Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở huyện sông lô theo hướng phát triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 93 trang )

DANH MỤC VIẾT TẮT
CCKT : Cơ cấu kinh tế
CN : Công nghiệp
CNH : Công nghiệp hóa
GDP : Tổng sản phẩm nội địa
HĐH : Hiện đại hóa
KT : Kinh tế
KTHH : Kinh tế hàng hóa
KTNT : Kinh tế nôn thôn
LLSX : Lực lượng sản xuất
PTBV : Phát triển bền vững
QHSX : Quan hệ sản xuất
SXHH : Sản xuất hàng hóa
SXKD : Sản xuất kinh doanh
TTCN : Tiểu thủ công nghiệp
XH : Xã hội
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
ii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
iii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn có một vị trí đặc biệt quan trọng trong
sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương và đất nước, bởi đây là khu
vực sản xuất ra những sản phẩm thiết yếu nuôi sống con người. Mặt khác, đây còn
là lĩnh vực của đời sống xã hội bao gồm tổng hợp các ngành, nghề gồm nhiều hoạt
động kinh tế - xã hội diễn ra mà nội dung cốt lõi là xác định và hoàn thiện cơ cấu
kinh tế nông thôn. Hiện nay thu nhập bình quân của dân cư nông thôn còn rất hạn
chế, muốn đưa nông thôn theo kịp sự phát triển của đô thị thì không có cách nào
khác là phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế.


Một cơ cấu kinh tế nông thôn hợp lý bao gồm các bộ phận, các phân hệ được
kết hợp với nhau một cách hài hoà, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tài nguyên
của đất nước, làm cho nền kinh tế phát triển, nâng cao thu nhập và đời sống của
nông dân, góp phần xoá đói giảm nghèo, đẩy nhanh quá trình đô thị hoá nông thôn,
nâng cao, đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của dân cư nông thôn, giữ gìn các
giá trị văn hoá, tinh thần tích cực, bảo vệ môi trường ở nông thôn. Song để đạt được
mục tiêu này chúng ta phải tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ tư duy phát triển, cơ sở vật
chất, kỹ thuật, công nghệ và phương thức sản xuất tạo ra mức tăng trưởng nhanh
hơn, đồng thời tạo ra việc làm với thu nhập cao hơn cho số lao động dôi dư và mới
tăng thêm ở nông thôn. Kinh nghiệm cũng như thực tiễn cho thấy chỉ có bằng con
đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn mới đáp ứng được
yêu cầu đặt ra.
Sông Lô là huyện miền núi của tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập và đi vào hoạt
động từ ngày 01/4/2009. Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của
Đảng và Nhà nước, kinh tế của huyện Sông Lô tăng trưởng khá và liên tục. Bộ mặt
nông thôn có những biến đổi rõ nét. Kết cấu hạ tầng nhất là hệ thống giao thông,
thủy lợi, trường học, trạm y tế … được đầu tư xây dựng theo hướng kiên cố hóa. Đã
hình thành các cụm kinh tế, văn hóa; nhiều giống cây trồng vật nuôi mới có năng
suất cao, chất lượng tốt được đưa vào sản xuất đã tăng thu nhập cho nông dân, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, đời sống nhân
dân từng bước được cải thiện.
1
Tuy nhiên, tiến trình chuyển dịch cơ cầu kinh tế nông thôn còn chậm, chưa
bền vững; sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ, phân tán, công nghiệp chế biến nông
sản, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề chưa phát triển; chất lượng nguồn nhân lực còn
thấp so với yêu cầu; kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội khu vực nông thôn còn bất cập
thiếu đồng bộ; môi trường nông thôn chưa được quan tâm; đời sống của một bộ
phân nông dân còn nhiều khó khăn; mặt bằng dân trí không đồng đều, tập quán sản
xuất lạc hậu còn tồn tại trong một bộ phận nông dân. Tỷ lệ hộ nghèo tuy đã giảm
nhiều nhưng vẫn còn cao, tốc độ giảm nghèo chậm và thiếu bền vững. Xuất phát từ

tình hình thực tế trên, tôi chọn và nghiên cứu đề tài: “giải pháp chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn ở huyện Sông Lô theo hướng phát triển bền vững”
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ cở phân tích thực trạng, đề xuất một số giải pháp tiếp tục chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở huyện Sông Lô theo hướng phát triển bền vững.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ cấu kinh tế nông
thôn và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn hướng phát triển bền vững.
- Đánh giá thực trạng cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
theo hướng phát triển bền vững của Sông Lô trong những năm qua.
- Đề xuất quan điểm, phương hướng, giải pháp để đẩy nhanh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn huyện Sông Lô theo hướng phát triển bền vững.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát
triển bền vững ở huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn theo hướng phát triển bền vững huyện Sông Lô từ năm 2009 - 2012.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn Hệ thống hóa cơ sở lý luận về cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và phát triển bền vững. Làm rõ thêm tính tất yếu, khách quan
2
đồng thời đưa ra những giải pháp đẩy nhanh quá trình chuyện dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn huyện Sông Lô phát triển bền vững. Trên cơ sở đó, Luận văn có thể là tài
liệu tham khảo giúp các nhà hoạch định chính sách của huyện đưa ra những giải
pháp, định hướng trong phát triển kinh tế huyện Sông Lô.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, Luận văn bao gồm 4 chương

Chương 1: Cơ sở sở lý luận và thực tiễn của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn theo hướng phát triển bền vững.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
theo hướng phát triển bền vững.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Sông Lô
theo hướng phát triển bền vững.
Chương 4: Những giải pháp chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện
Sông Lô theo hướng phát triển bền vững trong thời gian tới.
3
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ NÔNG THÔN THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Việc phát triển nền kinh tế có hiệu quả là mục tiêu phấn đấu của mỗi quốc
gia. Muốn đạt được mục tiêu trên một trong những yếu tố quan trọng đòi hỏi phải
có một CCKT hợp lý xét trên góc độ các ngành kinh tế, các vùng kinh tế và các
thành phần kinh tế. Các yếu tố hợp thành CCKT phải được thể hiện cả về số lượng
cũng như chất lượng và được xác định trong những giai đoạn nhất định, phù hợp
với những đặc điểm tự nhiên, KT-XH cụ thể của mỗi quốc gia (vùng, hoặc địa
phương) qua từng thời kỳ.
Cơ cấu kinh tế không phải là một hệ thống tĩnh, bất biến, mà luôn vận động
chuyển dịch, thích hợp với những biến động của điều kiện tự nhiên, KT-XH. Do đó
sự duy trì quá lâu hoặc thay đổi quá nhanh chóng của CCKT mà không tính đến sự
phù hợp với những biến đổi của tự nhiên, KT-XH đều có thể ảnh hưởng đến hiệu
quả của nền kinh tế. Vì vậy việc duy trì hay thay đổi CCKT không phải là mục tiêu,
mà chỉ là phương tiện của việc tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cơ cấu kinh tế
trong quá trình vận động chuyển dịch nhanh hay chậm không phụ thuộc vào ý muốn
chủ quan mà phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết cho sự chuyển đổi, sự vận động
và phát triển của LLSX xã hội, các mục tiêu KT-XH sẽ đạt được như thế nào. Nói

