Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Đề án kinh tế phát triển mô hình kinh tế của hàn quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.51 KB, 31 trang )

ĐỀ TÀI : MƠ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA HÀN QUỐC VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Lời mở đầu
1) Tính tất yếu phải nghiên cứu đề tài này :
Hiện nay khu vực hóa và tồn cầu hóa đang là xu hướng chi phối chủ yếu trong thế giới
hiện đại.Mỗi quốc gia đều đặt mục tiêu phải chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới.Quá trình đó địi hỏi các quốc gia phải có một đầu tàu kinh tế thực sự
thúc đẩy nền kinh tế đi lên mạnh mẽ, đủ sức cạnh tranh với nước ngoài và tìm được chỗ
đứng trên thị trường thê giới vốn rộng mở nhưng vô cùng khắc nghiệt.Những đầu tàu
kinh tế đó chính là các tập đồn kinh tế. Tại các nước trên thế giới tập đồn kinh tế đã có
bề dày lịch sử từ hàng trăm năm nay và thực sự đã trở thành một nhân tố vô cùng quan
trọng trong nền kinh tế. Còn ở Việt Nam khái niệm tập đoàn kinh tế chỉ mới xuất hiện từ
những năm cuối của thế kỷ trước.Chính vì thế những nghiên cứu về tập đoàn kinh tế ở
Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn đều có nhiều hạn chế.Vì vậy việc nghiên cứu mơ
hình tập đồn kinh tế trở thành một tất yếu khách quan.
Việt Nam thuộc Châu Á- khu vực trong những năm gần đây được đánh giá là năng động
nhất thế giới. Cả thế giới đã phải hướng sự chú ý của mình vào Châu Á khi chứng kiến sự
phát triển thần kỳ về kinh tế của châu lục này . “Sân khấu thế giới đang dịch chuyển sang
Châu Á” –đó là đánh giá mới đây nhất của các nhà kinh tế thế giới. Và đóng vai trị quan
trọng nhất trong nền kinh tế Châu Á phải kể đến khu vực Đông Bắc Á với 3 nền kinh tế
Nhật Bản ,Trung Quốc, Hàn Quốc. Có một đặc điểm chung đáng lưu ý nhất ở các quốc
gia này là nhân tố đóng vai trị quan trọng nhất trong nền kinh tế của họ đó chính là các
tập đồn kinh tế. Ở Nhật Bản nó có tên gọi Zaibatsu, ở Trung Quốc là Jituan Gongsi và ở
Hàn Quốc được gọi là Chaebol.Đây là 3 mơ hình tập đồn kinh tế tiêu biểu nhất ở Châu
Á.

Đề án này được nghiên cứu xuất phát từ nhận thức quan trọng của mơ hình tập đồn kinh
tế trong nền kinh tế thế giới hiện đại. Đề án chỉ xin nghiên cứu một mơ hình tập đồn tiêu
biểu và từ đó rút ra những định hướng cho phát triển mơ hình tập đồn kinh tế ở Việt
Nam. Tên đề án:


