Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

ĐIỀU CHỈNH SỐ LIỆU KẾ TOÁN NHẰM TRÁNH BÁO CÁO LỖ VÀ TRÁNH SỰ SỤT GIẢM CỦA LỢI NHUẬN BÁO CÁO- BẰNG CHỨNG TỪ CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.4 KB, 10 trang )

QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP

Điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ
và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận báo cáo- bằng
chứng từ các ngân hàng thương mại Việt Nam

Đào Nam Giang Ngày nhận bản sửa: 12/06/2018 Ngày duyệt đăng: 18/06/2018
Ngày nhận: 01/06/2018

Bài viết sử dụng phương pháp phân tích phân phối của các biến phản
ánh lợi nhuận để đưa ra bằng chứng về việc các ngân hàng thương
mại (NHTM) Việt Nam đã điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo
cáo lỗ. Các phân tích tương tự đối với biến phản ánh sự tăng/giảm
của lợi nhuận không cho thấy bằng chứng về việc các NHTM trong
mẫu nghiên cứu tìm cách báo cáo mức lợi nhuận tăng dần. Thay
vào đó, số liệu thực tế cho thấy những dấu hiệu của việc các NHTM
mong muốn báo cáo một mức lợi nhuận ổn định (có thể tăng hoặc
giảm nhưng ở mức nhỏ). Nguyên nhân của tình trạng này có thể là do
những yếu kém trong hệ thống quản trị công ty, và các vấn đề trong
mơi trường kinh doanh.
Từ khóa: thao túng lợi nhuận kế toán; phân phối của lợi nhuận;
tránh báo cáo lỗ; thao túng số liệu để đạt được các mục tiêu đề ra.

1. Tổng quan nghiên cứu về điều chỉnh số do Burgstahler and Dichev (1997) đưa ra. Theo
liệu kế toán để tránh báo lỗ và tránh sự sụt đó, nếu số liệu báo cáo bị bóp méo để tránh báo
giảm của lợi nhuận có lỗ, khi xem xét phân phối của lợi nhuận ta
có thể thấy một mức độ tập trung bất thường
ai mục tiêu chủ yếu mà các của các khoản lãi nhỏ. Đánh giá rõ hơn, một
nhà quản trị muốn điều chỉnh số nhà nghiên cứu có thể so sánh giữa tần suất
số liệu để đạt tới là tránh báo các khoản lãi nhỏ với tần suất của các khoản lỗ
cáo lỗ và tránh báo cáo mức lợi nhỏ (ví dụ Jeanjean and Stolowy, 2008; Leuz,


nhuận sụt giảm. Để nghiên cứu Nanda, and Wysocki, 2003).
hành vi này, các nhà nghiên cứu chủ yếu sử Ngoài việc tránh báo cáo lỗ, các nhà quản trị
dụng phương pháp xem xét phân phối của lợi cũng có mong muốn báo cáo mức lợi nhuận
nhuận hoặc phân phối của mức thay đổi của lợi tăng dần, tức là tránh việc báo cáo mức lợi
nhuận (earnings distribution approach- EDA) nhuận thấp hơn so với năm trước, tức chênh

© Học viện Ngân hàng 37 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Số 193- Tháng 6. 2018

QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP

Bảng 1. Tiêu chuẩn xác định mức lợi nhuận nhỏ của các ngân hàng thương mại

Nghiên cứu Tiêu chuẩn Mẫu nghiên Các kết quả nghiên cứu chính có liên quan
xác định mức cứu
lợi nhuận nhỏ

Bornemann, Tỷ lệ lợi nhuận Các NHTM Bằng chứng thực nghiệm cho thấy các NHTM Đức đã sử
Kick, sau thuế trên Đức trong dụng các khoản dự trữ ngầm được phép để tránh báo cáo
Memmel, & tổng tài sản giai đoạn từ lỗ, tránh báo cáo mức lợi nhuận sụt giảm so với năm trước
Pfingsten nhỏ hơn 0,02% 1997 đến hoặc thấp hơn so với các ngân hàng cùng nhóm.
(2012) 2009
Shen và Lợi nhuận trên Các NHTM Tại 2/3 số nước khảo sát phân phối của ROE có dạng nửa
Chih (2005) vốn chủ sở từ 49 quốc hình chng điển hình cho sự thao túng số liệu nhằm tránh
hữu (ROE) nhỏ gia trong giai báo cáo lỗ. Tại các nước còn lại số quan sát có tỷ lệ ROE
Hamdi và hơn 1% đoạn từ 1993 dưới 0 cũng thấp hơn rất nhiều so với kỳ vọng.
Zarai (2012) đến 1999 Ngoài ra, các thước đo thống kê khác trong nghiên cứu
Tỷ lệ lợi nhuận này cũng cho thấy sự phổ biến của việc thao túng số liệu
Maia et al. trên tổng tài 125 Ngân nhằm tránh báo cáo lỗ hoặc sự giảm sút của lợi nhuận báo

(2013) sản đầu kỳ nhỏ hàng Hồi cáo ở các NHTM trong mẫu nghiên cứu. Tuy nhiên mức
hơn 0,25% giáo trong độ thao túng số liệu có sự khác nhau giữa các quốc gia,
Biurrun giai đoạn phụ thuộc vào mức độ bảo vệ nhà đầu tư và sự giám sát
và Rudolf Tỷ lệ lợi nhuận 2000- 2009 từ khu vực tư.
(2010) trên tổng khối Số liệu báo
lượng giao cáo bán niên Các bằng chứng thực nghiệm cho thấy các NHTM Hồi
dịch cho vay của 405 Quỹ giáo trong mẫu nghiên cứu có xu hướng thao túng số
nhỏ hơn 0,1% tín dụng tại liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ nhưng khơng có bằng
Brazil trong chứng về việc thao túng số liệu để báo cáo mức lợi nhuận
Lợi nhuận sau giai đoạn tăng dần.
thuế chia cho 2001- 2011
tổng tài sản 21985 ngân Nghiên cứu này khảo sát mức độ thao túng số liệu kế toán
đầu kỳ nhỏ hàng từ 47 của các Qũy tín dụng tại Brazil ở 3 khía cạnh: thao túng số
hơn 0,1254 * nước khác liệu để đạt yêu cầu về hệ số an toàn vốn; thao túng số liệu
độ lệch chuẩn nhau, từ để ổn định lợi nhuận báo cáo và tránh báo cáo lỗ.
của phân phối 1990 đến Các phân tích sơ đồ histogram của lợi nhuận báo cáo
2006 cũng cho thấy bằng chứng về việc thao túng số liệu để
tránh báo cáo lỗ.

