TIỂU LUẬN
MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề tài:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY DÂN CHỦ
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CNXH Chủ nghĩa xã hội
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN......................................4
1.1. Khái niệm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đặc trưng cơ bản của nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa...........................................................................4
1. 2. Cấu trúc của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.......................................7
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY DÂN CHỦ Ở
VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI. .8
2.1. Thực trạng phát huy dân chủ ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
CNXH........................................................................................................8
2.2. Phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy quyền
dân chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay................................................14
KẾT LUẬN....................................................................................................23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................25
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của nhân dân, khơng
có sự đồn kết, sáng tạo của quần chúng nhân dân thì sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội sẽ thất bại. Dân chủ chính là biểu hiện quan điểm giá trị cốt lõi
của chủ nghĩa xã hội, là nhân tố tạo ra sự ổn định, phát triển và thịnh vượng.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có các thiết chế nhà nước, xã hội được
xác lập, vận hành và từng bước hoàn thiện nhằm đảm bảo thực hiện trên thực
tế, ngày càng đầy đủ các quyền lực chính trị của giai cấp cơng nhân, của các
giai cấp và các tầng lớp nhân dân khác và của toàn xã hội. Cũng như mọi nền
dân chủ khác trong lịch sử, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trải qua một quá
trình phát triển lâu dài với các giai đoạn từ thấp lên cao, từ chưa hoàn thiện
đến ngày càng hoàn thiện. Sự khác biệt căn bản trong tiến trình phát triển từ
thấp lên cao ấy giữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với nền dân chủ tư sản là ở
chỗ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phát triển, từng bước hoàn thiện tương ứng
với các giai đoạn phân kỳ trong quá trình phát triển của hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa, từng bước trở thành dân chủ tự tiêu vong.
Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa được xác lập, từng bước phát triển với tính cách là một
hình thức nhà nước, thể chế chính trị mà trong đó các phương tiện, công cụ
cùng với một hệ thống các tổ chức thiết chế chính trị - xã hội của nền dân chủ
được xác lập nhằm đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về tất cả các công dân
trong xã hội của tất cả các giai cấp mà trước hết là của giai cấp công nhân, các
giai cấp và các tầng lớp nhân dân khác có lợi ích căn bản thống nhất, phù hợp
với lợi ích của giai cấp cơng nhân; quyền lực đó được thiết lập, được thực
hiện trên thực tế ngày càng đầy đủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
1
Sau hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta đã nhận thức ngày càng sâu sắc hơn
tầm quan trọng và vai trò của xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của công cuộc đổi mới; đồng thời, nhận thức đầy đủ hơn về tính khách quan
thực hiện dân chủ, nhất là các hình thức dân chủ trực tiếp trong tình hình mới.
Tuy vậy, nó vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; nhận thức về vấn đề dân
chủ và phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền vẫn
còn nhiều vấn đề chưa được giải đáp một cách thấu đáo...Thực tế đó địi hỏi
Đảng phải tiếp tục bổ sung những nhận thức mới, đề ra những giải pháp để
thúc đẩy nhanh hơn nữa q trình dân chủ hóa ở nước ta.
Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp phát huy
dân chủ ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” làm đề tài
tiểu luận kết thúc học phần Chủ nghĩa xã hội khoa học để đi tìm hiểu về thực
trạng phát huy dân chủ ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Từ đó đề xuất các phương hướng phát huy dân chủ ở Việt Nam trong thời
gian tới.
2. Mục tiêu
Trên cơ sở khái quát thực trạng, nội dung thực trạng huy dân chủ ở Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đề tài sẽ góp phần đề xuất các
phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy quyền dân chủ của
nhân dân ở nước ta hiện nay
3. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu, làm rõ các khái niệm liên quan đến đề tài
- Đi sâu nghiên cứu nội dung thực trạng phát huy dân chủ ở Việt Nam
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Đưa ra một số vấn đề, đề xuất, góp phần phát huy dân chủ ở Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
4. Kết cấu:
2
Tiều luận này gồm 02 chương, 4 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2: Thực trạng và giải pháp phát huy dân chủ ở Việt Nam trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Khái niệm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đặc trưng cơ bản của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.1.1 Định nghĩa
Khi diễn đạt hệ thống quyền lực của bộ phận dân cư trong các nước
cộng hòa Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại, người ta đã dùng cụm từ
Demoskratos để chỉ hệ thống đó. Demokratos gồm hai từ ghép lại: Demos là
dân chúng, kratos là quyền lực. Như vậy, Demos Kratos có nghĩa là “quyền
lực thuộc về nhân dân” hay dân quyền và hiện nay chúng ta quen gọi là dân
chủ. Vậy, dân chủ là dân quyền, tức là quyền lực của cộng đồng người được
nhà nước công nhận là dân (nhân dân) - quyền lực thuộc về nhân dân (trong
các nước cộng hịa đó, nơ lệ khơng được cơng nhận là dân, khơng có quyền
lực nào mà chỉ là “cơng cụ biết nói” của chủ nơ). Thuật ngữ Demoskratos
(dân quyền, dân chủ) vẫn được loài người (các giai cấp, các cộng đồng) tiếp
tục sử dụng cho đến ngày nay nhưng với những quan điểm khác nhau.