“Mơ hình tập đồn kinh tế Chaebol Hàn Quốc.Bài học kinh nghiệm và chính sách phát
triển mơ hình tập đồn kinh tế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”.
Mơ hình tập đồn kinh tế Chaebol của Hàn Quốc từ lâu đã được đánh giá là một mơ hình
tập đồn kinh tế điển hình.Nhờ có các Chaebol mà nền kinh tế Hàn Quốc mới có thể trỗi
dậy trong một thời gian ngắn.Cho nên khi nghiên cứu về mơ hình tập đồn ta khơng nên
bỏ sót mơ hình này.
Bên cạnh đó, Hàn Quốc hiện nay được coi là đối tác thương mại và đầu tư lớn thứ 4 ở
Việt Nam.Nền kinh tế của Hàn Quốc hiện nay vẫn bị chi phối chủ yếu bởi hệ thống các
Chaebol.Cho nên nghiên cứu mơ hình này là rất cần thiết.
2)Mục đích nghiên cứu:
Việt Nam hiện nay các tập đồn kinh tế mới được hình thành và phát triển nên vấp phải
nhiều hạn chế. Nghiên cứu về Chaebol- một trong những mơ hình tập đồn kinh tế tiêu
biểu nhất Châu Á sẽ giúp chúng ta hiểu rõ , rút kinh nghiệm và đưa ra chính sách cũng
như biện pháp hiệu quả để phát triển mơ hình tập đồn phù hợp với xu thế nhưng vẫn đặc
sắc Việt Nam.
Việt Nam và Hàn Quốc thiết lập quan hệ toàn diện đến nay đã được 16 năm.Qua thời
gian đó Hàn Quốc đã trở thành một trong những đối tác quan trong nhất của Việt Nam.
Nghiên cứu các tập đồn mà ảnh hưởng của nó chi phối toàn bộ nền kinh tế Hàn Quốc sẽ
giúp ta có những đối sách phù hợp trong q trình hợp tác kinh tế với nước này và góp
phần thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ kinh tế nói riêng và mối quan hệ tồn diện nói chung
Việt Nam-Hàn Quốc.
3) Đối tượng-phạm vi:
Các Chaebol ở Hàn Quốc ra đời từ những năm 50 ở Hàn Quốc nên phạm vi nghiên cứu
sẽ được bắt đầu từ khi các Chaebol được ra đời cho đến nay.

Bên cạnh đó đề án cũng nghiên cứu về các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam từ giai đoạn hình
thành cho đến nay.
4) Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề án là phương pháp thu thập số liệu, phân tích,
tổng hợp …

5) Kết cấu đề án:
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục thì đề án gồm 3 chương
sau đây:

Chương I. Tổng quan và thực trạng về mơ hình Chaebol Hàn Quốc

1.1. Khái niệm ,lịch sử hình thành và phát triển của Chaebol

1.2. Đặc điểm Chaebol

1.3. Ưu nhược điểm và tác động của Chaebol tới nền kinh tế Hàn Quốc

Chương II. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

1.1.Bài học kinh nghiệm thực tiễn từ việc cải tổ Chaebol

1.1.1. Định hướng lại vai trị của chính phủ - một điều kiện then chốt cho thành công của
cải tổ

1.1.2. Đảm bảo tính ổn định và nhất quán của chính sách

1.1.3.Chính phủ cần tạo dựng được sự đồng thuận cao trong giới kinh doanh và xã hội
đối với công cuộc cải tổ

1.1.4.Tăng cường tính rõ ràng và mềm dẻo trong việc hoạch định chính sách

1.1.5.Tiếp tục tạo dựng mơi trường vĩ mơ thuận lợi cho khu vực tổng công ty

1.2.Khả năng vận dụng bài học kinh nghiệm Hàn Quốc vào quản lý các tổng công


ty Việt Nam

1.2.1. So sánh các mơ hình Tập đồn kinh tế ở Việt Nam và Hàn Quốc

1.2.2.Vận dụng vào Việt Nam

Chương III. Sự phù hợp của mơ hình Chaebol vào Việt Nam

1.1. Sự phù hợp của mơ hình chaebol ở Việt Nam
1.2. Ví dụ về sự thất bại của tập đoàn Tàu thủy Vinashin
1.3. Giải pháp
KẾT LUẬN…
Tài liệu tham khảo…