Xem xét thao túng lợi nhuận ở 3 khía cạnh: ổn định lợi
nhuận báo cáo; tránh báo cáo lỗ; và báo cáo lợi nhuận
cao. Đồng thời xem xét mối quan hệ giữa thao túng lợi
nhuận và mức độ quản lý cũng như sự giám sát từ khu
vực công và khu vực tư trong nền kinh tế.
Các bằng chứng thực nghiệm cũng khẳng định sự phổ
biến của việc thao túng số liệu nhằm tránh báo cáo lỗ và
hoạt động này có thể được hạn chế thông qua giám sát và
quản lý chặt chẽ hơn các hoạt động của các NHTM.

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các nghiên cứu trước


lệch giữa lợi nhuận năm báo cáo và năm trước Để nghiên cứu hành vi này, các nhà nghiên
liền kề lớn hơn không. Mặt khác cũng tương cứu sẽ tập trung xem xét phân phối của chênh
tự như khi tránh báo cáo lỗ, việc điều chỉnh lệch giữa lợi nhuận năm báo cáo và năm trước
lợi nhuận thông qua điều chỉnh số liệu kế toán liền kề; tập trung vào tần suất xuất hiện mức
sẽ có những giới hạn nhất định. Do đó, các tăng nhẹ và mức giảm nhẹ (tức là phân phối
nhà quản trị có xu hướng điều chỉnh số liệu của chênh lệch giữa lợi nhuận năm nay và năm
nhiều hơn khi mức sụt giảm lợi nhuận là nhỏ. trước quanh điểm 0). Phương pháp này được

38 Số 193- Tháng 6. 2018 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP

các nhà nghiên cứu áp dụng trong các nghiên Landsman, Lang, and Williams (2012); Mary
cứu trên mẫu là các ngân hàng Mỹ như Beatty, E. Barth, Landsman, and Lang (2008), cũng
Ke, and Petroni (2002), mẫu nghiên cứu đa như trong các nghiên cứu cho lĩnh vực tài
quốc gia như Shen and Chih (2005), cũng như chính ngân hàng (Altamuro and Beatty, 2010;
tại các thị trường đang phát triển như Maia, Biurrun and Rudolf, 2010; Kanagaretnam,
Bressan, Lamounier, and Braga (2013), Hamdi Krishnan, and Lobo, 2010; Kanagaretnam,
and Zarai (2012). Lim, and Lobo, 2010; Kanagaretnam, Lim, and
Về cơ bản, các nghiên cứu đều chứng minh Lobo, 2011; Zhou and Chen, 2004; Leventis
mức độ tập trung bất thường của mức lợi nhuận and Dimitropoulos, 2012; và các tác giả khác).
dương nhỏ và mức tăng nhẹ của lợi nhuận năm Tiêu chí để xác định mức lợi nhuận nhỏ cũng
báo cáo so với năm trước liền kề. Khi áp dụng có sự khác biệt giữa các nghiên cứu, ví dụ
phương pháp EDA cho lĩnh vực ngân hàng, Kanagaretnam, Lim, et al. (2010) xác định mức
theo tác giả được biết, chỉ có một số ít nghiên lợi nhuận nhỏ là mức ROA nằm trong khoảng
cứu, ví dụ Quttainah, Song, & Wu (2013), áp (0-0,002), tức là dưới 0,2% chứ không phải là
dụng trực tiếp tiêu chí xác định mức lợi nhuận 1% như trong các nghiên cứu cho lĩnh vực phi
dương nhỏ/lỗ nhỏ đã được sử dụng trong các tài chính. Mức tăng giảm lợi nhuận được coi là
nghiên cứu trước ở lĩnh vực phi tài chính. Theo nhỏ khi ROA tăng/giảm ít hơn 0,0005 (0,05%),