Dân chủ là khái niệm được sử dụng để chỉ hình thức tổ chức thiết chế
chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền
lực, thừa nhận nguyên tắc của bình đẳng và tự do. Với tính cách là hình thức
tổ chức thiết chế chính trị của nhà nước, dân chủ xuất hiện cùng với sự xuất
hiện nhà nước. So với các hình thức khác của thiết chế nhà nước, trong thiết
chế dân chủ, quyền của đa số, quyền bình đẳng của mọi cơng dân, tính tối cao
của pháp luật nhà nước được thừa nhận; các cơ quan cơ bản của nhà nước
được lập ra thông qua bầu cử. Dân chủ được thực hiện thơng qua hai hình
thức cơ bản: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Quan niệm về dân chủ thực sự khoa học lần đầu tiên được các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác-Lênin nêu ra, làm sáng tỏ bản chất giai cấp của dân
4
chủ. Theo đó, các thiết chế dân chủ, quyền cơng dân của nền dân chủ tư sản
được thừa nhận là sự the hiện, phản ánh lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp
tư sản, quyền lực chính trị cơ bản nằm trong tay giai cấp tư sản. Cũng cần
hiểu rằng một số nguyên tắc dân chủ, quyền dân chủ, thiết chế dân chủ có tính
chất tiến bộ... của dân chủ tư sản là kết quả của cuộc đấu tranh của các giai
cấp và tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội. Nhưng về cơ bản, một số
nguyên tắc dân chủ, quyền dân chủ, thiết chế dân chủ có tính chất tiến bộ..
được thừa nhận ấy hồn tồn khơng thể vượt q cái giới hạn có thể, cần duy
trì, bảo vệ những lợi ích chính trị và quyền lực chính trị cơ bản của giai cấp tư
sản. Dưới góc độ tổ chức chính trị - xã hội, dân chủ là một hình thức tổ chức
nhà nước với hệ thống chính trị tương ứng mà đặc trưng cơ bản là thừa nhận
quyền lực chính trị của nhân dân, quyền tự do bình đẳng của cơng dân, thực
hiện ngun tắc thiểu số phục tùng đa số nhằm phục vụ cho lợi ích của giai
cấp thống trị - giai cấp nắm tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội. Trong nội
xã hội có giai cấp, trên thực tế, vai trị chủ thể quyền lực chính trị thuộc về
giai cấp nắm tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội. Trong chế độ chiếm hữu
nô lệ, nô lệ không được thừa nhận là một bộ phận nhân dân, chủ nơ có tồn
quyền quyết định số phận của họ. Trong chế độ phong kiến địa chủ, quyền lực
xã hội được tập trung cao độ vào một ông vua (quân chủ) và được vua ban
phát cho các đẳng cấp với những quyền lực rất khác nhau (quân quyền, quan
quyền và quyền của thần dân là rất ít ỏi). Trong chủ nghĩa tư bản, mọi cơng
dân đều được thừa nhận là có quyền ngang nhau nhưng thực chất, quyền lực
chính trị lại thuộc giai cấp tư sản - giai cấp nắm tư liệu sản xuất chủ yếu trong
xã hội, quyền lực của nhân dân lao động ln bị cắt xén, bị lừa gạt và khơng
có cơ sở kinh tế để thực hiện một cách triệt để trong thực tế. Chỉ có trong chủ
nghĩa xã hội, khi tư liệu sản xuất chủ yếu đã thuộc về xã hội thì quyền lực của
nhân dân lao động mới được thực hiện trên thực tế ngày càng đầy đủ trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội.
