thôn.
Đối với huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, trong giai đoạn từ năm 2006
1
- 2010, tốc độ phát triển kinh tế luôn đạt ở mức cao, bình quân cả giai đoạn
là 20,4%, cơ cấu kinh tế công nghiệp, dịch vụ chiếm tỷ trọng chủ yếu. Trên
địa bàn huyện đã quy hoạch và xây dựng 2 khu công nghiệp tập trung, 6 cụm
công nghiệp và 2 điểm công nghiệp, 01 khu tổ hợp công nghiệp, dịch vụ và
đô thị Yên Bình với tổng số diện tích quy hoạch trên 6.000 ha với số vốn
đăng ký đầu tư của các doanh nghiệp đạt trên 70.000 tỷ đồng. Sự phát triển
các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, điểm công nghiệp và hạ tầng đô thị
dẫn đến sự thay đổi về cơ cấu đất đai, lao động, việc làm, thu nhập và cơ cấu
kinh tế nông nghiệp. Sự thay đổi này mang lại nhiều chuyển biến mang tính
tích cực, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Nông nghiệp -
Thương mại - Dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm
quốc nội, góp phần đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước, tạo ra việc
làm, nâng cao thu nhập cho người lao động.
Tuy nhiên, cùng với việc phát triển các khu, cụm công nghiệp, dịch vụ

và đô thị, diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp mà hệ quả của nó
là hàng trăm hộ nông dân có nguy cơ không còn hoặc thiếu đất sản xuất
nông nghiệp, trong khi đó tỷ lệ LĐNT đã được đào tạo nghề hoặc trình độ
chuyên môn kỹ thuật thấp dẫn đến khó tìm việc làm và có nguy cơ thất
nghiệp vì điều kiện tham gia thị trường lao động, đặc biệt là những ngành
nghề phi nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Từ năm 2006 đến 2010, theo
báo cáo của UBND huyện Phổ Yên, diện tích đất thu hồi của toàn huyện là
877,6 ha, kéo theo trên 7.500 lao động thiếu việc làm có nguy cơ tạo ra
nhiều vấn đề tiêu cực trong xã hội nông thôn; việc sử dụng kinh phí bồi
thường giải phóng mặt bằng không hiệu quả, lãng phí không cần thiết.
Trong 8.550 hộ nhận tiền bồi thường đất nông nghiệp thì có tới hơn 4.500
hộ xây dựng, sửa chữa nhà cửa và mua sắm tiện nghi sinh hoạt gia đình
chiếm 52%, tỷ lệ lao động tham gia học nghề, tìm kiếm việc làm chiếm tỷ
lệ khoảng 30% đã ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và đời sống của nhân
2
dân vùng bị thu hồi đất.
Theo số liệu điều tra của Phòng LĐ&TB XH huyện Phổ Yên, trong số
10.224 lao động mất việc làm do thu hồi đất có 3.909 người tìm được việc
làm mới còn lại 6.315 lao động không tìm được việc làm. Nguyên nhân chính
là do không có chuyên môn, tay nghề chiếm 70%, sức khỏe không đảm bảo
10%, còn lại là các nguyên nhân khác. Do vậy, việc đào tạo nghề, giải quyết
vấn đề việc làm, tăng thu nhập một cách ổn định cho LĐNT đang là vấn đề
có tính chất thời sự ở huyện Phổ Yên đòi hỏi các cấp chính quyền địa
phương phải đặc biệt quan tâm. (Báo cáo Chính trị tại ĐH Đảng bộ huyện
Phổ Yên lần thứ XXVIII - Tháng 10, năm 2010).
Tuy nhiên, một thực tế được đặt ra là: Công tác đào tạo nghề cho LĐNT
cần triển khai như thế nào? Làm thế nào để tạo nhiều cơ hội cho người lao
động tìm kiếm được việc làm tăng thu nhập, ổn định đời sống?
Xuất phát từ những lý do trên việc nghiên cứu đề tài: "Đào tạo nghề cho
lao động nông thôn huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên", nhằm đánh giá

những kết quả đạt được, những tồn tại, vướng mắc trong công tác đào tạo
nghề cho LĐNT, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm mang lại hiệu quả cao
về đào tạo nghề LĐNT trên địa bàn huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên là hết
sức cần thiết để đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ
cấu lao động để thúc đẩy quá trình phát triển CNH, HĐH nông nghiệp nông
thôn của huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung của đề tài
Nhằm đánh giá thực trạng công tác đào tạo nghề trên địa bàn huyện Phổ
Yên, chỉ ra những kết quả đạt được, phân tích nguyên nhân của những tồn tại,
hạn chế và đề xuất các giải pháp để công tác đào tạo nghề cho LĐNT trong
3
thời gian tới đạt được kết quả cao.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu thực trạng công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên
địa bàn huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.
- Xác định và phân tích những hạn chế, tồn tại trong công tác đào tạo
nghề trên địa bàn.
- Đề xuất các giải pháp cho đào tạo nghề đối với lao động nông thôn, đặc
biệt là các hộ bị thu hồi đất trên địa bàn huyện Phổ Yên.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác đào tạo nghề cho lao động
nông thôn của huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Về nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
về công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn… việc thực hiện tổ chức
đào tạo nghề của các cơ sở đào tạo nghề; việc tham gia đào tạo nghề và tuyển
dụng lao động của các các doanh nghiệp; việc tham gia học nghề để giải