Từ viết tắt

 WTO : Tổ chức thương mại thế giới

 NICs: Các nước công nghiệp mới

 OECD: Hợp tác kinh tế và phát triển

 IMF: Quỹ tiền tệ thế giới

 CEO: Lãnh đạo cấp cao

 GDP: Tổng sản phẩm quốc dân

 PPP: Sức mua tương đương


 AFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

 ACFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc

 FTC: Uỷ ban thương mại Hàn Quốc

CHƯƠNG I.
TỔNG QUAN VÀ THỰC TRẠNG VỀ MƠ HÌNH CHAEBOL HÀN QUỐC

1.1. Khái niệm ,lịch sử hình thành và phát triển của Chaebol

1.1.1. Khái niệm

Chaebol là từ phiên âm tiếng Hàn để chỉ các TĐKT. Hiện nay Chaebol không được dịch
ra mà được sử dụng như một danh từ riêng để chỉ TĐKT đặc trưng của Hàn Quốc.
Chaebol được hiểu là tổ hợp công nghiệp một biến thể thuộc sở hữu của các gia đình.
Mỗi Chaebol gồm khoảng 40-50 cơng ty tuy khơng có liên hệ với nhau về mặt kinh tế, kỹ
thuật nhưng lại thuộc sở hữu của cùng một gia đình. Về kết cấu, các Chaebol là các
conglomerate (tập đồn) gia đình trong đó các thành viên của gia đình đóng vai trị chủ
đạo. Về nguồn gốc truyền thống, chúng vẫn là các doanh nghiệp kiếu gia đình phong kiến
di thực lại và phát triển lên dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Các dòng họ tạo lập ban đầu là
những tộc trưởng tạo dựng công ty, do đó cơ cấu tổ chức của nó mang hình thức tập đồn
đẳng cấp.

1.1.2. Nguồn gốc hình thành và phát triển của các Chaebol
Giữa thế kỷ XX, nền kinh tế Hàn Quốc là nền kinh tế nhỏ và dựa vào nông nghiệp

là chủ yếu. Tuy nhiên, vào năm1961, các chính sách của Tổng thống Park Chung Hee đã
thúc đẩy q trình cơng nghiệp hố mau lẹ thông qua hoạt động kinh doanh quy mô lớn.
Chính sách cơng nghiệp hố của chính phủ đề ra theo hướng đầu tư mới, nghĩa là chaebol

được bảo đảm vay vốn từ khu vực ngân hàng. Nhờ đó, chaebol đã đóng vai trị chủ đạo

trong việc phát triển các ngành công nghiệp, thị trường mới và sản xuất hàng xuất khẩu,
góp phần quan trọng đưa Hàn Quốc trở thành một trong những con hổ Đông Á.

Mặc dù chương trình cơng nghiệp hố chủ đạo của Hàn Quốc mới bắt đầu từ đầu
những năm 1960 nhưng sự phân biệt đẳng cấp trong các doanh nghiệp đã xuất hiện trong
nền kinh tế- chính trị từ những năm 1950. Trong suốt thời kỳ là thuộc địa của Nhật hiếm
có người dân Hàn Quốc nào sở hữu hoặc điều hành doanh nghiệp quy mô lớn. Sau khi
quân Nhật rút khỏi Hàn Quốc năm 1945, một số doanh nhân Hàn Quốc chiếm được tài
sản từ các cơ sở sản xuất của Nhật, một số trong đó đã phát triển thành Chaebol vào
những năm 1990.

Khi quân đội lên nắm chính phủ năm 1961, các lãnh đạo quân đội thông báo rằng
họ sẽ nhổ tận gốc nạn tham nhũng từng gây rắc rối cho chính quyền Rhee và loại bỏ
những bất công trong xã hội. Nhiều nhà tư bản công nghiệp lãnh đạo đã bị bắt và buộc tội
tham nhũng song chính phủ mới nhận thấy cần phải có sự giúp đỡ từ phía các nhà doanh
nghiệp để hồn thành các kế hoạch đầy tham vọng về việc hiện đại hố nền kinh tế của
chính phủ. Chính phủ đã đi đến một sự thoả hiệp mà theo đó các lãnh đạo doanh nghiệp
bị buộc tội phải nộp tiền phạt cho chính phủ. Kể từ đó, sự hợp tác giữa các lãnh đạo
doanh nghiệp và các quan chức chính phủ ngày càng chặt chẽ trong q trình hiện đại hố
nền kinh tế.

Sự hợp tác giữa Chaebol và chính phủ đóng vai trị thiết yếu đối với sự tăng trưởng
kinh tế về sau. Do áp lực từ yêu cầu cấp bách đưa nền kinh tế từ công nghiệp nhẹ và sản
xuất hàng tiêu dùng sang cơng nghiệp nặng và hố chất, cơng nghiệp sản xuất hàng hố
thay thế nhập khẩu, các chính khách và các nhà lập kế hoạch của chính phủ đã dựa vào ý
kiến và sự hợp tác với lãnh đạo các Chaebol. Chính phủ cung cấp kế hoạch chi tiết về
việc phát triển cơng nghiệp cịn Chaebol thực hiện các kế hoạch đó. Tuy nhiên, q trình
cơng nghiệp hố do Chaebol dẫn đầu vơ hình chung đã thúc đẩy tập trung độc quyền vốn

và các hoạt động kinh tế sinh lợi vào tay của một số hữu hạn các tập đoàn kinh tế. Park đã
sử dụng Chaebol như một phương tiện tăng trưởng kinh tế, khuyến khích xuất khẩu, đi
ngược lại chính sách của Rhee là dựa vào nhập khẩu, trên cơ sở đó cũng thiết lập hạn
ngạch.