5
Dân chủ xã hội chủ nghĩa (dân chủ vơ sản) là hình thức tổ chức nhà
nước của giai cấp công nhân với hệ thống chính trị tương ứng mà đặc trưng
cơ bản là thừa nhận quyền lực chính trị của giai cấp cơng nhân, của quảng đại
quần chúng nhân dân lao động. Trong tương quan với các hình thức tổ chức
nhà nước đã từng xuất hiện, đang tồn tại của xã hội loài người, dân chủ xã hội
chủ nghĩa được xác lập nhằm thực hiện quyền tự do bình đẳng của mọi cơng
dân chứ không phải là của thiểu số giai cấp thống trị trong xã hội; thực hiện
nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số trên thực tế, ngày càng đầy đủ nhằm đáp
ứng cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và tiến tới là của
toàn xã hội; tương ứng và phù hợp với một nền sản xuất phát triển ngày càng
hiện đại, tiên tiến, dựa trên nền tảng của một chế độ sở hữu xã hội ngày càng
hoàn toàn và đầy đủ đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một tập hợp (hệ thống) các thiết chế
nhà nước, xã hội được xác lập, vận hành và từng bước hoàn thiện nhằm đảm
bảo thực hiện trên thực tế, ngày càng đầy đủ các quyền lực chính trị của giai
cấp cơng nhân, của các giai cấp và các tầng lớp nhân dân khác và của toàn xã
hội. Cũng như mọi nền dân chủ khác trong lịch sử, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa trải qua một quá trình phát triển lâu dài với các giai đoạn từ thấp lên
cao, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện. Sự khác biệt căn bản trong
tiến trình phát triển từ thấp lên cao ấy giữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với
nền dân chủ tư sản là ở chỗ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phát triển, từng
bước hoàn thiện tương ứng với các giai đoạn phân kỳ trong quá trình phát
triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, từng bước trở thành
dân chủ tự tiêu vong.
Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa được xác lập, từng bước phát triển với tính cách là một
hình thức nhà nước, một chế độ chính trị (thể chế chính trị) mà trong đó các
phương tiện, cơng cụ cùng với một hệ thống các tổ chức thiết chế chính trị -
6
xã hội của nền dân chủ được xác lập nhằm đảm bảo quyền lực chính trị thuộc
về tất cả các công dân trong xã hội (không bao gồm những người mất quyền
công dân) của tất cả các giai cấp mà trước hết là của giai cấp công nhân, các
giai cấp và các tầng lớp nhân dân khác có lợi ích căn bản thống nhất, phù hợp
với lợi ích của giai cấp cơng nhân; quyền lực đó được thiết lập, được thực
hiện trên thực tế ngày càng đầy đủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
thơng qua một hình thức nhà nước thích hợp nhằm quản lý một cách có hiệu
quả q trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới xã hội xã hội
chủ nghĩa, tiến lên chủ nghĩa cộng sản và nhằm thực hiện thắng lợi sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân.
1.1.2 Đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
- Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mang tính lịch sử
- Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mang ban chất giai cấp
của giai cấp công nhân, đồng thời là nền dân chủ đại chúng, dân chủ cho đại
đa số
- Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ có tính chất dân tộc,
đồng thời lại mang tính nhân loại
- Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cuối cùng trong lịch sử -
là nền dân chủ tự tiêu vong
1. 2. Cấu trúc của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
a. Chủ thể quyền lực của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là toàn thể nhân
dân, trước hết là giai cấp công nhân, các giai cấp và tầng lớp nhân dân lao
động
7
b. Hệ thống các tổ chức, thiết chế đại diện cho chủ thể của dân chủ xã
hội chủ nghĩa bao gồm đảng cộng sản, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và các đồn thể chính trị - xã hội
c. Hệ thống cơ chế, công cụ, phương tiện... thực thi dân chủ, bảo đảm
sự thống nhất giữa quan hệ trao quyền lực với nhận quyền lực, giữa thực thi
quyền lực với giám sát thực thi quyền lực
8
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1. Thực trạng phát huy dân chủ ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ
lên CNXH
Khi xác định đường lối đối mới nói chung, Đảng ta vẫn khẳng định
rằng, nền tảng tư tưởng lý luận của cách mạng nước ta vẫn là chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. chính trị, phát huy dân chủ ở Việt Nam hiện
nay, Đảng ta luôn căn cứ vào những nguyên lý cơ bản mà chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng vơ sản nói chung và đảng
cầm quyền nói riêng; về thiết lập và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa; về xây dựng và phát huy vai trị của đồn thể nhân dân; về nâng
cao ý thức và năng lực thực hành dân chủ của nhân dân và về mối quan hệ
giữa các bộ phận cấu thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đồng thời tiếp thu
những thành tựu khoa học của nhân loại về cuộc đấu tranh cho dân chủ hiện
nay trên thế giới nhằm làm cho quyền lực chính trị của nhân dân được thực
hiện ngày càng đầy đủ trong thực tiễn.