đó một đơn vị có mức lãi (lỗ) nhỏ là đơn vị có trong đó ROA được tính bằng lợi nhuận trước
tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản đầu kỳ từ 0% thuế chia cho tổng tài sản. Altamuro and Beatty
đến 1% (-1%). Thước đo này không thực sự (2010) xác định mức tăng lợi nhuận nhỏ là khi
phù hợp do đã bỏ qua đặc điểm của lĩnh vực ROA tăng ít hơn 0,0008 (0,08%). Con số tương
ngân hàng là có hệ số nợ lớn nên hệ số ROA ứng trong các nghiên cứu của Kanagaretnam,
(biến đại diện cho lợi nhuận) sẽ nhỏ hơn so các Lim, & Lobo (2014) và Kanagaretnam et al.
doanh nghiệp phi tài chính. Do đó, phần lớn các (2011) là 0,001 (0,1%).
nghiên cứu tập trung vào các NHTM đã điều Mặc dù các nghiên cứu trước khẳng định sự phổ
chỉnh thước đo lợi nhuận dương nhỏ/lỗ nhỏ cho biến của việc điều chỉnh số liệu nhằm tránh báo
phù hợp với lĩnh tài chính. Tuy nhiên, mức tiêu cáo lỗ và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận báo
chuẩn để xác định một khoảng lỗ/lãi báo cáo là cáo, nhưng đặt trong điều kiện của Việt Nam
nhỏ hay không khá đa dạng giữa các nghiên cứu khi yếu tố thuế có vai trị rất quan trọng thì liệu
(Bảng 1. Tiêu chuẩn xác định mức lợi nhuận rằng các NHTM Việt Nam có điều chỉnh số liệu
nhỏ của các ngân hàng thương mại). Hơn nữa, kế tốn theo hướng này hay khơng vẫn là một
phần lớn các nghiên cứu đều thực hiện với mẫu câu hỏi mở.
là các ngân hàng ở các nước phát triển, đặc biệt
là Mỹ. 2. Xây dựng giả thuyết nghiên cứu
Ngoài ra, các nghiên cứu trước trong hướng
này cũng sử dụng hàm hồi quy với biến phụ Các nghiên cứu trước khẳng định nếu các cơ
thuộc là biến giả. Biến giả có giá trị là 0 hoặc chế quản trị công ty khuyến khích việc chấp
1 tùy thuộc vào việc mức lợi nhuận báo cáo nhận rủi ro nhiều hơn thì các NHTM sẽ có xu
(hoặc thay đổi giữa lợi nhuận báo cáo năm nay hướng điều chỉnh số liệu kế toán nhiều hơn
so với năm trước liền kề) nằm trong giới hạn (ví dụ Cornett, McNutt, & Tehranian, 2009;
lợi nhuận nhỏ hoặc sự gia tăng lợi nhuận thấp Leventis & Dimitropoulos, 2012; Altamuro &
hay không. Phương pháp này thường được Beatty, 2010…). Trong khi đó, theo Nguyen
áp dụng khi các nhà nghiên cứu dựa vào tổng Dinh Cung (2008), mặc dù các quy định liên
quan lý thuyết trước đó, khẳng định có tồn tại quan đến khung quản trị công ty của các công
hành vi điều chỉnh số liệu này và muốn xác ty cổ phần ở Việt Nam đã được ban hành đầy
định nhân tố tác động đến hành vi này. Phương đủ nhưng việc vận hành trong thực tế còn khác
pháp này được sử dụng cho cả các nghiên cứu khá xa so với quy định. Cụ thể cơ cấu quản trị

trên mẫu đa ngành nghề như Mary E Barth, công ty tại Việt Nam vẫn mang tính tập quyền

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018 39

QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP

với quyền lực tập trung ở một ít cá nhân, kiểm trong nền kinh tế, việc kinh doanh ngân hàng
soát nội bộ lỏng lẻo, kiểm sốt từ bên ngồi nói chung và huy động vốn nói riêng phụ thuộc
cịn chưa hình thành hoặc khơng hiệu quả. Do rất nhiều vào lịng tin của cơng chúng. Nếu
đó nguy cơ lạm quyền là rất cao, điều này sẽ một ngân hàng làm ăn thua lỗ cũng sẽ nhận
ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển lâu dài được sự chú ý đặc biệt từ các cơ quan thanh tra
của cơng ty, lợi ích của các cổ đông và các bên giám sát, và đây là điều các NHTM hồn tồn
có liên quan cũng như lợi ích chung của cả nền không mong muốn. Nguy cơ bị can thiệp bởi
kinh tế. Tran Thi Thanh Tu, Nguyen Hong Son, các cơ quan giám sát ngân hàng là một trong
& Pham Bao Khanh (2014) cũng kết luận rằng những nhân tố làm gia tăng việc điều chỉnh số
quản trị công ty của các NHTM Việt Nam chỉ liệu (Cheng, Warfield, & Ye, 2011). Do đó,
đáp ứng được khoảng 50% yêu cầu của OECD các NHTM có động cơ khá rõ ràng trong việc
và còn thấp rất xa so với chuẩn mực quốc tế. Và không muốn công bố các thông tin kế tốn bất
những yếu kém trong quản trị cơng ty đưa đến lợi.
hậu quả là xu hướng chấp nhận rủi ro quá mức Tất cả những phân tích trên đều cho thấy cơ sở
trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. để đưa ra giả thuyết về việc các NHTM Việt
Mặt khác, theo Kanagaretnam et al. (2011), Nam sẽ điều chỉnh số liệu kế toán để tránh báo
tại các nước theo chủ nghĩa cá nhân, có thiên cáo lỗ hoặc tránh sự sụt giảm trong lợi nhuận
hướng nam tính và mức độ né tránh rủi ro thấp, báo cáo. Do đó, giả thuyết nghiên cứu được đưa
các NHTM cũng có xu hướng điều chỉnh số liệu ra là:
nhiều hơn để đạt được các mục tiêu lợi nhuận Giả thuyết 1: Các NHTM Việt Nam điều chỉnh
(tránh báo cáo lỗ và tránh sự giảm sút trong lợi số liệu kế toán để tránh báo cáo lỗ.
nhuận báo cáo). Đồng thời, theo G. Hofstede Giả thuyết 2: Các NHTM Việt Nam điều chỉnh
(2017), mặc dù Việt Nam là nước theo chủ số liệu kế toán để tránh sự sụt giảm trong lợi
nghĩa tập thể nhưng mức độ né tránh các vấn nhuận báo cáo.