Sự phát triển mạnh mẽ của Chaebol bắt đầu từ đầu những năm 1960, gắn liền với
việc mở rộng xuất khẩu của Hàn Quốc. Tính đa dạng hố của sản phẩm là nhân tố quyết
định sự phát triển của Chaebol, các yếu tố như đổi mới, sẵn sàng phát triển dòng sản
phẩm mới giữ vai trò then chốt. Trong những năm 1950-1960, Chaebol tập trung vào
hàng dệt may; đến giữa thập niên 70- 80, cơng nghiệp nặng, hố chất và quốc phịng
chiếm ưu thế, sang thập niên 90, sự phát triển thực sự diễn ra trong công nghiệp điện tử
và công nghiệp kỹ thuật cao. Chaebol cũng là nguyên nhân của sự thay đổi từ thâm hụt
thương mại năm 1985 thành thặng dư thương mại năm 1986. Tuy nhiên, cán cân tài
khoản vãng lai đã giảm từ hơn 14 tỷ USD năm 1988 xuống còn 5 tỷ USD năm 1989.Cuối
thập niên 80, Chaebol đã độc lập và vững mạnh về tài chính nên khơng cần sự hỗ trợ và
bảo đảm tín dụng của chính phủ nữa. Đến thập niên 1990, Hàn Quốc là một trong các
NICs lớn mạnh nhất, tự hào về mức sống có thể so sánh với các nước cơng nghiệp.

Tổng thống Kim Young-sam đã bắt đầu thử thách Chaebol nhưng cho đến cuộc
khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 thì những hạn chế của hệ thống này mới bộc lộ
rõ nét. Trong số 30 Chaebol lớn nhất thì 11 đã sụp đổ từ giữa tháng 7 năm 1997 đến
tháng 6 năm 1999. Chaebol được đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất hướng tới xuất
khẩu, bỏ qua thị trường trong nước và đặt nền kinh tế trước mọi sự suy sụp của thị trường
nước ngồi. Trong q trình cạnh tranh lẫn nhau, các Chaebol đã tạo ra công suất vượt
quá khả năng chống chịu của mình: vào thời kỳ tiền khủng hoảng Hàn Quốc với số dân
xếp thứ 26 trên thế giới đã có 7 nhà máy sản xuất ơ tơ lớn.

Nhiều Chaebol đã mắc nợ chồng chất do rót vốn mở rộng hoạt động của mình,
khơng chỉ các ngân hàng công nghiệp nhà nước mà cả các ngân hàng độc lập và các chi
nhánh cung cấp dịch vụ tài chính thuộc sở hữu của các ngân hàng đó. Hậu quả của khủng

hoảng khi các Chaebol khơng trả được nợ làm cho các ngân hàng không thể thu lại nợ và
xố sổ nợ xấu mà khơng bị phá sản. Thí dụ điển hình nhất là sự sụp đổ của tập đoàn
Daewoo giữa năm 1999 với khoản nợ chưa thanh toán là 80 tỷ USD. Vào thời điểm đó,
đây là vụ phá sản doanh nghiệp lớn nhất trong lịch sử. Các cuộc điều tra cũng cho thấy
nạn tham nhũng lộng hành trong các Chaebol, đặc biệt là hối lộ và kế tốn khơng trung
thực.