quyết việc làm của lao động nông thôn; các chính sách hỗ trợ của Nhà nước
với lao động nông thôn khi tham gia học nghề, những khó khăn trong việc
đào tạo nghề; dự báo nhu cầu sử dụng lao động qua đào tạo nghề của các
doanh nghiệp và dự báo khả năng đào tạo nghề của các cơ sở đào tạo nghề
trên địa bàn huyện; các quan điểm, định hướng và các giải pháp nhằm tăng
cường có hiệu quả công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn huyện Phổ
Yên, tỉnh Thái Nguyên
3.2.2. Về phạm vi, không gian nghiên cứu
Đề tài được tiến hành nghiên cứu trong phạm vi huyện Phổ Yên, tỉnh
4
Thái Nguyên. Trong đó, trọng tâm vào một số xã có diện tích đất nông nghiệp
bị thu hồi nhiều để phục vụ phát triển các khu công nghiệp, dịch vụ, đô thị
của huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.
4. Đóng góp của luận văn
4.1. Về lý luận
Tìm cơ sở lý luận của việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn và việc
vận dụng triển khai thực hiện trên địa bàn huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.
4.2. Về thực tiễn
Xây dựng được các giải pháp đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên
địa bàn huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 4 chương là:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo nghề cho lao động
nông thôn.
Chương 2. Phương pháp nghiên cứu.
Chương 3. Thực trạng công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn
huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.
Chương 4. Các giải pháp đào tạo nghề cho lao động nông thôn huyện
Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.

5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN & THỰC TIỄN CỦA VIỆC ĐÀO TẠO NGHỀ
CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
1.1. Khái niệm và phân loại về đào tạo nghề
1.1.1. Khái niệm về nghề
Khái niệm "nghề" theo quan niệm ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau
nhất định. Thuật ngữ "nghề" được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
+ Tại Nga: "Là một loại hoạt động lao động đòi hỏi có sự đào tạo nhất
định và thường là nguồn gốc của sự sinh tồn".
+ Tại Pháp: "Là một loại lao động có thói quen về kỹ năng, kỹ xảo của
một người để từ đó tìm được phương tiện sống".
+ Tại Anh: "Là công việc chuyên môn đòi hỏi một sự đào tạo trong khoa
học học nghệ thuật".
+ Tại Đức "Là hoạt động cần thiết cho xã hội ở một lĩnh vực lao động
nhất định đòi hỏi phải được đào tạo ở trình độ nào đó".
+ Tại Việt Nam, nhiều định nghĩa nghề được đưa ra song chưa được
thống nhất, có định nghĩa nêu: "Nghề là một tập hợp lao động do sự phân
công lao động xã hội quy định mà giá trị của nó trao đổi được. Nghề mang
tính tương đối, nó phát sinh, phát triển hay mất đi do trình độ của nền sản xuất
và nhu cầu xã hội".
Theo giáo trình Kinh tế Lao động của trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân
thì:"Khái niệm nghề là một dạng xác định của hoạt động trong hệ thống phân
công lao động của xã hội, là toàn bộ kiến thức và kỹ năng mà một người lao
động cần có để thực hiện các hoạt động xã hội nhất định trong một lĩnh vực
lao động nhất định"
Khái niệm nghề mang một số nét đặc trưng nhất định sau:
- Là hoạt động, là công việc của con người được lặp đi lặp lại.
6
- Là sự phân công lao động xã hội, phù hợp với yêu cầu xã hội.

- Là phương tiện để sinh sống.
- Là lao động kỹ năng, kỹ xảo chuyên biệt có giá trị trao đổi trong xã hội
đòi hỏi phải có một quá trình đào tạo nhất định.
1.1.2. Một số quan niệm cơ bản về đào tạo nghề
Đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm truyền đạt
kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo trong lý thuyết và thực tiễn, tạo ra năng lực để
thực hiện thành công một hoạt động nghề nghiệp hoặc yêu cầu cần thiết của
xã hội.
Đào tạo là sự phát triển có hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cho mỗi cá
nhân để họ thực hiện một nghề hoặc một nhiệm vụ cụ thể một cách tốt nhất.
Theo giáo trình Kinh tế Lao Động của trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân
thì: "Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định về
chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động, để họ có thể đảm nhận được một
số công việc nhất định”.
Theo tài liệu của Bộ LĐTB&XH (2002): "Đào tạo nghề là hoạt động
nhằm trang bị cho người lao động những kiến thức, kỹ năng và thái độ lao
động cần thiết để người lao động sau khi hoàn thành khóa học hành được một
nghề trong xã hội".
Theo Luật dạy nghề: "Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị
kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có
thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học".
Đào tạo nghề là những hoạt động nhằm mục đích nâng cao tay nghề hay
kỹ năng, kỹ xảo của mỗi cá nhân đối với công việc hiện tại và trong tương lai.
Đào tạo nghề bao gồm hai quá trình có quan hệ biện chứng với nhau:
+ Dạy nghề: Là quá trình giảng viên truyền bá kiến thức lý thuyết và
thực hành để các học viên có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo nhất định về
nghề nghiệp.
7
+ Học nghề: "Là quá trình tiếp thu những kiến thức lý thuyết và thực
hành của người lao động để đạt được một trình độ nghề nghiệp nhất định”.