2.1.1 Thành tựu
Căn cứ vào thực trạng đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, phát huy
dân chủ ở Việt Nam trong hơn hai mươi năm đổi mới vừa qua Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI (2011) của Đảng đã tổng kết, đánh giá những thành
tựu và hạn chế chủ yếu của q trình đổi mới và kiện tồn hệ thống chính trị,
phát huy dân chủ ở Việt Nam trong hơn hai mươi năm đổi mới vừa qua:
Một là, dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đồn kết
toàn dân tộc được củng cố.
9
Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm
phát huy hơn nữa quyền làm chủ, bảo đảm lợi ích của nhân dân, vai trò giám
sát của nhân dân đối với hoạt động của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước,
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Cơng tác dân vận của hệ thống
chính trị có nhiều đổi mới cả về nội dung và hình thức. Các cấp ủy đảng,
chính quyền lắng nghe, tăng cường đối thoại với các tầng lớp nhân dân, tôn
trọng các loại ý kiến khác nhau. Dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức và xã
hội được mở rộng, nâng cao; quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt
hơn. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, xử lý các hành vi
vi phạm pháp luật được coi trọng.
Hai là, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy
mạnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động được nâng lên.
Quốc hội tiếp tục được kiện tồn về tổ chức, có nhiều đổi mới, nâng
cao chất lượng hoạt động. Hệ thống pháp luật được bổ sung. Hoạt động giám
sát đã tập trung vào những vấn đề bức xúc, quan trọng nhất của đất nước.
Việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân
sách nhà nước, các dự án, cơng trình trọng điểm quốc gia có chất lượng và
thực chất hơn. Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Hội đồng Dân tộc, các ủy ban
của Quốc hội có nhiều cải tiến về nội dung, phương pháp cơng tác: đề cao
trách nhiệm của đại biểu Quốc hội.
Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ được sắp xếp, điều chính, giảm
đầu mối theo hướng tổ chức các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Quản lý,
điều hành của Chính phủ, các bộ năng động, tập trung nhiều hơn vào quản lý
vĩ mô và giải quyết những vấn đề lớn. quan trọng. Cải cách hành chính tiếp
tục được chú trọng, đã rà soát, bước đầu tổng hợp thành bộ thủ tục hành chính
thống nhất và cơng bố cơng khai. Việc thực hiện thí điểm đổi mới về tổ chức
10
bộ máy chính quyền địa phương (khơng tổ chức hội đồng nhân dân quận,
huyện, phường) được tập trung chỉ đạo để rút kinh nghiệm.
Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp có một số đổi mới. Việc
tăng thẩm quyền cho tòa án cấp huyện, nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên tồ, đề cao vai trị của luật sư trong tó tụng được thực hiện bước đầu có
kết quả. Việc thực hiện các thủ tục tố tụng ngày càng tốt hơn, hạn chế được
tình trạng diều tra, truy tố, xét xử oan, sai hay bỏ lọt tội phạm. Chất lượng
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được nâng lên.
Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí và Luật
Phịng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được chỉ
đạo tích cực, đạt một số kết quả. Nhiều vụ án tham nhũng được đưa ra xét xử.
Trên một số lĩnh vực, lãng phí, tham nhũng từng bước được kiềm chế.
Ba là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường đạt một số
kết quả tích cực.