1.2. Đặc điểm Chaebol

Mặc dù kinh doanh theo những phương thức khác nhau, nhưng các Chaebol vẫn có
các đặc trưng chủ yếu sau:

-Các Công ty thành viên của Chaebol hoạt động kinh doanh chuyên ngành hoặc đa
ngành (chủ yếu là đa ngành)

Mọi quyết định quan trọng của Chaebol đều chỉ được quyết định ở cấp cao nhất, tức
chủ tịch và mọi nhân viên bắt buộc phải tuân thủ. Tuy nhiên các quan chức ở các cấp làm
việc cũng góp phần quan trọng trong quá trình đi đến quyết định cuối cùng

Chaebol là các thực thể độc lập và có quyền lực cao trong nền kinh tế, chính trị,
song đơi khi chaebol cũng hợp tác với chính phủ trong các lĩnh vực quy hoạch và đổi
mới. Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc khuyến khích cạnh tranh giữa các chaebol
trong một số lĩnh vực nhất định để tránh tình trạng độc quyền tuyệt đối. Vai trò của đại
doanh nghiệp đã mở rộng tới vũ đài chính trị. Năm 1988 một thành viên của một tập đoàn
gia đinh kiểu chaebol, Chong Mong-jun, Chủ tịch các cơ sở công nghiệp nặng Hyundai,
đã thành công trong việc chạy đua vào Quốc hội. Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp khác
cũng được chọn làm thành viên Quốc hội thông qua hệ thống bầu cử theo tỉ lệ. Hyundai
thậm chí đã góp phần tốt đẹp hố quan hệ giữa Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc từ năm
2000.


-Về cơ cấu nhân sự trong Chaebol: phân cấp, phân tầng chặt chẽ, rõ rệt theo kiểu
hình tháp. Kiểu tổ chức này nhằm thúc đẩy, khuyến khích các thành viên trong Chaebol
luôn phấn đấu đạt kết quả cao trong vị trí của mình và phấn đấu đạt địa vị nhất định trong
cơ cấu đó, song cũng có hạn chế của một thể chế quản lý truyền thống kiểu “kim tự
tháp”.Cơ cấu các Chaebol Hàn Quốc đều chịu sự chi phối của gia đình sáng lập và hậu
duệ. Mức độ chi phối tương đối chặt chẽ và chiếm vị trí quan trọng trong tập đồn. Qua
đó chúng ta thấy trong các Chaebol phương thức quản lý theo quan hệ gia đình và đẳng
cấp cao. Mối quan hệ chặt chẽ và đẳng cấp này đã đưa Chaebol trở thành một “nền cộng
hoà” riêng, chi phối và ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế quốc gia.

-Về sở hữu, các Chaebol duy trì theo chế độ sở hữu “huyết thống”, tức là thường do
các cá nhân sáng lập ra nó kiểm soát và tuân thủ theo truyền thống cha truyền con nối.
Các thành viên trong gia đình theo thứ tự (thường là con trai cả của gia đình thay cha nắm
quyền kiểm soát và quản lý tài sản để kế tục sự nghiệp của cha ông để lại). Theo “Uỷ ban
bn bán cơng bằng Hàn Quốc” thì phần sở hữu của các gia đình trong 30 Chaebol lớn
nhất tăng từ 43,8% (1995) lên 44,1 % (1996).

-Về cơ cấu quyền lực trong chính quyền cũng như trong kinh doanh, các TNC hoàn
toàn nhất quán với các giáo lý của Khổng Tử và các giá trị truyền thống Hàn Quốc. Vì
vậy, mơ hình này dường như chỉ thực hiện được trong một nền chuyên chế độc tài. Tất cả
mọi người dân và xã hội đã chấp nhận nó như một tập quán và truyền thống kinh doanh.

-Về cơ chế điều hành, trong mỗi Chaebol đều có một cơ quan điều hành riêng, cho
dù tên gọi khác nhau, các cơ quan này đều có chức năng giúp chủ tịch tập đồn phối hợp
hoạt động của các công ty chi nhánh, điều hành nhân sự, tài chính, đầu tư nghiên cứu và
triển khai (R&D). Bằng các hoạt động cụ thể, các cơ quan điều hành góp phần nâng cao
tính hiệu quả của tập đồn nói chung, các cơng ty chi nhánh nói riêng. Do quan hệ đẳng
cấp, chủ tịch Chaebol có vai trò chi phối các thành viên khác của hội đồng. Nhìn chung,
chủ tịch Chaebol mang tính độc đốn, gia trưởng, đó là đặc thù nổi bật nhất trong các tổ
chức kinh doanh Hàn Quốc


1.3. Ưu nhược điểm và tác động của Chaebol tới nền kinh tế Hàn Quốc

1.3.1. Ưu điểm

Sau hơn 30 năm tiến hành cơng nghiệp hố, kinh tế Hàn Quốc phát triển nhanh
chóng. Hàn Quốc từ một trong những nước nghèo nhất thế giới đã trở thành một nước có
nền kinh tế đứng thứ 11 thế giới.