Trong đào tạo nghề có các mục đích đào tạo như sau:
* Đào tạo nghề mới: Là đào tạo những người chưa có nghề, những
người đến tuổi lao động hoặc trong độ tuổi lao động chưa được học nghề.
* Đào tạo lại nghề: Là đào tạo đối với những người đã có nghề, có
chuyên môn nhưng do yêu cầu mới của sản xuất và tiến bộ kỹ thuật dẫn đến
việc thay đổi cơ cấu ngành nghề, trình độ chuyên môn.
* Bồi dưỡng nâng cao tay nghề: Là quá trình cập nhật hóa kiến thức còn
thiếu, đã lạc hậu, bổ túc nghề, đào tạo thêm hoặc củng cố các kỹ năng nghề
nghiệp theo từng chuyên môn và được xác nhận bằng một chứng chỉ hay nâng
lên bậc cao hơn.
Các hình thức đào tạo trên được phân biệt theo các tiêu chí sau:
- Nội dung: Nội dung học có liên quan tới nghề chuyên môn mới hay cũ.
- Mục đích: Để tiếp tục làm nghề cũ hay đổi nghề.
- Lần đào tạo: Lần đầu tiên hay tiếp nối.
- Văn bằng: Được cấp bằng, chứng chỉ hay không được cấp sau khi học.
1.1.3. Các hình thức đào tạo nghề
Tùy theo yêu cầu và điều kiện thực tế có thể áp dụng hình thức đào tạo
cho phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng nghề và người học nghề.
- Kèm cặp trong sản xuất: Là hình thức đào tạo trực tiếp tại nơi làm
việc, chủ yếu là thực hành ngay trong quá trình sản xuất do xí nghiệp tổ chức
và được tiến hành dưới hai hình thức: Kèm cặp theo cá nhân và kèm cặp theo
tổ chức sản xuất.
Quá trình đào tạo được tiến hành qua các bước:
+ Bước 1: Phân công những công nhân có tay nghề cao vừa sản xuất vừa
hướng dẫn thợ học nghề.
8
+ Bước 2: Giao việc làm thử người học bắt tay vào làm thử dưới sự kiểm
tra, giám sát của người hướng dẫn.
+ Bước 3: Giao việc hoàn toàn cho người học nghề khi người học nghề
có thể tiến hành công việc độc lập (dưới sự giám sát của người hướng dẫn).

- Các lớp trong doanh nghiệp: Là các lớp do doanh nghiệp tổ chức
nhằm đào tạo riêng cho mình hoặc cho các doanh nghiệp cùng ngành, cùng
lĩnh vực. Chủ yếu đào tạo nghề cho công nhân mới được tuyển dụng, đào tạo
lại nghề, nâng cao tay nghề, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật mới.
Chương trình đào tạo gồm hai phần:
+ Phần lý thuyết được giảng tập trung do các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật phụ trách.
+ Phần thực hành được tiến hành ở các phân xưởng do các kỹ sư hoặc
công nhân lành nghề hướng dẫn.
- Các trường chính qui: Các trường dạy nghề tập trung, qui mô lớn,
đào tạo công nhân, chủ yếu là đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, kỹ thuật
viên có trình độ cao. Thời gian đào tạo từ hai đến bốn năm tùy theo nghề đào
tạo, ra trường được cấp bằng nghề. Trường dạy nghề có bộ máy quản lý, đội
ngũ giáo viên chuyên trách giàu kinh nghiệm, có bằng cấp chính quy và cơ sở
vật chất giành riêng cho đào tạo chuyên biệt.
- Các trung tâm dạy nghề: Thường tập trung các loại hình đào tạo ngắn
hạn, dưới một năm. Chủ yếu là đào tạo trình độ sơ cấp nghề cho thanh niên và
người lao động. Được tổ chức tại một cơ sở đào tạo nghề chuyên biệt nhưng
với quy mô nhỏ.
1.1.4. Hệ thống tổ chức đào tạo nghề
+ Hệ thống đào tạo chính qui: Bao gồm các trường thuộc Bộ, Ngành
và các địa phương. Số HSSV đào tạo được nhà nước giao chỉ tiêu hàng năm
và cấp kinh phí theo chỉ tiêu. Qui chế thi, cấp bằng và cấp chứng chỉ theo qui
định thống nhất của Nhà nước.
9
+ Các cơ sở đào tạo nghề: Theo Bộ Luật Lao động bao gồm tất cả các
cơ sở đào tạo ngoài hệ thống trường đào tạo chính qui như:
- Trường dạy nghề của các tổ chức, cơ quan, tổng công ty, doanh nghiệp;
các trung tâm đào tạo nghề cấp huyện, các trung tâm dịch vụ việc làm đào tạo
các lớp do ngành và các thành phần kinh tế yêu cầu. Kinh phí của các cơ sở
này một phần được ngân sách nhà nước cấp, một phần do Bộ, địa phương chủ

quản và người học tự đóng góp.
- Các trường dạy nghề tư thục và các lớp dạy nghề tư nhân: do các tổ
chức, cá nhân tự tổ chức theo qui định của Nhà nước. Kinh phí học tập chủ
yếu do người học phải đóng góp.
1.1.5. Phân loại đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Căn cứ vào trình độ đào tạo, phương thức đào tạo, đối tượng đào tạo, đào
tạo nghề cho LĐNT được phân loại như sau:
- Theo trình độ đào tạo: Trình độ Sơ cấp nghề, Trung cấp nghề, Cao
đẳng nghề.
- Theo hình thức đào tạo: Dạy nghề chính quy và thường xuyên, dạy
nghề tập trung và lưu động, dạy nghề tại doanh nghiệp và làng nghề.
- Theo đối tượng đào tạo gồm: Dạy nghề cho những người bị thu hồi đất,
dân tộc thiểu số, người nghèo, người khuyết tật; bộ đội xuất ngũ, các đối
tượng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; dạy nghề cho thanh
niên và cho phụ nữ
- Theo thời gian đào tạo:
+ Đào tạo dạy nghề dài hạn: Là hình thức đào tạo phổ biến tại các trường
đào tạo nghề chính qui.
+ Đào tạo dạy nghề ngắn hạn: Là cách tổ chức dạy nghề trong thời gian
ngắn (từ ba đến mười hai tháng). Người học vừa học lý thuyết vừa thực hành
theo hình thức kèm cặp tại nơi sản xuất, chủ yếu là rèn luyện kỹ năng thực
hành nghề, chuyển giao công nghệ…
10
Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 và quy hoạch mạng lưới
trường dạy nghề đề ra việc hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành với
ba cấp trình độ:
- Sơ cấp nghề: Được trang bị một số kiến thức và kỹ năng nhất định.
- Trung cấp nghề: Được trang bị kiến thức và kỹ năng nghề diện rộng
hoặc chuyên sâu, có khả năng đảm nhận những công việc phức tạp.
- Cao đẳng nghề: Được trang bị kỹ năng nghề thành thạo và kiến thức