đề không chắc chắn là rất thấp với những biểu
hiện như coi trọng thực tiễn hơn là nguyên tắc; 3. Phương pháp nghiên cứu và mẫu nghiên
và những sai lệch so với chuẩn xã hội dễ dàng cứu
được tha thứ. Các kế hoạch, lịch trình ln linh
hoạt, lao động chăm chỉ khi cần thiết chứ không 3.1. Phương pháp nghiên cứu
phải vì giá trị hay ý nghĩa của sự cần mẫn;
sự chính xác và đúng giờ không phải là điều Kế thừa theo các nghiên cứu trước, để tìm
đương nhiên, sự đổi mới khơng bị coi như mối kiếm bằng chứng của việc điều chỉnh số liệu
đe dọa. nhằm tránh báo cáo lỗ và tránh sự giảm sút của
Xét về môi trường kinh doanh chung, các doanh lợi nhuận, tác giả sử dụng cách tiếp cận phân
nghiệp Việt Nam bị chi phối bởi mong muốn tích phân phối của lợi nhuận (EDA- earnings
giảm thiểu thuế phải nộp nhiều hơn là làm đẹp distribution approach). Hai vấn đề chính cần
số liệu báo cáo để tăng sức hấp dẫn với thị xác định khi áp dụng phương pháp này là biến
trường tài chính. Tuy nhiên với sự phát triển đại diện cho lợi nhuận báo cáo và tiêu chuẩn
của thị trường chứng khoán (TTCK) trong giai để xác định mức lợi nhuận (lỗ) nhỏ và xác định
đoạn 2005 đến nay, vai trò của thị trường đã mức tăng (giảm) lợi nhuận nhỏ. Hai biến số
được củng cố và các nhà đầu tư, các nhà phân chính để phản ánh khả năng sinh lời của ngân
tích ngày càng quan tâm hơn đến số liệu công hàng là ROA- tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản
bố của các công ty niêm yết. Điều này dẫn đến và ROE- tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu:
hiệu ứng là các doanh nghiệp, đặc biệt là các
cơng ty và tập đồn lớn quan tâm hơn tới phản ROAit = Lợi nhuận sau thuế NH i năm t
ứng của thị trường và các bên liên đới trước Tổng tài sản của NH i cuối năm t
thông tin kế tốn cơng bố. Hơn nữa, tài chính
ngân hàng là lĩnh vực bị kiểm soát rất chặt chẽ Lợi nhuận sau thuế của NH i năm t
ROEit = Vốn chủ sở hữu của NH i cuối năm t

40 Số 193- Tháng 6. 2018 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP


Bảng 2. Thống kê mô tả các biến phản ánh đặc điểm mẫu nghiên cứu

Biến Số quan Trung Độ lệch Min Pctl(25) Trung vị Pctl(75) Max
sát bình chuẩn
1,000
VCSH/Tổng TS 365 0,126 0,121 0,029 0,067 0,094 0,134 63.765
1.202.283
VCSH (tỷ đồng) 365 8.120 10.582 34 2.178 4.017 9.841
0,047
Tổng TS (tỷ đồng) 365 107.542 173.247 144 16.378 44.346 124.118 0,298
0,030
roa 365 0,010 0,007 0,0001 0,005 0,009 0,013 0,159

roe 365 0,095 0,061 0,001 0,050 0,091 0,133

Droa 337 -0,001 0,006 -0,030 -0,002 -0,0001 0,002

Droe 337 -0,001 0,047 -0,206 -0,028 0,0001 0,027

Nguồn: Tác giả tính tốn từ số liệu cơng bố của các NHTM bằng phần mềm R

Phân tích phân phối của của ROA và ROE Mẫu nghiên cứu với số liệu của 30 NHTM Việt
giúp xác định xem có sự tập trung bất thường Nam trong giai đoạn từ 2004 đến 2017. Một
của những quan sát có mức lợi nhuận nhỏ hay số ngân hàng đã bị sáp nhập, hoặc mua lại nên
khơng và từ đó đưa ra bằng chứng về việc số sẽ khơng có đủ tồn bộ dữ liệu cho cả 14 năm.
liệu bị điều chỉnh nhằm tránh báo cáo lỗ. Kế Mẫu nghiên cứu cuối cùng bao gồm 365 quan
thừa các nghiên cứu trước (Kanagaretnam, sát.
Lim, et al., 2010; Maia et al., 2013; và Hamdi Các dữ liệu thu thập bao gồm: Lợi nhuận sau
& Zarai, 2012…), một ngân hàng có mức lợi thuế, vốn chủ sở hữu và tổng tài sản của các
nhuận báo cáo nhỏ khi tỷ lệ ROA của ngân NHTM. Các chỉ tiêu này được lấy từ báo cáo tài

hàng nằm trong khoảng từ 0 đến 0,2%. Điều chính (BCTC) hợp nhất đã kiểm tốn cơng bố
này cũng là phù hợp với điều kiện của các trên Website chính thức của các NHTM.
NHTM Việt Nam khi theo Bảng 2, hệ số ROA Các tham số thống kê mơ tả cơ bản mẫu nghiên
có giá trị bình quân là 1,0% và giá trị lớn nhất cứu được trình bày trong Bảng 2. Theo đó, các
là 4,7%. Đối với hệ số ROE, hệ số này đã bao NHTM trong mẫu có tổng tài sản bình quân
gồm tác động của hệ số nợ và do đó khơng có là 107.542 tỷ đồng, dao động từ 144 tỷ đồng
sự khác biệt giữa các lĩnh vực khác nhau, do đó, (Ngân hàng Nam Việt năm 2005) đến 1.202.283
kế thừa các nghiên cứu trước, bài viết xác định tỷ đồng (số liệu của BIDV năm 2017). Vốn chủ
mức lợi nhuận nhỏ là mức nằm trong khoảng từ sở hữu bình quân là 8.856 tỷ đồng, dao động
0% đến 1%. từ mức nhỏ nhất là 34 tỷ đồng (của NHTMCP
Việc phân tích phân phối của biến phản ánh phát triển Mê Kông năm 2005) đến 63.765 tỷ
tăng/giảm trong lợi nhuận báo cáo sẽ giúp xác đồng (của NHTMCP Công thương Việt Nam
định bằng chứng về việc điều chỉnh số liệu năm 2017). Tỷ lệ VCSH trên tổng tài sản bình
nhằm tránh sự sụt giảm trong lợi nhuận. Tăng quân toàn mẫu là 12,6%, dao động từ 2,9% đến
giảm trong lợi nhuận (Droa, Droe) được tính 100%. Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản (roa)
tương ứng như sau: của các NHTM trong mẫu nghiên cứu trung
Droait = ROAit - ROAit-1 bình khoảng 1,0%, biến thiên từ 0,001% đến
Droeit = ROEit - ROEit-1 4,7%. Hệ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu có
Bên cạnh đó, tác giả cũng xác định một quan bình quân là 9,5% và biến thiên từ 0,1% đến
sát được coi là có tăng (giảm) nhỏ trong lợi 29,8%. Như vậy, tất cả các NHTM trong mẫu
nhuận báo cáo khi “droa” nằm trong khoảng từ đều báo cáo lãi mặc dù một số nghiên cứu cho
0% đến 0,2% (-0,2% đến 0%) và “droe” nằm thấy khả năng sinh lời và hiệu quả quản lý chi
trong khoảng từ 0% đến 1% (từ -1% đến 0%). phí của các NHTM Việt Nam thấp hơn so với
các nước trong khu vực.
3.2. Mẫu nghiên cứu Về biến động của lợi nhuận, biến “droa” bình