cách khác CCKT biến đổi chính là kết quả của quá trình phân công lao động xã hội,
CCKT phản ánh mối quan hệ LLSX và QHSX của nền kinh tế.
Từ sự phân tích trên có thể hiểu: CCKT là tổng thể các bộ phận hợp thành
kết cấu (hay cấu trúc) của nền kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội. Các bộ
phận đó gắn bó với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu hiện ở các quan hệ tỷ
lệ về số lượng, tương quan về chất lượng trong những không gian và thời gian nhất
định, phù hợp với những điều kiện KT-XH nhất định nhằm đạt hiệu quả KT-XH cao.
Khái niệm CCKT như nêu trên là khoa học tương đối toàn diện, đầy đủ các
bộ phận cấu thành, các mối quan hệ khăng khít giữa các bộ phận cấu thành. Như
4
vậy CCKT vừa mang tính khách quan, vừa mang tính lịch sử xã hội, đồng thời luôn
vận động và phát triển không ngừng, gắn với sự phân công lao động, hợp tác kinh tế
trong nước và quốc tế. Ta có thể hiểu trực diện hơn, CCKT còn thể hiện mối quan
hệ và tỷ lệ giữa các ngành trong nền kinh tế (hoặc trong GDP), mối quan hệ giữa
các vùng kinh tế, giữa các thành phần kinh tế. Từ đó có thể hiểu Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế là sự thay đổi tỷ trọng tương đối của các ngành, các bộ phận của mỗi
ngành trong nền kinh tế (hoặc trong GDP), sự thay đổi vị trí, vai trò của các vùng
kinh tế, các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Chuyển dịch CCKT là
việc thay đổi cấu trúc nội tại và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành của nền
kinh tế có hướng đến mục tiêu đã xác định.
1.1.2. Khái niệm cơ cấu kinh tế nông thôn và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn
1.1.2.1. Cơ cấu kinh tế nông thôn
Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông
nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Nông thôn có thể xem xét trên nhiều góc độ: kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội… Kinh tế nông thôn là một khu vực của nền kinh tế gắn
liền với địa bàn nông thôn. Kinh tế nông thôn vừa mang những đặc trưng chung của
nền kinh tế về LLSX và QHSX, về cơ chế kinh tế… vừa có những đặc điểm riêng
gắn liền với nông nghiệp, nông thôn
Xét về mặt kinh tế - kỹ thuật; KTNT có thể bao gồm nhiều ngành kinh tế

như: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, dịch vụ … trong
đó nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu. Xét về mặt KT-
XH, KTNT cũng bao gồm nhiều thành phần kinh tế: KTNN, kinh tế tập thể, kinh tế
tư nhân … xét về mặt không gian và lãnh thổ, KTNT bao gồm các vùng như: vùng
chuyên canh lúa, vùng chuyên cánh cây màu, vùng trồng cây ăn quả …
Nói cách khác: KTNT là một phức hợp những nhân tố cấu thành LLSX và
QHSX trong các ngành nông - lâm - ngư nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp
chế biến phục vụ cho nông nghiệp, các ngành thương nghiệp và dịch vụ trên địa bàn
nông thôn. Tất cả các ngành đó đều có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong kinh tế
vùng, lãnh thổ và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ đó có thể hiểu: Cơ cấu kinh tế nông thôn là quan hệ tỷ lệ giữa các ngành,
5
các lĩnh vực kinh tế trên địa bàn nông thôn có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động
qua lại lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau phát triển trong điều kiện tự nhiên – kinh tế
- xã hội, trong một thời gian nhất định ở nông thôn. Cơ cấu kinh tế đó được thể hiện
cả về mặt số lượng và chất lượng. Cơ cấu KTNT có vai trò to lớn, ảnh hưởng chi
phối đến đời sống vật chất và tinh thần ở nông thôn.
Như vậy, giữa các bộ phận của CCKT nông thôn có mối quan hệ chặt chẽ
không tách rời theo những tỷ lệ về lượng cũng như về chất. Cơ cấu KTNT tồn tại
khách quan nhưng không bất biến, mà luôn biến đổi thích ứng với sự phát triển của
LLSX và phân công lao động xã hội trong từng thời kỳ. Việc xác lập CCKT nông
thôn chính là giải quyết mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố của LLSX và QHSX,
giữa tự nhiên với con người trong khu vực nông thôn theo thời gian và những điều
kiện KT-XH cụ thể.
1.1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói
riêng luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển do yêu cầu phát triển sự vận động
các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế không cố định. Đó là sự thay đổi số lượng các
ngành (nông, lâm, ngư nghiệp) hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành,
các vùng, các thành phần do sự xuất hiện hoặc biến mất của một số ngành và tốc

độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế là không đồng đều.
Có thể nói, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là sự thay đổi của cơ cấu
kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triển
mới. Đây không đơn thuần là sự thay đổi vị trí mà là sự biến đổi cả về lượng và chất
trong nội bộ cơ cấu. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn phải dựa trên cơ sở
yêu câu phát triển mới có tính đến cơ cấu hiện có, do đó nội dung của chuyển dịch
cơ cấu là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu kinh tế
mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu kinh tế cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ
cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực chất là
sự điều chỉnh cơ cấu trên 3 mặt biểu hiện của cơ cấu (ngành, vùng, thành phần)
nhằm hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế theo các mục tiêu kinh tế - xã hội
đã xác định cho từng thời kỳ phát triển.
Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn thể hiện ở việc đa dạng hoá sản
6
xuất, phát triển nông nghiệp toàn diện để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tăng lên của xã
hội và phát triển ngành nghề phi nông nghiệp nhằm rút bớt lao động ra khỏi nông
nghiệp và nông thôn, tăng năng suất lao động nông nghiệp và tăng thu nhập của hộ
nông dân.
Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn về thực chất là chuyển đổi của cả
nền kinh tế nông thôn và phụ thuộc vào việc chuyển đổi cơ cấu của cả nền kinh tế.
Vì vậy khi phân tích chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp không thể tách rời khỏi
cơ cấu kinh tế nông thôn. Theo nghiên cứu thống kê của nhiều nước trên thế giới,
giữa tăng trưởng của khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp có một tương quan
rất chặt chẽ: 1% tăng trưởng nông nghiệp tương ứng với 4% tăng trưởng phi nông
nghiệp. Bản chất của quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn là sự thay đổi
về chất của nền kinh tế để đảm bảo cho phát triển bền vững.
1.1.2.3. Nội dung của cơ cấu kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, nó tồn tại và
ngày càng phát triển gắn liền với những quan hệ kinh tế nhất định. Những quan hệ
kinh tế chứa đựng trong kinh tế nông thôn được gọi là cơ cấu kinh tế nông thôn. Xét