chuyên môn chuyên sâu để người học có khả năng vận hành và sử lý các thiết
bị hiện đại, trong các tình huống phức tạp, trong các dây truyền sản xuất tự
động và công nghệ hiện đại.
1.2. Sự cần thiết phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn
1.2.1. Công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và sự cần
thiết phải đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Điều cần quan tâm là chất lượng lao động trong LĐNT còn thấp, thu
nhập của người dân không đủ để bù lại sức lao động đã bỏ ra chưa nói đến
tích lũy để tái sản xuất; gây ra chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông
thôn. Tình trạng lao động nông thôn kéo ra thành phố tìm việc làm thời gian
nông nhàn đang gây ra rất nhiều khó khăn cho thành phố.
Việc đào tạo nghề cho LĐNT, để nâng cao năng suất và chất lượng lao
động, đóng góp tích cực cho công tác giảm nghèo bền vững.
Tình trạng thiếu việc làm trong nông thôn hiện đang rất phổ biến, đặc biệt
là thời gian nông nhàn (khoảng 35% thời gian), nhiều thanh niên đến tuổi lao
động không có việc làm hoặc có việc làm không ổn định; Những vùng đất đai
được chuyển đổi mục đích sử dụng, người lao động được hưởng tiền đền bù,
khi đất không còn, cơ hội tìm kiếm việc làm khó khăn, sinh ra nhiều tệ nạn xã
hội như cờ bạc, gái mại dâm, nghiện hút Các hệ lụy này là ngoài mục tiêu
phát triển của xã hội.
11
Mục tiêu của đào tạo nghề cho LĐNT tạo thêm nhiều việc làm cho người
lao động, thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu lao động, giảm lao động sản xuất
nông nghiệp, tăng lao động làm việc trong các ngành nghề phi nông nghiệp ở
ngay tại địa phương.
1.2.2. Vai trò của đào tạo nghề đối với sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta
xác định công tác đào tạo nghề cho người LĐ là một nhiệm vụ quan trọng để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó vấn đề đào tạo nghề cho lao
LĐNT thời kỳ CNH - HĐH là một nhiệm vụ bức thiết. Điều này càng có ý

nghĩa hơn khi mà nông nghiệp, nông thôn vẫn giữ một vai trò quan trọng
trong cơ cấu kinh tế, là sản xuất đảm bảo lương thực trong điều kiện suy thoái
kinh tế của toàn cầu.
Đào tạo nghề giúp người LĐ có thể nâng cao được kiến thức và kỹ năng
nghề, qua đó nâng cao và góp phần phát triển kinh tế. Để có nguồn nhân lực
lao động chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động, đòi
hỏi phải có cơ chế chính sách sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, phải tăng
cường đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung và đào tạo
nghề nói riêng.
1.3. Các yêu cầu cơ bản về đào tạo nghề cho lao động nông thôn trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.3.1. Đặc điểm lao động ở nông thôn và những vấn đề cần chú ý trong tổ
chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn
1.3.1.1. Khái niệm, đặc điểm lao động nông thôn
a) Khái niệm
Lao động là hoạt động có ý thức của con người, trong đó con người sử
dụng công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động nhằm cải biến đối
tượng lao động để tạo ra sản phẩm hàng hóa thỏa mãn nhu cầu của bản thân
và xã hội.
12
LĐNT là toàn bộ những hoạt động lao động sản xuất tạo ra của cải vật
chất của những người lao động trong lĩnh vực nông, lâm ngư nghiệp đang
sinh sống tại khu vực nông thôn.
b) Đặc điểm của lao động nông thôn.
Lao động nông thôn có những điểm nổi bật sau:
Thứ nhất: Lao động mang tính chất thời vụ cao. Sản xuất nông nghiệp
luôn chịu tác động và bị chi phối bởi các qui luật sinh học và điều kiện tự
nhiên của từng vùng .
Thứ hai: Phần lớn lao động mang tính phổ thông, ít được đào tạo, sản
xuất chủ yếu phụ thuộc vào kinh nghiệm và sức khỏe, tổ chức lao động đơn