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018 41

QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP


quân là -0,1% và độ lệch chuẩn là 0,6%, dao Hình 1 và Hình 2 cho thấy phân phối tương ứng
động từ -3% đến 3%. Tương tự, tính trung bình
droe là -0,1% (với độ lệch chuẩn là 4,7%); dao của ROA và ROE từ 2004 đến 2017. Căn cứ
động từ -20,6% đến 15,9%. Như vậy, xét bình
quân, mức tăng giảm của các hệ số phản ánh vào các hình này có thể thấy rất rõ mức độ tập
khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam là
khá nhỏ. trung bất thường của các quan sát ở phân tổ sát

4. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm tại các bên phải 0. Điều này đặc biệt rõ nét nếu nhìn
ngân hàng thương mại Việt Nam
vào phân phối của ROA. Có thể thấy, trong giai
4.1. Kết quả thực nghiệm về điều chỉnh số liệu
để tránh báo cáo lỗ đoạn nghiên cứu các NHTM trong mẫu không

Hình 1. Phân phối ROA của NHTM Việt Nam báo cáo lỗ. Đối với các NHTM khác gặp khó

khăn về tài chính, ngay khi có thông tin về việc

tái cơ cấu hay sáp nhập, thông tin tài chính

không được cơng bố, BCTC năm trước đó liền

kề vẫn cho thấy ngân hàng có lãi (ví dụ BCTC

của Ngân hàng Xây dựng- VNCB năm 2011,

của Ngân hàng Phương Nam

2004- 2017 năm 2013, Ngân hàng Nhà đồng
bằng sông Cửu Long- MHB


năm 2014…). Có thể thấy khá

rõ sự tập trung bất thường của

các quan sát có mức lợi nhuận

Số quan sát nhỏ (ROA dưới 0,2% hoặc ROE

dưới 1%). Do đó, có thể khẳng

định các NHTM Việt Nam có

thực hiện việc điều chỉnh số

liệu công bố để tránh báo cáo

lỗ.

Số quan sát Tỷ lệ Lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) 4.2. Kết quả thực nghiệm về
Nguồn: Tác giả tính tốn từ số liệu công bố của các NHTM bằng điều chỉnh số liệu để tránh sự
giảm sút của lợi nhuận báo
phần mềm R cáo
Hình 2. Phân phối ROE của NHTM Việt Nam 2004- 2017
Để chứng minh về việc điều
Tỷ lệ Lợi nhuận trên Vốn chủ sở hữu (ROE) chỉnh số liệu nhằm tránh sự
Nguồn: Tác giả tính tốn từ số liệu công bố của các NHTM bằng giảm sút trong lợi nhuận báo
cáo, bài viết phân tích phân
phần mềm R phối của tăng/giảm trong tỷ
lệ lợi nhuận trên tổng tài sản

(droa) và tăng/giảm trong tỷ lệ
lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
(droe). Hình 3 cho thấy có sự
tập trung rất lớn các quan sát
quanh mức 0, cụ thể có “droa”
trong khoảng từ -0,002 đến 0 và
từ 0 đến 0,002. Tuy nhiên, khác
với dự báo về việc tránh sự sụt
giảm trong lợi nhận báo cáo, số
quan sát có lợi nhuận báo cáo
tăng nhẹ (từ 0 đến 0,002) không

42 Số 193- Tháng 6. 2018 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP

Hình 3. Phân phối tăng/giảm ROA (droa) và “droe” đều đưa ra bằng chứng
của NHTM Việt Nam 2004- 2017 phủ nhận giả thuyết nghiên cứu

2 (các NHTM Việt Nam có điều

chỉnh số liệu kế toán để tránh sự

sụt giảm trong lợi nhuận báo cáo).

Số quan sát Mặt khác, khi quan sát phân phối

droa và droe, ta có thể nhận thấy

sự tập trung rất cao các quan sát


quanh mức 0. Đây có thể là dấu

hiệu cho thấy các các ngân hàng

không muốn để lợi nhuận báo cáo

biến động mạnh và coi trọng việc

ổn định dòng lợi nhuận báo cáo

hơn là việc báo cáo mức lợi nhuận

Tăng/giảm của tỷ lệ Lợi nhuận trên tổng tài sản hàng năm tăng dần.