Trong sự phát triển thần kỳ của Hàn Quốc thì đóng góp của Chaebol là vơ cùng to
lớn. Hiện nay, Hàn Quốc có khoảng hơn 200 Chaebol được coi là đầu tàu kéo nền kinh tế

phát triển với tốc độ tăng GDP cao chưa từng thấy. Một số mặt hàng của Hàn Quốc có
khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Chính các Chaebol đã tạo nên sự thần kỳ
trong xuất khẩu của nước này với tốc độ tăng 1000 lần trong vong 30 năm qua ( từ 100
triệu USD năm 1965 lên 100 tỷ USD năm 1995). Năm 1994, bốn Chaebol lớn nhất Hàn
Quốc là Samsung, Hyundai, Daewoo và LG tuy chỉ chiếm 3% số cơng nhân tồn quốc
nhưng lại chiếm 57% giá trị xuất khẩu của cả nước. Năm 1995, ba mươi Chaebol lớn
nhất Hàn Quốc nắm giữ 44,9% tổng lượng hàng hố tiêu thụ, 41% trong tổng gía trị tăng
và 18,5% tổng số lao động. Các Chaebol giữ vị trí thống trị trên thị trường của nhiều loại
sản phẩm và là nơi cung cấp công ăn việc làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Năm
1997, ba mươi Chaebol lớn nhất Hàn Quốc chiếm 2/3 GNP của Hàn Quốc trong đó 10
Chaebol hàng đầu chiếm 1/2 GNP.

Sự thành cơng của Chaebol và những đóng góp của nó vào sự phát triển nền kinh tế Hàn
Quốc là không thể chối cãi

1.3.2. Nhược điểm

Một là: Sự thao túng quá lớn của các Chaebol với nền kinh tế Hàn Quốc

Địa vị và quyền lực đặc biệt của Chaebol được Chính phủ nâng đỡ đã dẫn đến thái
độ bất chấp trách nhiệm xã hội. Nó tạo nên sự độc quyền về giá cả gây lạm phát triền
miên, kèm theo tệ nạn bn lậu, trốn thuế. Do tính ích kỷ của hệ thống gia đình trị, chế
độ làm việc nhiều giờ khi tiền lương thấp, giá cả bị đẩy lên cao đã dẫn đến tình trạng
khoảng cách giàu - nghèo tăng và đe dọa sự ổn định xã hội.

Một lần nữa Hàn Quốc lại phải đối mặt với nghịch lý sâu sắc nhất trong phép lạ kinh tế
của mình là: Vì sao một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, tổng sản lượng lên tới 960 tỷ đơla
Mỹ lại có thể nằm trong sự kiểm sốt của một nhóm các tập đồn gia đình như Samsung,
Huyndae, Daewoo,… Theo thống kê của Ngân hàng trung ương Hàn Quốc, 30 Chaebol
lớn nhất kiểm soát tới 40% nền kinh tế.

Hai là: Làm mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu kinh tế quốc gia, công nghiệp
nhẹ bị bỏ rơi, công nghiệp nặng cũng chỉ tập trung vào một số ngành nhất định

Trong thời kỳ đầu khi đưa ra mục tiêu cải cách kinh tế sau chiến tranh, Chính phủ
Hàn Quốc đã khuyến khích các Chaebol nước này đầu tư vào các ngành công nghiệp
nặng và cơng nghiệp hóa chất. Khi đầu tư vào hai ngành này, Chaebol sẽ được hưởng ưu
đãi rất lớn của Chính phủ. Chính vì thế các Chaebol đầu tư lớn vào công nghiệp nặng,
dẫn đến công nghiệp nhẹ bị bỏ rơi. Nhưng sau đó để giảm ảnh hưởng của Chính phủ vào
kinh doanh của mình, cũng như xuất phát từ yêu cầu phải đa dạng hóa để hạn chế rủi ro
và gia tăng lợi nhuận các Chaebol đã giảm đầu tư vào công nghiệp nặng, tăng đầu tư vào
sản phẩm công nghệ cao như điện tử, điện lạnh, tài chính,… Chính điều này đã dẫn đến
sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế của Hàn Quốc.