giản, công cụ lao động thô sơ.
Thứ ba: Lực lượng tham gia vào LĐNT đa dạng về độ tuổi và có khả
năng đảm nhận nhiều công đoạn trong quá trình lao động. LĐNT không đòi
hỏi các kỹ năng chuyên sâu như lao động của một số ngành khác.
1.3.1.2. Những vấn đề đặt ra đối với đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Theo thống kê, dân số ở nông thôn Việt Nam chiếm hơn 70% dân số. Số
lao động đang làm việc ở các địa bàn nông thôn cũng chiếm khoảng 70%
trong tổng số lao động đang làm việc trong toàn bộ nền kinh tế.
Lao động được đào tạo nghề chỉ chiếm khoảng 15%, phần lớn lao LĐNT
sống ở những địa bàn dân cư nghèo, có điều kiện sinh sống khó khăn, học vấn
thấp, ít được tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản. Nghèo đói vẫn là rào cản
làm cho người nông dân không có điều kiện tiếp cận tới các dịch vụ xã hội,
trong đó có đào tạo nghề. Học vấn thấp, không được học nghề, cũng là một
trong những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói, lạc hậu.
Đào tạo nghề cho LĐNT cần phải có những cách thức tổ chức phù hợp
với từng nhóm đối tượng, các chính sách dạy nghề cho LĐNT hướng tới mọi
người nghèo có nhu cầu học nghề đều được Nhà nước hỗ trợ học nghề.
Những người LĐNT khi có nhu cầu học nghề vẫn được tiếp cận với các dịch
vụ đào tạo nghề.
13
Người LĐNT không thuộc diện nghèo vẫn được học các nghề mà mình
cần với cơ chế hỗ trợ gián tiếp (như tín dụng học nghề, hỗ trợ tìm việc làm, hỗ
trợ sản xuất sau đào tạo….).
Trước thực tế trên, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định
số 52/2012/QĐ -TTg ngày 16/11/2012 về chính sách hỗ trợ giải quyết việc
làm và đào tạo nghề cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp. Trong
đó xác định:
Người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp có nhu cầu đào tạo, học nghề
được nhận vào các cơ sở đào tạo nghề và được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn
hạn và được Nhà nước hỗ trợ chi phí học nghề theo quy định tại Quyết định

số 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Đào tạo nghề
cho LĐNT đến năm 2020.
Đối với người lao động thuộc hộ gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp
đồng thời cũng thuộc đối tượng cho vay vốn theo quy định tại Quyết định
157/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh,
sinh viên thì được vay vốn tín dụng theo quy định hiện hành.
Người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp có nhu cầu tìm việc làm được
hỗ trợ tư vấn học nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí tại các Trung tâm
Giới thiệu việc làm trực thuộc Sở LĐ - TB &XH các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương; ưu tiên vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm theo quy định
của pháp luật.
Người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp có nhu cầu đi làm việc ở
nước ngoài được hỗ trợ 100% học phí học nghề, học ngoại ngữ, bồi dưỡng
kiến thức cần thiết theo quy định của pháp luật về người Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng; hỗ trợ 100% chi phí khám sức khỏe, làm hộ
chiếu, thị thực và lý lịch tư pháp trước khi đi làm việc ở nước ngoài theo mức
quy định hiện hành của Nhà nước.
14
Đây là những cơ hội rất tốt để cho LĐNT được tiếp cận với các chính
sách của Nhà nước để tham gia học nghề, tăng cơ hội tìm kiếm việc làm, tăng
thu nhập và cải thiện đời sống, góp phần tích cực vào công tác giảm nghèo,
chuyển dịch cơ cấu lao động đối với những vùng bị thu hồi đất cho phát triển
công nghiệp, dịch vụ.
1.3.2. Yêu cầu về công tác tổ chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn
1.3.2.1. Yêu cầu về nội dung, chương trình đào tạo nghề
Nội dung, chương trình đào tạo nghề được xây dựng đảm bảo các yêu cầu:
- Tên chương trình dạy nghề là tên của công việc cụ thể hoặc nhóm công
việc hoặc một nghề, thể hiện công việc cần học hoặc kỹ năng nghề cần có sau
quá trình đào tạo.
- Mục tiêu chương trình đào tạo phải bám sát với yêu cầu từ thực tiễn sản

xuất, kinh doanh, dịch vụ; thể hiện cụ thể, chi tiết những công việc người học
sẽ làm được sau quá trình đào tạo, thể hiện rõ các thành phần năng lực người
học sẽ đạt được sau đào tạo gồm kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết trong
lao động.
- Nội dung chương trình đào tạo phải phù hợp với tính chất, đặc điểm
của từng loại chương trình, đối tượng người học và thời gian đào tạo; với mục
tiêu hình thành và phát triển kỹ năng là chính; kiến thức lý thuyết vừa đủ để
hình thành và phát triển kỹ năng.
- Thời gian đào tạo cho các chương trình dạy nghề được vận dụng linh
hoạt đối với từng chương trình nhưng đảm bảo ngắn gọn; thời gian thực hành,
thực tập chiếm từ 90% trở lên trong chương trình đào tạo.
1.3.2.2. Yêu cầu về tổ chức công tác đào tạo nghề
Tổ chức các khóa đào tạo phù hợp cho các nhóm đối tượng khác nhau.
Trên cơ sở điều tra, khảo sát về nhu cầu sử dụng lao động, nhu cầu học nghề
của người nông dân, nhu cầu thực tế của địa phương cần có sự phân nhóm
đối tượng để tổ chức các khóa đào tạo và có các chính sách phù hợp.
15
Phân theo nhóm tuổi để xác định thời gian đào tạo nghề. Nhóm những
người tuổi trên 35 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ, 60 tuổi đối với nam, những
người có trình độ học vấn thấp được tham gia khóa đào tạo ngắn hạn. Nhóm
tuổi tử 16 đến 24 tuổi, những người có trình độ học vấn cao hơn tham gia
khóa đào tạo dài hạn, khóa dạy nghề chuyên biệt ở trình độ Trung cấp nghề
hoặc Cao đẳng nghề.
Để công tác đào tạo nghề đáp ứng được yêu cầu, trước khi tiến hành
công tác đào tạo nghề phải khảo sát đặc điểm và thói quen canh tác của người
nông dân ở các vùng miền khác nhau để có thể có các hình thức đào tạo phù
hợp. Do đặc thù của sản xuất nông nghiệp, người nông dân làm việc theo mùa
vụ, nên các khóa đào tạo cần gắn với việc vừa học, vừa làm của người dân,
hoặc phải lựa chọn thời gian nông nhàn của người dân để tổ chức khóa học
cho phù hợp.