Nguồn: Tác giả tính tốn từ số liệu công bố của các NHTM bằng 5. Thảo luận kết quả nghiên cứu
phần mềm R và khuyến nghị

Hình 4. Phân phối tăng /giảm ROE (droe) của NHTM

Việt Nam 2005- 2017 Các bằng chứng thực nghiệm ở

Phần 4 của bài viết đã cho thấy

bằng chứng để khẳng định Giả

thuyết 1, theo đó các NHTM Việt

Nam có thao túng số liệu kế toán


Số quan sát để tránh báo cáo lỗ. Tuy nhiên,

chưa có bằng chứng để khẳng định

Giả thuyết 2, các NHTM Việt

Nam có điều chỉnh số liệu để báo

cáo mức lợi nhuận tăng dần hay

không. Thay vào đó, sự biến động

của tỷ suất ROA và ROE cho

thấy các NHTM có xu hướng ổn

Tăng/giảm của tỷ lệ Lợi nhuận trên Vốn chủ sở hữu hàng năm định lợi nhuận hơn, tức là tỷ suất
lợi nhuận có thể tăng hoặc giảm

Nguồn: Tác giả tính tốn từ số liệu cơng bố của các NHTM bằng nhưng ở mức nhỏ. Hơn nữa, các
phần mềm R kết quả này khẳng định sự tồn tại

của hiện tượng điều chỉnh số liệu

lớn hơn số quan sát có mức lợi nhuận giảm nhẹ nhằm báo cáo lợi nhuận theo mong muốn của

(-0,002 đến 0), và sự chênh lệch giữa 2 nhóm nhà quản trị (không báo cáo lỗ hoặc lợi nhuận

này là không đáng kể. ổn định).


Phân phối “droe” ở Hình 4 cho thấy có sự tập Nếu đối chiếu với những nội dung phân tích

trung các quan sát có mức tăng nhẹ trong roe ở Phần 2 của bài viết khi xây dựng giả thuyết

(ROE tăng ít hơn 1%), tuy nhiên khơng có sự nghiên cứu, có thể thấy nguyên nhân của hiện

khác biệt quá lớn giữa nhóm này và nhóm quan tượng này là do những yếu kém trong quản trị

sát có ROE giảm nhẹ (giảm ít hơn 1%). Nói cơng ty; đặc điểm môi trường kinh doanh và

cách khác, bằng chứng về việc điều tiết số liệu việc các ngân hàng mong muốn báo cáo tính

nhằm tránh sự sụt giảm của ROE là khơng rõ hình tài chính ổn định để tránh sự can thiệp có

nét. Như vậy phân phối của cả hai biến “droa” thể của cơ quan quản lý và thanh tra.

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018 43

QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP

Bên cạnh đó, việc các ngân hàng trong mẫu cơng khai thơng tin khi gặp khó khăn.
nghiên cứu không báo cáo lỗ trong giai đoạn Từ giác độ của cơ quan quản lý, việc chấp nhận
nghiên cứu còn cho thấy, bản thân các cơ quan cho các NHTM chậm hoặc khơng cơng khai
quản lý có xu hướng chấp nhận việc các NHTM một số thông tin bất lợi hoặc cho phép lùi thời
tránh công bố thơng tin bất lợi. Một thực tế có hạn thực hiện một số quy định pháp lý khi các
thể quan sát là các ngân hàng khi gặp khó khăn quy định này có thể tạo ra những khoản lỗ cho
về tài chính có thể khơng hoặc lùi việc công các ngân hàng có thể được giải thích bởi một số
bố các BCTC mà khơng có sự giải trình nào. nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất có lẽ là
Trong khi đó, tất cả các cơng ty niêm yết trên việc muốn tránh tác động tâm lý bất ổn đến thị
TTCK Việt Nam đều phải công bố thông tin tài trường nhằm giữ ổn định hệ thống tài chính.

chính trong thời hạn quy định, nếu không đảm Hệ thống NHTM là xương sống của nền kinh
bảo thời hạn cơng bố đều phải có giải trình và tế và hoạt động của hệ thống này dựa rất lớn
xin phép Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Các vào yếu tố niềm tin. Khi thị trường hoảng loạn
NHTM gặp khó khăn bị buộc phải tái cơ cấu và mất niềm tin dẫn đến việc rút tiền gửi ồ ạt
hoặc sáp nhập cũng không công bố BCTC nếu thì về cơ bản khơng một NHTM nào có đủ khả
các con số báo cáo là không thuận lợi. Hơn nữa, năng thanh khoản. Do đó, việc ổn định tâm lý
các BCTC của những năm trước liền kề của cho công chúng và người gửi tiền sẽ đặc biệt
năm phải tái cơ cấu hoặc sáp nhập vẫn cho thấy quan trọng để tránh những cuộc khủng hoảng
ngân hàng làm ăn có lãi. Nhưng, sau khi cơng ngân hàng. Tuy nhiên, việc chấp nhận những
bố ngân hàng gặp khó khăn tài chính và phải tiền lệ về việc không công khai thông tin và
tái cơ cấu hoặc bị mua lại, không có cơ quản chấp nhận khơng ghi nhận các khoản lỗ/chi phí
lý hoặc tổ chức nào đặt vấn đề hoặc yêu cầu kịp thời có thể mang lại những rủi ro tiềm tàng
rà sốt lại các BCTC được cơng bố ngay trước dài hạn cho cả hệ thống. Mơi trường khơng
đó với các khoản lãi được ghi nhận. Bản thân minh bạch lại trở thành một yếu tố khuyến
các cơ quan quản lý khi ban hành các văn bản khích xu hướng chấp nhận rủi ro cao hơn trong
pháp quy cũng vẫn duy trì thơng lệ cho phép kinh doanh ngân hàng. Và việc chấp nhận rủi
các NHTM lùi thời hạn thực hiện nếu các quy ro thái quá có thể tạo ra những rủi ro ngồi khả
định mới có thể tạo ra các khoản lỗ báo cáo (ví năng chịu đựng của bản thân ngân hàng cũng
dụ cho phép lùi thời gian trích lập đủ dự phịng như tồn hệ thống. Do đó, về mặt lâu dài, cần
nếu tạo ra lỗ). Như vậy, ở một chừng mực nhất có những chiến lược và chính sách tăng cường
định khác với kỳ vọng của thị trường, quy chế tính cơng khai minh bạch và hạn chế sự thao
về công khai và minh bạch thông tin của các túng số liệu kế toán nhằm báo cáo những con số
NHTM chưa thật chặt chẽ. Hơn nữa, cách xử theo mong muốn của nhà quản trị.
lý của các cơ quan quản lý trong một số trường Để làm rõ hơn về vấn đề này, các nghiên cứu
hợp tạo ra một kỳ vọng hợp lý cho các NHTM trong tương lai có thể dùng cách tiếp cận sử
về việc họ có thể điều chỉnh số liệu và không
xem tiếp trang 75