trên tổng thể cơ cấu kinh tế nông thôn bao gồm : Cơ cấu ngành, cơ cấu kinh tế lãnh
thổ, cơ cấu các thành phần kinh tế. Kinh tế nông thôn nói chung và từng loại cơ cấu
kinh tế nông thôn nói riêng là sản phẩm của phân công lao động xã hội bao gồm:
* Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành trong kinh tế nông thôn thể hiện các mối quan hệ tỷ lệ giữa các
ngành trong nông thôn: Nông nghiệp, công nghiệp nông thôn, tiểu thủ công nghiệp
và dịch vụ nông thôn. Trong từng ngành đó lại có các phân ngành. Cơ sở để phân
chia các ngành kinh tế nông thôn là các đặc điểm tự nhiên, kinh tế kỹ thuật. Một
ngành chỉ xuất hiện khi những cơ sở sản xuất kinh doanh của chúng thực hiện cùng
một chức năng trong hệ thống phân công lao động xã hội và độc lập tương đối với
các ngành khác. Việc xác lập những mối quan hệ hợp lý giữa các ngành nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn có ý nghĩa quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, góp phần tích cực vào việc thực
hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
- Nông nghiệp là ngành có vị trí trọng yếu trong nông thôn nước ta, sự phát
7
triển của nó giữ vai trò quyết định trong phát triển kinh tế nông thôn và là một
trong những yếu tố cơ bản của nền kinh tế cả nước. Nông nghiệp vừa chịu sự chi
phối chung của nền kinh tế quốc dân, vừa gắn bó chặt chẽ với các ngành khác trên
địa bàn nông thôn và phản ánh những nét riêng biệt mang tính đặc thù của một
ngành mà đối tượng sản xuất là những thực thể sống.
- Nông nghiệp theo nghĩa hẹp bao gồm trồng trọt và chăn nuôi, trong trồng
trọt được phân ra: trồng cây lương thực, cây công nghiệp, cây thực phẩm, cây ăn
quả, cây thức ăn gia súc, cây cảnh, cây dược liệu Ngành chăn nuôi gồm có chăn
nuôi gia súc, đại gia súc, gia cầm, nuôi ong, nuôi tằm những ngành trên đây có thể
được phân ra các ngành nhỏ hơn. Chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong
quá trình phát triển và tạo thành cơ cấu nông nghiệp. Hiện nay, trong cơ cấu nông
nghiệp có 2 vấn đề quan trọng là cơ cấu hợp lý giữa trồng trọt và chăn nuôi, giữa
trồng cây lương thực và cây công nghiệp, cây ăn quả, cây thực phẩm.
- Công nghiệp nông thôn (công nghiệp trên địa bàn nông thôn): là một bộ

phận công nghiệp của cả nước, đồng thời là một bộ phận cấu thành kinh tế lãnh thổ.
Sự phát triển của công nghiệp nông thôn là một đòi hỏi khách quan, một quá trình
có tính quy luật để phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Công nghiệp nông thôn gắn
bó chặt chẽ và tác động qua lại với nông nghiệp, cùng với các ngành khác trong
kinh tế nông thôn gắn bó với nhau trong quá trình phát triển và tạo thành một cơ cấu
kinh tế nông thôn thống nhất. Phát triển công nghiệp nông thôn có ý nghĩa về nhiều
mặt, góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phảt
triển bền vững và phát triển sản xuất hàng hoá, tạo thêm việc làm cho người lao động
và tăng thu nhập, sử dụng hợp lý và nâng cao hiệu quả của các nguồn lực ở nông thôn;
thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; phân bổ hợp lý lực lượng
lao động, thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa thành thị và nông thôn.
Công nghiệp nông thôn cũng rất đa dạng, gồm nhiều ngành nghề được phân
bổ ở các vùng nông thôn nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống trong khu vực
nông thôn, nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Công nghiệp chế biến nông,
lâm, thuỷ sản làm tăng giá trị thương phẩm của nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, đáp ứng
nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, nâng
8
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của nông, lâm nghiệp và thuỷ sản.
- Dịch vụ nông thôn (dịch vụ trên địa bàn nông thôn) xét theo quan điểm hệ
thống là một bộ phận của ngành dịch vụ của cả nước, đồng thời là một bộ phận cấu
thành kinh tế lãnh thổ nông thôn. Gắn liền với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn bền vững, dịch vụ nông thôn cũng
ngày càng phát triển với nhiều chủng loại phong phú cả trong dịch vụ sản xuất và
dịch vụ đời sống.
Như vậy, dịch vụ nông thôn phát triển là đòi hỏi khách quan của sản xuất và
nâng cao mức sống của dân cư nông thôn. Sự phát triển dịch vụ nông thôn làm cho
hoạt động kinh tế ở nông thôn ngày càng phong phú và đa dạng, thúc đẩy sự phát
triển các ngành kinh tế khác ở nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn đạt hiệu quả cao.
* Cơ cấu vùng kinh tế

Xét trên phạm vi lãnh thổ quốc gia nói chung và từng vùng lãnh thổ địa
phương nói riêng, đồng thời dựa trên cơ sở những điều kiện tự nhiên kinh tế - xã
hội, trong quá trình phát triển các vùng kinh tế sinh thái được hình thành và phát
triển. Cơ cấu kinh tế vùng vừa là bộ phận trong kinh tế nông thôn, vừa là nhân tố
hàng đầu để tăng trưởng và phát triển bền vững các ngành kinh tế nông thôn được
phân bổ ở vùng. Mục đích của việc xác lập cơ cấu kinh tế vùng một cách hợp lý là
bố trí các ngành sản xuất theo lãnh thổ vùng sao cho thích hợp và sử dụng có hiệu
quả tiềm năng, lợi thế của vùng.
* Cơ cấu thành phần kinh tế
Tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh ở nông thôn có nhiều thành
phần kinh tế: Quốc doanh, tập thể, tư nhân, cá thể, hộ gia đình. Các thành phần kinh
tế ở nông thôn ra đời và phát triển tuỳ thuộc vào đặc thù của mỗi ngành nhằm đáp
ứng yêu cầu của sản xuất và nâng cao đời sống dân cư nông thôn. Trên cơ sở yêu
cầu và khả năng phát triển sản xuất, mở rộng thị trường nông thôn các thành phần
hợp tác với nhau, kết hợp và đan xen với nhau một cách đa dạng với nhiều loại quy
mô, hình thức và trình độ khác nhau.
Đối với kinh tế hộ là đơn vị sản xuất cơ bản của nền nông nghiệp, là tế bào
9
của xã hội. Vì vậy, kinh tế hộ đóng vai trò quyết định trong việc sản xuất và mở
rộng thị trường nông thôn, còn đối với kinh tế hợp tác: phát triển kinh tế hợp tác
trong nông thôn là góp phần tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nông
thôn và xây dựng nông thôn mới.
Kinh tế hợp tác ở nông thôn ra đời và phát triển xuất phát từ kinh tế gia đình
và do chính yêu cầu phát triển kinh tế gia đình đòi hỏi, kinh tế hợp tác hoạt động ở
những khâu tách rời quá trình sinh học của nông nghiệp và phục vụ cho quá trình
sinh học của nông nghiệp mà ở những khâu đó mỗi gia đình không có khả năng
hoạt động hoặc hoạt động không có hiệu quả. Hoạt động hợp tác thể hiện các quan
hệ xã hội của sản xuất, nó được hình thành chủ yếu trong điều kiện sản xuất hàng
hoá. Vì vậy, quy luật của sản xuất hàng hoá và quy luật sinh học của sản xuất sẽ chi
phối mạnh mẽ quá trình hình thành và phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp,