Do tính đa dạng của vật nuôi, cây trồng nông nghiệp, các khóa học nên
được tổ chức gắn với thời kỳ sinh trưởng của vật nuôi, cây trồng. Điều này
đòi hỏi việc xây dựng chương trình đào tạo phải rất linh hoạt và khoa học.
Để huy động các cơ sở dạy nghề tham gia đào tạo nghề cho LĐNT, cần
có các chính sách để huy động cơ sở mở các nghề mới đáp ứng nhu cầu học
nghề người LĐNT. Khi đó lợi ích của người tham gia dạy nghề cho LĐNT
được đảm bảo.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Trình độ tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp của những người công
nhân đóng một vai trò quan trọng hàng đầu trong suốt quá trình đổi mới nền
kinh tế, thực hiện CNH - HĐH. Vì vậy, để nâng cao chất lượng tay nghề cho
công nhân cần phải có một hệ thống các giải pháp đồng bộ. Nhưng trước hết
là phải làm sao để công tác đào tạo nghề có hiệu quả hơn nữa. Muốn vậy, cần
nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng tới công tác này để có những giải pháp
tốt nhất đáp ứng yêu cầu đặt ra.
16
1.4.1. Các yếu tố bên trong
1.4.1.1. Cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ sở dạy nghề
Có thể nói, cơ sở vật chất, kỹ thuật là yếu tố đầu tiên quyết định tới việc cơ
sở dạy nghề có tồn tại hay không? Cơ sở vật chất, kỹ thuật được nhắc đến ở
đây là hệ thống trường lớp, những trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy
nghề, kinh phí của công tác dạy nghề…
Muốn quá trình học tập, đào tạo diễn ra thì trước hết cần có địa chỉ, tại đây
giáo viên dạy nghề sẽ truyền đạt kiến thức lý thuyết, kỹ năng thực hành, kỹ
xảo làm việc cho học viên, giúp học viên tiếp cận được với nghề một cách
nhanh nhất và dễ dàng nhất. Địa chỉ ở đây chính là nơi diễn ra hoạt động sản
xuất kinh doanh, cũng có thể là những xưởng thực hành, hay quy mô hơn, đó
là những lớp dành riêng cho mục đích học nghề. Một hệ thống trường lớp tốt
sẽ giúp quá trình truyền đạt và tiếp thu kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp có
hiệu quả hơn, giúp công tác đào tạo nghề đạt kết quả tốt hơn. Nói đến cơ sở

vật chất, kỹ thuật, chúng ta không thể không nhắc đến những trang thiết bị,
dụng cụ, máy móc phục vụ quá trình dạy và học. Đó là bàn, ghế, hệ thống
chiếu sáng, các thiết bị âm thanh, máy móc thực hành… Học sinh nghề tiện sẽ
không thể học tốt nếu không biết cấu tạo của máy tiện, không biết cách sử
dụng máy tiện. Đặc biệt, trong điều kiện ngày nay, để quá trình đào tạo nghề
được tốt thì những trang thiết bị máy móc phục vụ cho quá trình thực hành
phải là những máy móc tốt nhất, hiện đại nhất hay ít nhất cũng phải phù hợp
với quá trình sản xuất để học viên sau khi kết thúc khoá học mới không bị bỡ
ngỡ khi tiến hành làm việc thực tế.
Một cơ sở vật chất, kỹ thuật tốt sẽ khiến kết quả đào tạo, bồi dưỡng rất khả
quan, sản phẩm của quá trình đó là những người lao động có trình độ chuyên
môn, vững vàng trong nghề đã được đào tạo, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu
của công việc. Nếu cơ sở vật chất không đáp ứng được yêu cầu đặt ra thì quá
17
trình học lý thuyết và thực hành có những hẫng hụt, việc học tại các cơ sở dạy
nghề với ra làm việc thực tế có những khoảng cách lớn, từ đó làm giảm hiệu
quả của công tác đào tạo, gây lãng phí chi phí cho quá trình đào tạo và bồi
dưỡng, mà lãng phí này không chỉ cho bản thân người công nhân, cho doanh
nghiệp, tổ chức thuê mướn, mà là cho toàn xã hội.
1.4.1.2. Chương trình dạy nghề
Có cơ sở vật chất, kỹ thuật chưa đủ, quá trình đào tạo nghề muốn thực hiện
được thì phải các định xem đào tạo cái gì, quá trình ấy diễn ra như thế nào,
trong thời gian bao lâu, cách thức đào tạo ra sao. Những điều đó được biểu
hiện vụ thể qua chương trình dạy nghề.
Chương trình dạy nghề bao gồm: giáo trình dạy nghề (sách giáo khoa, tài
liệu tham khảo), thời gian của quá trình học nghề (đào tạo dài hạn hay ngắn hạn
hay là đào tạo lại nâng cao trình độ lành nghề…), hình thức giảng dạy là dạy
trực tiếp trong sản xuất hay dạy tại trường lớp… Những nhân tố này là những
nhân tố nội tại có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả của công tác đào tạo nghề
Hệ thống lý thuyết bao giờ cũng được tập trung trong các tập bài giảng của