Tài liệu tham khảo


1. Altamuro, J., & Beatty, A. (2010). How does internal control regulation affect financial reporting? Journal of Accounting
and Economics, 49(1–2), 58-74. doi: />2. Barth, M. E., Landsman, W. R., Lang, M., & Williams, C. (2012). Are IFRS-based and US GAAP-based accounting amounts
comparable? Journal of Accounting and Economics, 54(1), 68-93.
3. Barth, M. E., Landsman, W. R., & Lang, M. H. (2008). International Accounting Standards and Accounting Quality. Journal
of Accounting Research, 46(3), 467-498. doi: 10.1111/j.1475-679X.2008.00287.x
4. Beatty, A. L., Ke, B., & Petroni, K. R. (2002). Earnings management to avoid earnings declines across pubicily and privately
held banks. The Accounting Review, 77(3), 547-570.
5. Biurrun, V., & Rudolf, M. (2010). Mitigating Bank Earnings Management - The Role of Regulation and Supervision.
Rochester: Social Science Research Network.
6. Bornemann, S., Kick, T., Memmel, C., & Pfingsten, A. (2012). Are banks using hidden reserves to beat earnings benchmarks?
Evidence from Germany. Journal of Banking & Finance, 36(8), 2403-2415. doi: />
44 Số 193- Tháng 6. 2018 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP

7. Burgstahler, D., & Dichev, I. (1997). Earnings management to avoid earnings decreases and losses. Journal of Accounting
and Economics, 24(1), 99-126.
8. Cheng, Q., Warfield, T., & Ye, M. (2011). Equity Incentives and Earnings Management Evidence from the Banking Industry.
Journal of Accounting, Auditing & Finance, 26(2), 317-349.
9. Cornett, M. M., McNutt, J. J., & Tehranian, H. (2009). Corporate governance and earnings management at large U.S. bank
holding companies. Journal of Corporate Finance, 15(4), 412-430. doi: />10. Hamdi, F. M., & Zarai, M. A. (2012). Earnings management to avoid earnings decreases and losses: empirical evidence from
Islamic banking industry. Research Journal of Finance and Accounting, 3(3), 88-106.
11. Hofstede, G. What about Vietnam, truy cập tháng 12/2017.
12. Jeanjean, T., & Stolowy, H. (2008). Do accounting standards matter? An exploratory analysis of earnings management
before and after IFRS adoption. Journal of Accounting and Public Policy, 27(6), 480-494. doi: />jaccpubpol.2008.09.008
13. Kanagaretnam, K., Krishnan, G. V., & Lobo, G. J. (2010). An Empirical Analysis of Auditor Independence in the Banking
Industry. The Accounting Review, 85(6), 2011-2046.
14. Kanagaretnam, K., Lim, C. Y., & Lobo, G. J. (2010). Auditor reputation and earnings management: International
evidence from the banking industry. Journal of Banking & Finance, 34(10), 2318-2327. doi: />jbankfin.2010.02.020
15. Kanagaretnam, K., Lim, C. Y., & Lobo, G. J. (2011). Effects of national culture on earnings quality of banks. Journal of

International Business Studies, 42(6), 853-874.
16. Kanagaretnam, K., Lim, C. Y., & Lobo, G. J. (2014). Effects of international institutional factors on earnings quality of banks.
Journal of Banking & Finance, 39(0), 87-106. doi: />17. Leuz, C., Nanda, D., & Wysocki, P. D. (2003). Earnings management and investor protection: an international comparison.
Journal of Financial Economics, 69(3), 505-527.
18. Leventis, S., & Dimitropoulos, P. (2012). The role of corporate governance in earnings management: experience from US
banks. Journal of Applied Accounting Research, 13(2), 161-177. doi: />19. Maia, S. C., Bressan, V. G. F., Lamounier, W. M., & Braga, M. J. (2013). Earnings management in Brazilian credit unions*.
Brazilian Business Review, 10(4), 91-109.
20. Nguyen Dinh Cung. (2008). Corporate governance in Vietnam: regulations, practices and problems. available at: www.
sme-gtz. org. vn/Download/Component% 20I/ENGLISH/1.% 20RESEARCH% 20AND% 20REPORTS/CORPORATE%
20GOVERNANCE% 20IN% 20VIETNAM. pdf (accessed April 27, 2012).
21. Quttainah, M. A., Song, L., & Wu, Q. (2013). Do Islamic Banks Employ Less Earnings Management? Journal of International
Financial Management & Accounting, 24(3), 203-233. doi: />22. Shen, C.-H., & Chih, H.-L. (2005). Investor protection, prospect theory, and earnings management: An international
comparison of the banking industry. Journal of Banking & Finance, 29(10), 2675-2697. doi: />jbankfin.2004.10.004
23. Tran Thi Thanh Tu, Nguyen Hong Son, & Pham Bao Khanh. (2014). Testing the Relationship between Corporate Governance
and Bank Performance–An Empirical Study on Vietnamese Banks. Asian Social Science, 10(9), p213.
24. Zhou, J., & Chen, K. Y. (2004). Audit committee, board characteristics and earnings management by commercial banks.
Unpublished Manuscript.