nông thôn.
1.1.2.4. Những đặc điểm chung của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
Cơ cấu KTNT vừa mang tính khách quan vừa mang tính lịch sử - xã hội, do
vậy để chuyển dịch CCKT nông thôn đòi hỏi con người phải nhận thức và nắm bắt
được các quy luật vận động khách quan của chúng để tác động đúng, có như vậy
mới tạo ra CCKT hợp lý và hiệu quả. Chuyển dịch CCKT nông thôn là quá trình tác
động vào các bộ phận cấu thành của chúng, làm cho chúng chuyển hoá từ cơ cấu cũ
sang cơ cấu mới tiến bộ hơn. Quá trình đó đòi hỏi phải có thời gian và phải trải qua
những nấc thang của sự phát triển từ thấp đến cao. Đó cũng là quá trình thay đổi về
lượng để dẫn đến sự thay đổi về chất. Quá trình chuyển dịch CCKT nông thôn diễn
ra nhanh hay chậm còn phụ thuộc rất lớn vào yếu tố con người, đặc biệt là cơ chế,
chính sách và những giải pháp tác động. Vì vậy, cần phải nắm rõ những đặc điểm
chung của quá trình chuyển dịch CCKT nông thôn, mà bất kỳ nước nào từ nền kinh
tế tiểu nông lạc hậu chuyển sang nền kinh tế công nghiệp cũng phải trải qua để có
hướng tác động cho phù hợp.
- Một là: Lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế của Walt Rostow (còn gọi là lý
thuyết về các giai đoạn phát triển kinh tế).
Theo ông quá trình phát triển kinh tế của bất kỳ nước nào cũng đều phải trải
10
qua các giai đoạn tuần tự: Xã hội truyền thống, giai đoạn chuẩn bị cất cánh, giai
đoạn trưởng thành, giai đoạn mức tiêu dùng cao. Khi chuyển từ giai đoạn này sang
giai đoạn khác trong quá trình phát triển thì CCKT cũng có sự thay đổi nhất định,
đó chính là sự chuyển dịch CCKT. Quá trình phát triển của nền kinh tế luôn gắn với
sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Dưới sự tác động của khoa học, công nghệ mà
xã hội nông nghiệp truyền thống bắt đầu phát triển, nền kinh tế từng bước hiện đại
hóa và mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Cùng với sự phát triển của các
ngành kinh tế thì cơ cấu lao động cũng thay đổi theo chiều hướng tăng tỷ lệ lao
động có trình độ chuyên môn tay nghề cao và tỷ lệ dân cư đô thị.
- Hai là: Lý thuyết nhị nguyên của A.Lewis (hay còn gọi là mô hình kinh tế
hai khu vực của A.Lewis ).

Trong lý thuyết của mình, ông chia nền kinh tế thành hai khu vực kinh tế
song song tồn tại:
+ Khu vực truyền thống chủ yếu là sản xuất nông nghiệp.
+ Khu vực kinh tế công nghiệp hiện đại.
Trong hai khu vực, thì khu vực truyền thống có đặc điểm là trì trệ, năng suất
lao động thấp, còn khu vực công nghiệp có vốn, có công nghệ và có điều kiện để
tăng trưởng cao. Vì thế có thể chuyển một phần lao động từ khu vực nông nghiệp
sang khu vực công nghiệp hiện đại. Việc di chuyển lao động đã làm cho số lượng
lao động trong nông nghiệp ngày càng giảm, nhưng sản lượng không giảm và sau
đó người lao động trong nông nghiệp có điều kiện đầu tư nâng cao năng suất lao
động. Để tăng hiệu quả trong sự tác động qua lại giữa hai khu vực, cần kết hợp việc
giảm tốc độ tăng dân số và quan tâm thích đáng tới nông nghiệp trong quá trình
chuyển dịch CCKT.
- Ba là: Lý thuyết mô hình kinh tế hai khu vực của Harry.T.Oshima.
T.Oshima là một nhà kinh tế học Nhật bản, ông đã nghiên cứu mối quan hệ giữa hai
khu vực dựa trên những đặc điểm khác biệt của các nước Châu Á, Châu Mỹ. Qua
nghiên cứu ông thấy rằng: Nền nông nghiệp lúa nước có tính thời vụ cao, vào thời
gian cao điểm của mùa vụ vẫn có hiện tượng thiếu lao động, nhưng lại dư thừa
trong lúc nhàn rỗi.
Từ đó T.Oshima cho rằng: Sự phát triển của nền kinh tế bắt đầu bằng việc
11
giữ lao động trong nông nghiệp nhưng cần tạo thêm nhiều việc làm trong những
tháng nhàn rỗi. Tiếp đó là sẽ sử dụng lao động nhàn rỗi vào các ngành sản xuất
công nghiệp cần nhiều lao động, khi tạo ra việc làm trong những tháng nhàn rỗi sẽ
tăng thu nhập cho người nông dân, mở rộng thị trường trong nước cho các ngành
công nghiệp và dịch vụ. Khi thị trường lao động không còn dồi dào thì sản xuất
nông nghiệp sẽ chuyển dần sang cơ giới hoá để tăng năng suất lao động.
Như vậy, các lý thuyết phát triển kinh tế trên đều có điểm chung là đều
khẳng định sự phát triển kinh tế cần phải thông qua quá trình chuyển dịch CCKT
ngành. Sự chuyển dịch CCKT ngành bao giờ cũng bắt đầu từ khu vực sản xuất