giáo viên dạy nghề mà những bài giảng này có được là nhờ giáo viên dạy
nghề đọc qua sách vở, tài liệu tham khảo hay có kinh nghiệm từ thực tiễn sản
xuất. Một hệ thống lý thuyết tốt sẽ giúp cho học sinh học nghề hình dung ra
được công việc mà họ sẽ phải làm trong tương lai, giúp họ tiếp cận được với
thực tế một cách rõ ràng và nhanh chóng nhất
Có nghĩa là muốn làm việc thực tế được tốt thì phải có hệ thống lý thuyết
tốt dẫn đường. Điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của giáo trình dạy nghề, của
những tài liệu, sách báo tham khảo và quan trọng nhất là những bài giảng lý
thuyết của giáo viên dạy nghề
Thời gian dạy và học nghề cũng có những ảnh hưởng không nhỏ tới quá
trình đào tạo nghề. Với thời gian ngắn, học sinh học nghề chỉ có thể tiếp xúc
18
được với phần nào nội dung công việc trong tương lai của họ, muốn làm việc
tốt thì sau khoá học họ vẫn phải tìm hiểu và mày mò thêm trong thực tế; thời
gian học ngắn sẽ không thể liên kết tốt giữa lý thuyết và thực hành và không
thể đáp ứng được với yêu cầu của những công việc phức tạp. Ngược lại, thời
gian học dài (những khoá học dài hạn, học tại trường dạy nghề) thì lý thuyết
và thực hành sẽ đều nhuần nhuyễn, học sinh học nghề sẽ kết hợp tốt lý thuyết
được học với thực tế công việc, với quá trình thực hành, sau khoá học, trình
độ tay nghề của họ đã đáp ứng được với những bước công việc phức tạp, và
có thể họ sẽ đảm nhận được những vị trí quan trọng trong dây chuyền hoạt
động sản xuất kinh doanh
1.4.1.3. Đội ngũ giáo viên
Nếu như cơ sở vật chất, kỹ thuật và chương trình dạy nghề trong các cơ sở
dạy nghề là những yếu tố tĩnh tại, thì lực lượng giáo viên dạy nghề lại là một
yếu tố động, có tính chất quan trọng đối với hệ thống cơ sở dạy nghề
Giáo viên dạy nghề là những người trực tiếp mang kiến thức, kỹ năng của
nghề truyền đạt cho học viên. Thông qua giáo viên dạy nghề mà học viên hiểu
được cơ sở lý luận, cơ sở khoa học của nghề; nắm được trình tự thực hiện
công việc.

Nếu giáo viên dạy nghề có trình độ tốt, tâm huyết với nghề sẽ đào tạo ra
một lớp người lao động có chất lượng lao động và yêu nghề, từ đó mà nâng
cao năng suất lao động cá nhân và xã hội, giảm những chi phí không đáng có
trong quá trình sản xuất, giảm tai nạn lao động, tăng hứng thú đối với quá
trình lao động với người lao động. Ngược lại, giáo viên dạy nghề không đủ
trình độ hoặc không tâm huyết với nghề, học sinh học nghề sẽ không thể tiếp
thu có hiệu quả chương trình dạy nghề, dẫn đến việc áp dụng lý thuyết đã học
vào trong thực hành là kém và đi vào sản xuất thực tế không đáp ứng được
yêu cầu của công việc, gây lãng phí nguyên vật liệu, thời gian và cả tiền bạc.
19
Có thể nói, hệ thống các cơ sở dạy nghề là những “cái nôi”, nơi trực tiếp
đào tạo nghề cho người lao động- lực lượng chính trị -xã hội quan trọng nhất,
là lực lượng chủ yếu phục vụ cho quá trình CNH, HĐH. Những thành quả của
lao động sản xuất đạt được phụ thuộc trước hết vào trình độ kiến thức, kỹ xảo,
kỹ năng nghề nghiệp, phụ thuộc vào trình độ tay nghề của họ. Mà giáo viên
dạy nghề là “linh hồn” của những “cái nôi” đó, vì thế mà giáo viên dạy nghề
phải được đào tạo và rèn luyện thường xuyên trên cơ sở cấu trúc nhân cách: là
một nhà sư phạm, một nhà chuyên môn kỹ thuật, nhà nghiên cứu ứng dụng
khoa học, nhà quản lý và hoạt động xã hội vì giáo viên nghề là yếu tố quyết
định chất lượng đào tạo nghề.
1.4.1.4. Số lượng học sinh tham gia học nghề
Nếu nói giáo viên dạy nghề là quan trọng quyết định tới chất lượng đào tạo
nghề thì học sinh học nghề tham gia học nghề là nhân tố quan trọng quyết
định tới sự ra đời, tồn tại và phát triển của một cơ sở dạy nghề nào đó.
Một cơ sở học nghề có đầy đủ trang thiết bị, máy móc phục vụ cho công
tác đào tạo nghề; có khuôn viên trường đẹp; có chương trình dạy nghề được
tổ chức khoa học nhất, tiến bộ nhất và đội ngũ giáo viên dạy nghề vào quá
trình học tập thì cơ sở dạy nghề nhưng nếu không có học sinh tham gia vào
quá trình học tập thì cơ sở dạy nghề đó cũng không thể nào tồn tại được.
Khi số lượng học sinh học nghề phù hợp với quy mô của cơ sở dạy nghề thì