Công tác lý luận đã chủ động nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn của công cuộc đổi mới, diễn biến mới của tình hình thế giới; cơng tác
tun truyền, giáo dục chính trị tư tưởng có đổi mới. Coi trọng hơn nhiệm vụ
xây dựng đạo đức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; tập trung chỉ đạo có
kết quả bước đầu cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”, gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chủ động hơn trong
dấu tranh chống “diễn biến hịa bình”, bác bỏ các quan điểm sai trái. luận điệu
tuyên truyền của các thế lực thù địch; công tác tổ chức, cán bộ được triển khai
thực hiện tương đối đồng bộ; tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, nhà nước các
cấp được sắp xếp, kiện toàn theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Đã xây
dựng, bổ sung các quy định về chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động
và lề lối làm việc của mỗi tổ chức; ban hành nhiều quy chế phối hợp giữa các
11
cơ quan trong hệ thống chính trị; nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn
về công tác cán bộ được thể chế hóa, cụ thể hóa thành các quy chế, quy định.
Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng,
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt được một số kết quả; chú trọng hơn
xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, lĩnh vực trọng yếu, có
nhiều khó khăn. Công tác phát triển, quản lý, nâng cao chất lượng đảng viên
được quan tâm chỉ đạo, số lượng đảng viên mới kết nạp hàng năm đều tăng;
đã có nhiều đảng viên trước đây công tác ở các cơ quan đảng, nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang, doanh nghiệp nhà nước, tham gia
phát triển kinh tế tư nhân để làm giàu chính đáng cho bản thân, đóng góp tích
cực vào phát triển kinh tế - xã hội. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được
coi trọng, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Phương thức lãnh đạo của
Đảng tiếp tục được đổi mới, vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy
tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Việc
mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng được chú trọng; đã thí điểm chủ
trương đại hội đảng bầu trực tiếp ban thường vụ, bí thư, phó bí thư. Phong
cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo đảng từ Trung ương đến cơ sở
tiếp tục được cải tiến theo hướng sâu sát cơ sở, gần gũi nhân dân, tăng cường
đôn đốc, kiểm tra, giám sát.
Bốn là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể nhân dân phát huy
tốt hơn vai trị tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực
hiện có hiệu quả vai trị giám sát nhân dân và phản biện xã hội đối với hoạt
động của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp
tục được mở rộng và tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng. dân chủ, văn minh.
12
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt hơn
vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, mở rộng tổ
chức, phát triển đoàn viên, hội viên, tổ chức nhiều phong trào thi đua, nhiều
cuộc vận động có hiệu quả thiết thực...; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia quản lý nhà
nước, quản lý xã hội, góp phần tích cực vào những thành tựu của đất nước.
Năm là, từng bước nâng cao nhận thức về mối quan hệ giữa các bộ
phận cấu thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và đạt được những kết quả ban
đầu trong việc giải quyết những mối quan hệ đó trên cơ sở đồn kết thống
nhất, bình đẳng, tơn trọng lẫn nhau để tạo điều kiện cho mỗi bộ phận phát huy
có hiệu quả chức năng của mình, đồng thời tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả
nền dân chủ, bảo đảm cho quyền lực chính trị của nhân dân được thực hiện
ngày càng đầy đủ trong thực tiễn.
2.1.2. Thiếu sót
Cùng với việc nêu ra những thành tựu, Đại hội cũng chỉ ra những tồn
tại cần tiếp tục khắc phục trong thời gian tới, đó là: Một là, dân chủ và sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ.
Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị
vi phạm. Việc thực hành dân chủ cịn mang tính hình thức; có tình trạng lợi
dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến
trật tự, an toàn xã hội.
Chủ trương; quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về
quyền và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được thể chế đầy đủ
thành pháp luật; hoặc đã thể chế hóa nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc;
công tác kiểm tra, đôn đốc chưa thường xuyên; giữa chủ trương và tổ chức
thực hiện còn cách biệt. Việc tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu hút nhân
13
dân tham gia các phong trào, cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc, các đồn
thể nhân dân cịn hạn chế. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở.
Hai xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu
cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước. Năng lực xây dựng thể chế, quản
lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ
quan còn chưa hợp lý, biên chế cán bộ, công chức tăng thêm; chức năng,
nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, cịn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ
cán bộ, cơng chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới
của đất nước. Cải cách hành chính chưa đạt u cầu đề ra; thủ tục hành chính
cịn gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu
quả quản lý của nhà nước trên một số lĩnh vực yếu; phân cấp mạnh nhưng
thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương xã hội khơng nghiêm. Cải cách tư
pháp cịn chậm, chưa đồng bộ. Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử
trong một số trường hợp chưa chính xác; án tồn đọng, án bị hủy, bị cải sửa
còn nhiều.
Cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề
ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn cịn nghiêm trọng, với những biểu
hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội.
Ba là, cơng tác xây dựng Đảng cịn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được
khắc phục.
Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được
một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của
cơng tác tư tưởng còn hạn chế; thiếu sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu,
thủ đoạn “diễn biến hịa bình”.
14
Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà
còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu
kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin
của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất
nước.
Ý thức và năng lực lãnh đạo của đảng viên và tổ chức đang chưa đáp
ứng một số yêu cầu trong việc thực hiện nhiệm vụ tinh gọn và nâng cao hiệu
quả hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội;
trong việc xác định và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ và
mối quan hệ giữa chúng.
Việc đổi mới cơng tác cán bộ cịn chậm; tình trạng chạy chức, chạy
quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, huân chương chưa được khắc phục và công
tác cán bộ thiếu tầm nhìn xa. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của khơng ít
tổ chức đảng cịn thấp; việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp
tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cịn chậm, vai trò của tổ
chức đảng ở đây mờ nhạt.
Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và
thi hành kỷ luật đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao;
chưa coi trọng việc kiểm tra, giám sát thực hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị,
nghị quyết, thi hành Điều lệ Đảng, kiểm tra, giám sát phịng ngừa tiêu cực và
phát huy nhân tố tích cực. Nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ
chức đảng chậm được phát hiện.
Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn
diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Kỷ luật, kỷ cương
ở nhiều tổ chức đảng khơng nghiêm. Sự đồn kết, nhất trí ở khơng ít cấp ủy
15
chưa tốt. Nguyên tắc tập trung dân chủ còn bị vi phạm, ảnh hưởng đến sự
đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các đồn thể chính trị - xã hội trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới;
chưa quan tâm đúng mức công tác dân vận; nội dung, phương thức vận động,
tập hợp quần chúng vẫn nặng tính hành chính. Chức năng, nhiệm vụ của đảng
đồn, ban cán sự đảng chưa được xác định rõ ràng, cụ thể nên hoạt động còn
lúng túng. Phong cách, lề lối làm việc đổi mới chậm; hội họp vẫn nhiều.
2.2. Phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
quyền dân chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay
2.2.1 Phương hướng và giải pháp cơ bản nâng cao năng lực lãnh đạo
chính trị và sức chiến đấu của Đảng với phát huy quyền dân chủ của nhân
dân ở nước ta hiện nay
- Phương hướng và giải pháp cơ bản nâng cao năng lực lãnh đạo chính
trị và sức chiến đấu của Đảng
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
thực trạng về nâng cao năng lực lãnh đạo chính trị và sức chiến đấu của Đảng,
chúng ta cần tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo chính trị và sức chiến đấu
của Đảng nhằm phát huy quyền dân chủ của nhân dân theo phương hướng cơ
bản sau: kết hợp xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện với xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa hoạt động có hiệu quả; với phát huy vai trị tham
gia thực hiện, kiểm tra, giám sát và phản biện xã hội của các đoàn thể nhân
dân; nâng cao ý thức, trình độ năng lực hoạt động dân chủ của nhân dân; giải
quyết tốt mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa.
16
- Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo chính trị
và sức chiến đấu của Đảng với phát huy quyền dân chu của nhân dân ở nước
ta hiện nay Một là, tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản
chất giai cấp cơng nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính
trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng
trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn
với nhân dân. Hai là, tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với tồn bộ sự nghiệp cách mạng nói chung và hoạt động của từng
thành tố trong hệ thống chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói riêng.
Ba là, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc; việc đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục - đào tạo nói
chung và giáo dục chính trị - xã hội nói riêng nhằm nâng cao trình độ văn
hóa dân chủ của cán bộ và nhân dân; tiếp tục thực hiện có hiệu quả Cuộc vận
động “Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ
Chí Minh” trong tồn Đảng, tồn qn và tồn dân, góp phần nâng cao hiệu
quả cuộc đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí hiện nay. Bốn là,
lãnh đạo q trình hồn thiện những thiết chế thực hiện dân chủ hóa đời
sống xã hội, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thực hiện có
hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chế độ dân
chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Năm là, lãnh đạo việc tổ chức phong trào thi đua yêu nước, xây dựng
khối đại đồn kết tồn dân nhằm thực hiện có hiệu quả đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và các chương trình hoạt động của các đồn thể
nhân dân.
17