truyền thống của xã hội là sản xuất nông nghiệp, theo quy luật tỷ trọng của sản xuất
nông nghiệp trong cơ cấu GDP giảm dần (mặc dù số tuyệt đối vẫn tăng lên), còn tỷ
trọng của ngành công nghiệp, thương mại - dịch vụ sẽ tăng dần (cả số tuyệt đối lẫn
tương đối đều tăng). Cơ cấu lao động cũng sẽ thay đổi phù hợp với xu hướng trên là
tỷ trọng lao động trong nông nghiệp giảm dần cả về số tương đối lẫn tuyệt đối, tỷ
trọng lao động trong các ngành công nghiệp và thương mại- dịch vụ tăng lên cả về
số tương đối lẫn tuyệt đối.
Do vậy, chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng đối
với việc chuyển dịch phát triển CCKT nông thôn nói riêng và cơ cấu kinh tế quốc dân
nói chung. Nó là xuất phát điểm của quá trình chuyển dịch CCKT của mỗi quốc gia.
Quá trình chuyển dịch CCKT nông thôn có những đặc điểm chung như sau:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn bắt đầu từ sự chuyển dịch của cơ
cấu sản xuất nông nghiệp
Xét toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quá trình phát triển của ngành nông nghiệp
đã dẫn đến chuyển dịch cơ cầu sản xuất nông nghiệp và thúc đẩy sự ra đời và phát
triển các ngành khác, đồng thời đây cũng là quá trình hội nhập của ngành nông
nghiệp vào toàn bộ nền kinh tế thông qua các quan hệ thị trường.
Nội dung cơ bản của chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp là quá trình
chuyển đổi nền nông nghiệp từ tự túc, tự cấp sang nền sản xuất hàng hóa, tức sang
sản xuất chuyên canh gắn với nhu cầu của thị trường. Quá trình này được chia thành
12
ba giai đoạn sau:
+ Giai đoạn một: Đó là nông nghiệp sinh tồn, quy mô nhỏ của nông dân
chiếm ưu thế. Cơ cấu nông nghiệp có tính thuần nông với mục tiêu sản xuất tự
cung, tự cấp mà chủ yếu là sản xuất lương thực.
+ Giai đoạn hai: Đặc trưng của giai đoạn này là quá trình đa dạng hoá sản
xuất nông nghiệp, nghĩa là ngoài sản xuất lương thực còn phát triển các cây trồng
khác và chăn nuôi. Một yếu tố quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
là việc áp dụng công nghệ mới của nông dân đã xuất hiện.
+ Giai đoạn ba: Đặc trưng chủ yếu của nền nông nghiệp trong giai đoạn này

là nền nông nghiệp thương mại, chuyên môn hoá với quy mô sản xuất lớn, với các
trang trại chuyên môn hoá cao.
Như vậy, quá trình chuyển dịch CCKT nông thôn gắn liền với sự chuyển
dịch của cơ cấu sản xuất nông nghiệp, mà điểm bắt đầu là từ sự chuyển dịch của cơ
cấu sản xuất nông nghiệp với ba giai đoạn như trên. Ba giai đoạn trên gắn liền với
sự phát triển của ngành công nghiệp và quá trình CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân.
- Quá trình phát triển của sản xuất nông nghiệp thúc đẩy sự ra đời và phát
triển của các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn
Quá trình chuyển dịch CCKT nông thôn diễn ra theo quy luật là tỷ trọng của
ngành nông nghiệp giảm xuống và tỷ trọng của các ngành phi nông nghiệp tăng lên
trong cơ cấu. Chính sự phát triển ngày càng đa dạng hoá trong sản xuất nông nghiệp
là cơ sở thúc đẩy chuyển dịch CCKT nông thôn. Khi năng suất lao động trong
ngành nông nghiệp tăng lên, ngoài hoạt động trồng trọt và chăn nuôi, con người đã
tìm kiếm và làm thêm nhiều công việc khác như phát triển nghề thủ công và đến
một trình độ nhất định đã tách thành một ngành sản xuất độc lập. Quá trình phát
triển của nông nghiệp và công nghiệp, đòi hỏi phải có sự trao đổi lẫn nhau, do đó có
một bộ phận dân cư tách khỏi sản xuất chuyển sang lĩnh vực lưu thông trao đổi
hàng hoá và hình thành ngành thương mại - dịch vụ ở nông thôn.
Như vậy, quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp đã thúc đẩy sự ra đời và
phát triển của các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn. Đó cũng chính là quá trình
chuyển dịch CCKT nông thôn, đồng thời cũng là quá trình CNH, HĐH nông thôn.
13
“Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là quá trình chuyển dịch CCKT nông
thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công
nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp …” .
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng: sự phát triển của nông nghiệp chỉ là tiền đề,
điều kiện ban đầu cho sự phát triển các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn mà thôi,
bởi sự phát triển của các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn còn phụ thuộc và chịu
sự chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau như: tính đặc thù của từng địa phương, từng
quốc gia hay điều kiện tự nhiên, KT-XH khác chi phối. Do vậy chuyển dịch CCKT

nông thôn theo hướng tiến bộ hơn, đòi hỏi phải có nhân tố chủ quan của con người
tác động vào các nhân tố khách quan đó (cải biến điều kiện tự nhiên, KT-XH).
Phát triển các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn đã góp phần quan trọng
cho sự phát triển KTNT, tăng thu nhập, tạo việc làm cho lao động nông thôn. Điều
này càng có ý nghĩa hơn với điều kiện của Việt Nam khi bình quân đất nông nghiệp
thấp, lao động nông thôn dư thừa nhiều, công nghiệp đô thị chưa phát triển…Thực
tế cho thấy: Việc phát triển các ngành nghề ở nông thôn như là một giải pháp hữu
hiệu, ngăn chặn làn sóng di cư lao động từ nông thôn ra thành thị. Song vấn đề cơ
bản là cần phải xem xét kỹ khi lựa chọn phương án phát triển các ngành phi nông
nghiệp ở nông thôn, trong đó có CNNT phải hết sức thận trọng, nhằm đảm bảo phát
triển hài hoà giữa ba yếu tố: kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái, đó cũng chính
là sự phát triển bền vững mà mỗi quốc gia đang hướng tới.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn gắn liền với việc thay đổi tổ chức
sản xuất ở nông thôn, thay đổi mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế trong sản xuất
kinh doanh ở nông thôn, đặc biệt là mối quan hệ giữa hộ nông dân với các chủ thể
khác ở nông thôn
Về tổ chức sản xuất ở nông thôn phải theo hướng ngành chuyên sâu. Chẳng
hạn, trong sản xuất nông nghiệp, sau khi tách thành trồng trọt và chăn nuôi thì
hướng hoàn thiện của ngành sản xuất nông nghiệp là ngành trồng trọt giảm dần tỷ
trọng trong cơ cấu, còn ngành chăn nuôi tăng dần tỷ trọng, nhưng theo quy luật thì
số tuyệt đối của ngành trồng trọt lẫn ngành chăn nuôi đều phải tăng. Sự phát triển
tiếp theo là việc thay đổi cơ cấu cụ thể trong từng ngành. Trong ngành nông nghiệp
14
ngoài trồng cây lương thực, thực phẩm sẽ xuất hiện thêm những cây trồng phù hợp
với điều kiện từng vùng để đáp ứng nhu cầu của thị trường như cây công nghiệp,
cây ăn quả, cây dược liệu… hoặc sản phẩm mà thị trường không có nhu cầu thì có
thể sẽ không tồn tại trong cơ cấu sản xuất. Ngành chăn nuôi cũng sẽ thay đổi theo
hướng đó. Nói khác hơn, sự thay đổi tổ chức sản xuất ở nông thôn theo hướng sản
xuất gắn với thị trường.
Mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế trong sản xuất ở nông thôn được mở