chất lượng đào tạo sẽ được nâng lên rõ rệt. Ngược lại, nếu quy mô học sinh
này quá nhỏ hoặc quá lớn so với những yếu tố trên thì cũng đều làm cho quá
trình dạy nghề không được hiệu quả tối ưu.
1.4.2. Các yếu tố bên ngoài
Công tác đào tạo nghề là công tác hết sức quan trọng, nó chịu ảnh hưởng và
tác động của rất nhiều yếu tố, đồng thời nó cũng tác động tới nhiều mặt của sự
phát triển đất nước. Các yếu tố nội tại bên trong quá trình ấy không phải là
20
đứng yên mà thường xuyên vận động, gây ảnh hưởng đến nhau, làm cho công
tác đào tạo nghề cũng phát triển theo, có diện mạo mới. Nhưng diện mạo mới
này không phải là hoàn toàn các yếu tố bên trong đó tạo ra, mà nó còn chịu ảnh
hưởng của những nhân tố khác bên ngoài quá trình, làm thay đổi, đổi mới nó,
làm cho quá trình ấy chuyển biến theo xu hướng phát triển chung của đất nước.
1.4.2.1. Nhận thức của người dân
Thực tế trong thời gian vừa qua và cho tới tận bây giờ, tâm lý chung của
học sinh sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông là muốn vào các trường Đại
học và đó cũng là mong muốn của các bậc cha mẹ. Từ nguyện vọng đó, hàng
năm số lượng thí sinh vào các trường Đại học ngày một đông, có nhiều thí
sinh tham gia nhiều kỳ thi để mong được vào đại học. Ngược lại, số thanh
niên vào học các trường nghề rất ít, phần lớn những em vào học trường nghề
đều do hoàn cản khó khăn, học lực thấp, đã vậy, khi vào trường nghề tâm lý
vẫn không hứng khởi, học với tinh thần “bất đắc dĩ”. Tình trạng đó đã gây nên
việc truyền đạt kiến thức cho học sinh gặp rất nhiều khó khăn
Như vậy, nhận thức này đã tác động rất tiêu cực đến việc phát triển hệ
thống cơ sở dạy nghề, lượng học sinh tham gia vào học nghề ít khiến các cơ
sở dạy nghề không thể đổi mới trang thiết bị giảng dạy, đội ngũ giáo viên dạy
nghề cũng không được trau dồi thêm kiến thức, kỹ năng mới. Có nghĩa là,
công tác đào tạo nghề sẽ không thể phát triển tốt được
Tuy nhiên, do yêu cầu chung của sự phát triển mà cho đến nay, nhận thức
này cũng đã có những chuyển biến tích cực. Lượng học sinh tham gia vào các

cơ sở dạy nghề ngày một nhiều. Đã có suy nghĩ: “đường tới tương lai không
chỉ bằng con đường đại học”, do vậy các em học sinh từ các trường phổ thông
đã tích cực tìm hiểu thêm về hệ thống nghề nghiệp và đã có những lựa chọn
tích cực cho nghề nghiệp trong tương lai; các bậc cha mẹ cũng ngày càng ủng
hộ việc con em mình tham gia vào các trường học nghề; toàn xã hội ra sức
21
đầu tư, tuyên truyền và ủng hộ cho sự phát triển của hệ thống cơ sở dạy nghề.
Đây là điều đáng mừng và cần thiết được phát huy hơn nữa để công tác đào
tạo nghề ngày càng đạt hiệu quả tốt phục vụ sự phát triển đất nước trong
tương lai.
1.4.2.2. Tình hình phát triển kinh tế- xã hội
Kinh tế có phát triển, xã hội có ổn định thì mới có thể đầu tư cho công tác
đào tạo nghề, mới có thể được các ban, ngành, đoàn thể quan tâm. Như vậy,
đào tạo, bồi dưỡng nghề mới có thể phát triển được.
Dạy nghề là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân, vì vậy nó cũng
là một trong các khoản chi thường xuyên của Ngân sách Nhà nước. Kinh tế
đất nước có phát triển thì lượng vốn đầu tư cho công tác này mới gia tăng.
Doanh nghiệp muốn phát triển thì phải có đội ngũ những người lao động có
trình độ chuyên môn, vì thế có nhiều doanh nghiệp cũng bỏ tiền ra để đào tạo
nghề cho người lao động hoặc họ bỏ tiền ra để “mua” những người lao động
được đào tạo hoặc bồi dưỡng nghề với trình độ cao vào doanh nghiệp của họ.
Muốn vậy, doanh nghiệp phải có tiềm lực kinh tế nhất định mới có thể thực
hiện được.
Nói chung, ở cả cấp độ vi mô hay vĩ mô, đào tạo nghề muốn tồn tại, phát
triển được đều càn cơ sở kinh tế vững chắc. Kinh tế càng phát triển, đào tạo
nghề sẽ càng mở rộng quy mô và đi sâu vào cải thiện chất lượng và ngược lại.
Tương tự, với tình hình xã hội cũng vậy. Một xã hội thường xuyên không
ổn định thì công tác giáo dục nói chung, đào tạo nghề nói riêng sẽ ít được
quan tâm hơn là khi tình hình xã hội ổn định.
Trong điều kiện của nước ta hiện nay, với một xã hội rất ổn định, nền kinh

tế đang ngày càng phát triển thì công tác đào tạo nghề đang được hết sức quan
tâm để từ đó có thể tạo ra những người lao động với trình độ nhất định, đến
lượt nó sẽ phục vụ tốt hơn nữa cho quá trình phát triển kinh tế, ổn định xã hội
22

×