Thông tin tác giả

Đào Nam Giang, Tiến sĩ
Khoa Kế toán- Kiểm toán, Học viện Ngân hàng
Email: /

Summary

Manipulating accounting figures to avoid reporting a loss and/or an earnings decrease - evidences from

Vietnamese commercial banks


Using earnings distribution approach, this paper provides evidence that Vietnamese commercial banks did
manipulate accounting figures to avoid reporting a loss. Analysis of changing in reported profit reveals that the
banks do not manage earnings to report an increasing profit. However, we can see some indicators of income
smoothing activities. Possible causes include weak corporate governance mechanis and issues in business
environment.
Keywords: Earnings management, earnings distribution, loss avoidance, target-beating earnings management.

Giang Nam Dao, PhD.
Faculty of Accounting and Auditing, Banking Academy

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018 45

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

and colleges and allows schools to be autonomous in developing enrollment plans. The number of candidates has
decreased over the years, while increasing enrollment targets of universities and colleges has created pressure
for universities and colleges to compete to improve quality, reputation, and job orientation in order to attract
candidates. The research was conducted to develop a model that illustrates the factors that determines the
choice of the BA’s undergraduate program of students. The results of multiple linear regression analyzed from
186 questionaire respondents of BA’s 1st year and 2nd year students show that the groups of factors that have
the significant impact in descending order are: Fixed Characteristics of the insitute, Communication Efforts of
the institue, Social influencers to the student’s choice of the institute, Individual Characteristics of the student.
Based on the obtained results, the research team proposes recommendations to improve the effectiveness of the
enrollment process for universities, colleges in general and for BA institute in particular.
Keywords: Factors, bachelor program, enrollment, Banking Academy of Vietnam.

Mai Ngoc Tran, MEc.
Faculty of International Business, Banking Academy

Huong Thi Thu Nguyen

Student of K18KDQTA, Faculty of International Business, Banking Academy

Linh Thuy Do
Student of K18KDQTA, Faculty of International Business, Banking Academy

tiếp theo trang 36 liệu nhằm báo cáo mức lợi nhuận ổn định. Do
đó, các nghiên cứu tương lai có thể phát triển
cho nhiều trường hợp khác nhau. Việc sử dụng các mơ hình nghiên cứu nhằm tìm kếm bằng
tốt sẽ dẫn đến các giao dịch nhanh hơn, minh chứng bổ sung để có thể đưa ra kết luận về việc
bạch hơn. Giải pháp Blockchain cũng sẽ làm có NHTM có thực sự thao túng số liệu để ổn
giảm chi phí và gánh nặng hành chính đối với định lợi nhuận hay không, và các cơng cụ nào
ngân hàng và khách hàng. Ước tính rằng các hay ước tính kế tốn nào có thể bị lợi dụng để
cơng nghệ Blockchain có thể làm giảm chi ổn định lợi nhuận. ■
phí cơ sở hạ tầng của ngân hàng khoảng 15-
20 tỷ USD một năm vào năm 2022- như tuyên tiếp theo trang 54
bố trong “FinTech 2.0 Paper” của Santander
InnoVentures. Blockchain cũng đặt ra thách thích điểm tín dụng theo những đặc điểm của
thức đòi hỏi tất cả các bên liên quan sẽ phải khách hàng, bởi phần lớn cơ chế giải thích của
tham gia hợp tác vào sự phát triển trong lĩnh các kĩ thuật này rất phức tạp và vẫn cịn nằm
vực này, “sẽ cần phải có một tập thể chung” trong “hộp đen”.
giữa các ngân hàng, nhà quản lý và các công ty Những kết quả được đưa ra trong bài nghiên
công nghệ. Bên cạnh đó, thách thức về sự riêng cứu có thể là cơ sở để mở ra các nghiên cứu,
tư, bảo mật, khả năng mở rộng… cũng là những đưa ra những phương pháp mới kết hợp các
vấn đề cần xem xét. Blockchain có thể là giải kĩ thuật nhằm nâng cao hiệu quả các mơ hình
pháp cơng nghệ tiềm năng cho ngành tài chính chấm điểm tín dụng. Ngồi việc xem xét kết
ngân hàng, tuy nhiên nó cịn cần phải tiếp tục quả của của các mô hình kết hợp thì việc giải
được hồn thiện, phát triển về cơng nghệ, giảm thích cơ chế tác động của các nhân tố đầu vào
thiểu chi phí khi áp dụng và khắc phục các vấn với nhân tố mục tiêu phân loại đối với các mô
đề khác đang tồn tại. ■ hình cũng cần được quan tâm nghiên cứu. ■


tiếp theo trang 44 tiếp theo trang 63

dụng hồi quy với biến giả (đã đề cập ở Phần kiệm, vay vốn với quy mô nhỏ, thời gian đáo
1 của bài viết) để tìm kiếm bằng chứng thực hạn nhanh phù hợp hơn với nhóm khách hàng
nghiệm về tác động của một số nhân tố đến này. Mặt khác, thủ tục, giấy tờ luôn là một rào
mức độ điều chỉnh số liệu nhằm tránh báo cáo cản lớn đối với người dân khi tiếp cận các dịch
lỗ và ổn định lợi nhuận. Bên cạnh đó, các bằng vụ tài chính tại nơng thơn, điều này đã được đề
chứng thực nghiệm trong nghiên cứu này cũng cập trong nhiều nghiên cứu. Việc cải thiện thủ
cho thấy các NHTM có xu hướng điều chỉnh số tục hành chính sẽ tăng khả năng tiếp cận dịch
vụ tài chính của khu vực nơng thơn. ■

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018 75


×