rộng hơn, không còn bó hẹp ở địa bàn thôn, xóm mà đặt trong quan hệ kinh tế cả
với nước và thế giới, giao lưu học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong quá trình phát
triển, đặc biệt là sự phối hợp, sự hợp tác của bốn nhà: Nhà nước, nhà nông, nhà
khoa học và nhà doanh nghiệp, làm cho sản xuất có hiệu quả hơn.
1.1.2.5. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
Cùng với quá trình hình thành và phát triển phong phú, đa dạng của các
ngành kinh tế hàng hoá trong nông thôn, cơ cấu kinh tế giữa các ngành đó cũng
ngày càng phức tạp và luôn biến đổi theo yêu cầu của xã hội, theo đà phát triển của
thị trường, phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn và khả năng tăng lên
của con người trong việc chinh phục và sử dụng các tài nguyên, nguồn lực. Quá
trình đó thể hiện bước chuyển từ chỗ khai thác sử dụng các tài nguyên và nguồn lực
một cách thực dụng vì mục đích trước mắt sang sử dụng hợp lý, khoa học hơn, gắn
hiệu quả trước mắt với lợi ích lâu dài; gắn lợi ích kinh tế với vấn đề xã hội và bảo
vệ môi trường sinh thái.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng và cơ cấu kinh tế
nông thôn nói chung như trên là một đòi hỏi khách quan, là một quá trình có tính
quy luật để phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Xu hướng biến đổi có tính quy luật
đó là: Từ một nền nông nghiệp độc canh, thuần nông mang tính tự cung, tự cấp sang
phát triển đa dạng, bền vững về sinh thái và phát triển sản xuất hàng hoá. Từ một
nền nông nghiệp mất cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi đến chỗ xây dựng một cơ
cấu hợp lý giữa hai ngành. Từ một nền nông nghiệp theo nghĩa hẹp sang phát triển
nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp, các ngành đó trở thành những ngành sản
xuất hàng hoá ở nông thôn. Từ thuần nông sang phát triển kinh tế nông thôn tổng
15
hợp nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp và nông thôn tác động mạnh mẽ đến cơ cấu kinh tế nông thôn, làm
thay đổi cơ cấu giữa nông nghiệp và công nghiệp. Ngành dịch vụ dần được mở
rộng, đáp ứng yêu cầu của sản xuất và đời sống ở nông thôn. Theo đà phát triển của
xã hội, tỷ trọng công nghiệp nông thôn và dịch vụ nông thôn không ngừng lớn
mạnh lên, còn tỷ trọng nông nghiệp thì giảm đi tương ứng.

1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển bền vững
1.1.3.1. Phát triển bền vững
Phát triển bền vững là một khái niệm mới, khái niệm này hiện đang là mục
tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù
kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa… riêng để hoạch định chiến lược phù hợp với
quốc gia đó. Thuật ngữ “phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980
trong tác phẩm Chiến lượng bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn thiên
nhiên quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: “Sự phát triển của nhân loại
không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu
tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học”.
Từ đó tới nay, đã có nhiều định nghĩa và khái niệm về phát triển bền vững
được nêu ra tại các hội nghị và hội thảo quốc tế. Tuy nhiên, định nghĩa do Ủy ban
thế giới về môi trường và phát triển đưa ra trong báo cáo “Tương lai của chúng ta”
(1987) dường như nhận được sự tán đồng của đa số quốc gia và nhiều nhà nghiên cứu
về phát triển bền vững: “Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu
hiện tại song không xâm hại tới khả năng thỏa mãn của các thế hệ tương lai”.
Nội hàm của định nghĩa trên rất rộng vì gắn với nhu cầu ngày càng cao của
con người, của sự kế tiếp các thế hệ. Song, có thể thấy một logic là: cứ những vấn
đề nào quyết định hoặc liên quan đến sự sống, sự tồn tại và phát triển của con người
hẳn sẽ trực tiếp, hoặc gián tiếp với phát triển bền vững. Vào thời điểm đó, người ta
chỉ nhận thấy ba yếu tố: kinh tế, xã hội và môi trường; còn một thành tố vô cùng
quan trọng được tiếp tục nhận thức trong cả quá trình tiếp theo đó là văn hóa.
Cách tiếp cận trên thể hiện trong các nội dung cụ thể như sau:
- Cách tiếp cận về kinh tế: Dựa vào luận điểm tối đa hóa thu nhập với chi phí
16
tối thiểu của Hick – Lindahl. Bao gồm chi phí nguồn tài sản, tư bản, lao động [21].
Ngoài ra, người ta còn dùng cách tiếp cận sử dụng tối ưu và có hiệu quả những
nguồn lực khan hiếm. Tuy nhiên, có một số vấn đề nảy sinh khi sử dụng cách tiếp
cận này. Chẳng hạn, dùng phương pháp gì xác định những loại tài sản không được
đánh giá trên thị trường như: tài nguyên, hệ sinh thái… Mặc dù vậy, luận điểm này

được áp dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển. Mục tiêu hàng đầu của các nước này
là làm sao để giải được bài toán tăng trưởng và ổn định kinh tế với hiệu quả cao.
- Cách tiếp cận xã hội: Với các tiếp cận này, con người được coi là trung tâm
trong những quyết định về chính sách phát triển. Bên cạnh mục tiêp phát triển kinh
tế còn có quan điểm phát triển mang tính xã hội, nhằm đảm bảo duy trì sự ổn định
xã hội; giảm bớt những tác động tiêu cực về xã hội của sự phát triển kinh tế; đảm
bảo tính công bằng xã hội với mục tiêu giảm tỷ lệ dân số phải sống trong nghèo đói.
Đây là một mục tiêu phát triển cơ bản của nhiều nước.
- Cách tiếp cận môi trường: Được phổ biến rộng rãi từ đầu những năm 1980,
tập trung vào các vấn đề môi trường đang đang ngày càng trở nên nóng bỏng trên
thế giới. Quan điểm này lưu ý tới sự ổn định của hệ sinh thái và của môi trường sinh
thái. Đó cũng chính là những đối tượng đang chịu tác động mạnh của các hoạt động
kinh tế tại tất cả các nước phát triển và đang phát triển.
- Cách tiếp cận về văn hóa: Càng ngày người ta càng ý thức được rằng, nếu
một đất nước tăng trưởng nhanh, giàu có, nhưng tệ nạn xã hội vẫn tràn lan, môi
trường vẫn bị hủy hoại một cách chủ ý hoặc vô ý thì không thể đảm bảo sự phát
triển bền vững. Không phải chỉ do trình độ văn hóa thấp, mà gần đây được cho là
“sự sung đột của các nền văn hóa”. Như vậy, quốc gia đó không thể gọi là một nước
phát triển, chứ chưa nói là PTBV. Cuối cùng vấn đề văn hóa lâu nay thường không
được đề cập nhiều, nay đã dần được nhìn nhận một cách khách quan, được đánh giá
đúng với vị trí của nó.
Trong bốn vấn đề trên thì kinh tế là nội dung quan trọng nhất, nó tác động
lan tỏa đến cả ba nội dung còn lại. Chất lượng tăng trưởng kinh tế có yếu tố quyết
định đến phát triển bền vững của một quốc gia. Trong đó tăng trưởng bền vững hay
phát triển kinh tế bền vững ngày nay trở thành một thuật ngữ quen thuộc ở nước ta
cũng như các nước trên thế giới, thậm chí còn trở thành một quan điểm chủ đạo
17
trong hoạch định chiến lược và chính sách phát triển của nhiều quốc gia.
1.1.3.2. Nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển
bền vững

* Từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nôn thôn lạc hậu sang cơ cấu kinh
tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đây là nội dung cơ bản nhất của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, có ý
nghĩa chiến lược trước mắt cũng như lâu dài. Trước mắt nhằm khai thác, sử dụng có
hiệu quả về lực lượng sản xuất, tiềm năng lớn trong nông thôn, tạo điều kiện cho
nông dân làm giàu và thay đổi bộ mặt nông thôn theo hướng tích cực, đồng thời còn
là chìa khóa mở ra con đường phát triển nông thôn trong thời kỳ mới.
Kinh nghiệm về công nghiệp hóa nông thôn của nhiều nước trên thế giới cho
thấy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH là bước đi quan trọng,
trong đó gắn phương thức truyền thống với phương pháp hiện đại, ứng dụng công
nghệ mới, đặc biệt là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin để phát triển sản
xuất, đẩy mạnh phát triển công nghiệp nông thôn, đặc biệt là công nghiệp chế biến
nông sản với công nghệ thích hợp, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Coi trọng
công nghệ chế biến là mắt xích quan trọng nối liền sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, tạo
điều kiện để người lao động gắn với trong nước và ngoài nước. Nhờ phát triển công
nghệ chế biến, đưa sản phẩm tươi sống hoặc ở dạng thô, thành những sản phẩm hàng
hóa dưới dạng sơ chế, tinh chế đem lại giá trị kinh tế cao cho người lao động.
Xuất phát từ đặc điểm của nền kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH – HĐH đất nước, chuyển dịch cơ cầu kinh tế, cơ cầu lao động, đẩy
mạnh CNH – HĐH nông thôn là con đường cơ bản để tiến hành phân công lại lao
động, xã hội hóa nền sản xuất, phát triển kinh tế hàng hóa, tạo ra nhiều việc làm,
nâng cao thu nhập, ổn định và cải thiện đời sống của nhân dân. Qua đó tác động tích
cực đến phát triển công nghiệp, dịch vụ của nền kinh tế quốc dân “ly nông nhưng
bất ly hương”, tích cực tham gia các hoạt động kinh tế nông thôn.
* Thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa trong các
ngành sản xuất nông nghiệp.
Để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện phải gắn với điều kiện bảo đảm
cho sản xuất nông nghiệp như: thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa và sinh học
18
hóa, góp phần đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ, hạn chế thiên tai ảnh hưởng đến sản

xuất, không ngừng nâng cao năng xuất và hiệu quả của sản xuất nông nghiệp. Tuy
nhiên, đây là một quá trình lâu dài, trước hết phải thực hiện điện khí hóa, cơ giới hóa
những khâu thích hợp và phù hợp với vùng sinh thái trong các khu vực nông thôn.
Thực hiện cơ giới hóa, điện khí hóa là điều kiện quan trọng cho sự thành
công của CNH kinh tế nông thôn, song phải phù hợp với trình độ kỹ thuật và kỹ
năng của người lao động, với đặc điểm ruộng đồng và cơ sở hạ tầng ở nông thôn, có
như vậy mới phát huy được hiệu quả của thiết bị máy móc, đưa năng xuất lao động
lên cao.
Nước ta, đất chật người đông, do đó quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
cần đẩy mạnh cơ giới hóa, điện khí hóa, trước hết tập trung vào khâu làm đất, chăm
sóc, thu hoạch đảm bảo tính thời vụ và đặc thù của sản xuất nông nghiệp. Khác với
nhiều nước có nền kinh tế phát triển, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa để giải
phóng bớt sức lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và các ngành kinh tế
khác. Điện khí khóa, cơ khí hóa trong nông nghiệp ở nước ta phải nhằm tạo ra nhiều
ngành nghề mới như: Cơ khí chế tạo công cụ sản xuất, chế biến nông sản, các
ngành nghề thủ công… để thu hút lao động dư thừa ở nông thôn và tăng thu nhập
cho người lao động, thông qua đó để chuyển bớt lao động trong nông nghiệp các
hoạt động phi nông nghiệp ngay trên địa bàn nông thôn. Đây là cách tổ chức sản
xuất mang tính đặc thù của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng CNH – HĐH ở nước ta, phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội trong giai
đoạn hiện nay. Đẩy mạnh ứng dụng các biện pháp sinh học nhằm tạo ra nhiều cây
trồng, vật nuôi có chủng loại tốt, năng xuất cao, thích ứng với điều kiện thời tiết, khí
hậu và đất đai canh tác.
* Đầy mạnh công nghiệp chế biến, nông lâm, thủy sản.
Công nghiệp chế biến giữ vai trò quan trọng trong công nghiệp nông thôn,
nhằm nâng cao giá trị của nông sản hàng hóa nhất là đối với các sản phẩm có số
lượng lớn, tiêu dùng rộng rãi trên thị trường như gạo, thịt lợn, hải sản… Do vậy,
cần xây dựng, phát triển công nghiệp chế biến với nhiều loại quy mô và công nghệ
thích hợp, kết hợp giữa khoa học truyền thống với công nghệ hiện đại ở các vùng
nông thôn, thị trân, thị tứ liên kết với công nghiệp ở đô thị và công nghiệp tập trung,

19
với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, đảm bảo chế biến phần lớn nông, lâm,
thủy sản đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và không ngừng tăng lên giá trị
xuất khẩu nông sản hàng hóa.
* Đầy mạnh phát triển các làng nghề và các ngành nghề mới trong nông thôn.
Các ngành nghề, làng nghề là một hoạt động của kinh tế của nông dân, được
hình thành và phát triển lâu dài trong nông thôn Việt Nam, có vai trò qua trọng đối
với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội. Điều quan trọng là phát triển các ngành
nghề, làng nghề ở nông thôn không đòi hỏi phải đầu tư nhiều vốn, sử dụng được lực
lượng lao động tại chỗ và với nguồn nguyên liệu dồi dào, phù hợp với khả năng ở
nông thôn và nông dân nước ta.
Hoạt động kinh tế của các ngành nghề, làng nghề truyền thống và ra đời của
các ngành nghề mới hiện nay có tác dụng tích cực đối với chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, làm thay đổi bộ mặt
nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại.
Yêu cầu đối với phát triển làng nghề, ngành nghề là gắn với sản xuất nông
nghiệp, tạo ra sự phát triển ổn định, bền vững. Song phải tùy thuộc vào đặc điểm,
điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng của từng địa phương để sản xuất, vừa đạt được
mục tiêu kinh tế - xã hội, vừa bảo đảm về môi trường sinh thái, giữ gìn văn hóa
truyền thống của địa phương. Đó là nguồn lực, điều kiện quan trọng để phát triển
kinh tế nông thôn bền vững.
* Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, từng bước hình thành nông thôn
mới văn minh, hiện đại.
Cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm hệ thống đường giao thông, mạng lưới
điện phục vụ cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ và sinh hoạt cho dân cư, trường học,
trạm y tế, hệ thống thông tin liên lạc, thủy lợi, hệ thống cung cấp nước sạch và các
cơ sở công nghệ, dịch vụ kinh tế - xã hội khác.
Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở đây là quá trình tạo ra tiền đề vật
chất, kỹ thuật phục vụ cho phát triển kinh tế nông thôn, góp phần nâng tầm quản lý
xã hội lên một trình độ mới. Đồng thời làm chuyển biến căn bản bộ mặt nông thôn,

đưa nông thôn bắt kịp với sự năng động của nền kinh tế thị trường định hướng xã
20
hội chủ nghĩa.
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn liền với việc giải quyết các vấn đề xã
hội cơ bản, đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn lực và bảo vệ môi trường sinh
thái: như tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội.
Tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo không chỉ là vấn đề xã hội gắn với
an sinh xã hội mà còn là vấn đề kinh tế cơ bản gắn với sử dụng nguồn lực. Hơn nữa,
nếu phát triển kinh tế nhưng không bảo đảm được công bằng và tiến bộ xã hội thì
không thể bền vững được.
Phát triển kinh tế cần gắn với việc sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn
lực. Điều này có nghĩa là, việc phát triển và tăng trưởng kinh tế không dựa chủ yếu
vào khai thác tài nguyên, xuất khẩu nguyên liệu và sản phẩm sơ chế, mà cần gắn
với quá trình giảm tiêu hao nguyên, nhiên liệu, giảm chi phí trung gian, tăng tỷ
trọng các yêu tố phi vật chất trong giá thành sản phẩm, tăng giá trị trong sản phẩm…
Ngoài ra, phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường sinh thái theo hướng: bảo vệ
rừng và trồng rừng, bảo vệ tài nguyên nước, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, đổi mới công
nghệ sản xuất theo hướng sản xuất phải thân thiện với môi trường, kiểm soát ô nhiễm.
1.1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng phát triển bền vững
Quá trình hình thành và phát triển của CCKT nông thôn chịu sự tác động chi
phối của nhiều nhân tố khác nhau, điều kiện tự nhiên và KT-XH có vai trò vào tác
động to lớn đến việc hình thành và phát triển của CCKT nông thôn. Do vậy, việc
nghiên cứu vai trò và tác động của từng nhân tố có ý nghĩa rất quan trọng, nhầm
phát triển huy những nhân tố tích cực và hạn chế những nhân tố kìm hãm để đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch CCKT nông thôn nước ta theo hướng tiến bộ hơn.
- Một là: những nhân tố về điều kiện tự nhiên:
Nhân tố tự nhiên (điều kiện tự nhiên) bao gồm: vị trí địa lý, khí hậu, thời tiết,
hệ sinh thái, nước, đất đai, rừng, biển, tài nguyên khoáng sản khác… có ảnh hưởng
đến sự hình thành vận động và biến đổi của CCKT nông thôn. Sự tác động và ảnh

hưởng của các nhân tố tự nhiên tới nội dung của CCKT nông thôn không giống
nhau. Trong các nội dung của CCKT nông thôn, thì cơ cấu các ngành và cơ cấu
21
vùng chịu ảnh hưởng nhiều bởi nhân tố tự nhiên, còn cơ cấu thành phần kinh tế
thường chịu ít hơn. Các nhân tố đất đai, thời tiết, khí hậu, vị trí địa lý có ảnh hưởng
trực tiếp đến sự phát triển của nông nghiệp. Bởi vì nông - lâm - thuỷ sản là ngành
sản xuất mà đối tượng của nó là thế giới sinh vật, qua đó sẽ ảnh hưởng tới sự phát
triển triển của các ngành khác trong CCKT nông thôn.
Mỗi quốc gia, mỗi vùng có vị trí địa lý khác nhau, do đó điều kiện tự nhiên
cũng khác nhau, từ đó dẫn đến sự khác nhau từ quy mô, số lượng các ngành kinh tế
trong nông thôn, đặc biệt là ngành nông nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của các
điều kiện tự nhiên. Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên giữa các vùng, làm cho quy
mô, số lượng của các ngành giữa các vùng cũng khác nhau và chính sự khác nhau
về quy mô, số lượng của các ngành sẽ dẫn đến sự khác nhau về cơ cấu ngành giữa
các vùng.
Do vị trí địa lý khác nhau, làm cho điều kiện tự nhiên cũng khác nhau. Mỗi
một vùng có những điều kiện tự nhiên thuận lợi riêng, cho phép phát triển một số
ngành sản xuất, tạo ra những lợi thế so với các vùng khác của đất nước. Đây là cơ
sở tự nhiên để hình thành các vùng kinh tế nói chung và KTNT nói riêng. Các loại
vùng này được hình thành do phân công lao động xã hội theo lãnh thổ, thông qua bố
trí các ngành sản xuất trên các vùng lãnh thổ hợp lý để khai thác các tìm năng và lợi
thế riêng của từng vùng.
Xu hướng phát triển vùng KTNT hiện nay là đi sâu vào chuyên môn hoá, tập
trung sản xuất nông - lâm - thủy sản để từng bước hình thành các vùng trọng điểm
SXHH nông - lâm - thủy sản quy mô lớn có hiệu quả kinh tế cao, từ đó tạo điều
kiện cho sự phát triển công nghiệp và dịch vụ trên từng địa bàn theo hướng chuyên
môn hoá cao.
Ngoài ra các điều kiện tự nhiên còn ảnh hưởng và tác động tới cơ cấu các
thành phần kinh tế ở nông thôn. Vị trí địa lý thuận lợi và các tài nguyên thiên nhiên
phong phú của mỗi vùng là điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát

triển. Nhưng tốc độ phát triển của mỗi thành phần kinh tế ở nông thôn nhanh hay
chậm còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác nữa
Tóm lại: CCKT nông thôn, nhất là cơ cấu sản xuất nông nghiệp chịu sự ảnh
22

×