Ba là: Sự mất cân đối trong phân bổ nguồn lực
Các Chaebol không chỉ được hưởng những ưu đãi về thuế, điều kiện thuận lợi từ
phía Chính phủ mà còn tập trung được nguồn lực và tài ngun lớn. Do đó đã dẫn tới tình
trạng những nguồn lực cần thiết cho sản xuất chỉ tập trung trong tay một nhóm Chaebol,
gây bất lợi rất lớn với những cơng ty nằm ngồi Chaebol. Số liệu cho thấy rằng có tới

94,6% các cơng ty vừa và nhỏ khơng được nhà nước đầu tư cho nghiên cứu và phát triển
khiến chúng sụp đổ kéo theo thất nghiệp và bất ổn xã hội .

Bốn là: Tình trạng vay nợ quá lớn của các Chaebol
Với sự phát triển của xu thế tồn cầu hóa, khu vực hóa cộng thêm tốc độ đa dạng
hóa diễn ra quá nhanh thì các Chaebol thường vay nợ cao để mở rộng và phát triển kinh
doanh. Thông thường họ vay từ 100-200% số vốn tự có để mở rộng kinh doanh va coi nợ
ngân hàng là nguồn lực không thể thiếu.

Đa dạng hóa mang lại những lợi ích nhất định cho sự tăng trưởng của các Chaebol
và nền kinh tế Hàn Quốc nói chung nhưng bên cạnh đó chiến lược này cũng làm cho tỷ lệ
nợ trên tổng giá trị tài sản của các Chaebol không ngừng gia tăng ( do để đa dạng hóa các

Chaebol buộc phải huy động vốn bổ sung từ bên ngồi chủ yếu là từ các tổ chức tín dụng
và các nhà đầu tư nước ngoài).

Năm là : Tình trạng tiêu cực trong hoạt động của Chaebol
Do mơ hình tổ chức khép kín của các Chaebol nên hiện tượng chuyển nhượng cổ
phần bất hợp pháp diễn ra khá thường xuyên và rất khó phát hiện các gia tộc sáng lập
Chaebol lợi dụng điều này để thu lợi bất chính. Ngồi ra tình trạng tham nhũng cũng là
một vấn đề nhức nhối.

Sáu là: Sự thiếu năng động trong điều hành của Chaebol
Các Chaebol bắt đầu bộc lộ hạn chế trước yêu cầu năng động của thị trường. Các
Chaebol được cơng nhận đã đóng góp lớn trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa đất nước, các
thương hiệu như Samsung, LG, Hyundai đã trở thành niềm tự hào của Hàn Quốc.

Tuy nhiên, bước vào thời đại tồn cầu hóa, nền kinh tế Hàn Quốc phải chuyển dần
từ chế tạo sang dịch vụ có giá trị gia tăng cao, sử dụng có hiệu quả hơn đồng vốn và lao
động, từ các đại công ty nặng nề sang các doanh nghiệp nhỏ năng động, từ cung cách

quản lý gia tộc khép kín sang các tổ chức tồn cầu, minh bạch và quản lý chun nghiệp
thì các Chaebol không đáp ứng được. Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn rất thấp, người tài khó có
cơ hội phát triển ở các Chaebol, nơi chỉ coi trọng lòng trung thành, quản lý gia trưởng,
độc đoán.

CHƯƠNG II.

BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

1.1.Bài học kinh nghiệm thực tiễn từ việc cải tổ Chaebol

1.1.1. Định hướng lại vai trị của chính phủ - một điều kiện then chốt cho thành công của
cải tổ

Sự can thiệp quá sâu của chính phủ vào lĩnh vực kinh doanh tài chính được xem là
một trong những nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng. Hơn nữa, quan hệ liên minh giữa

chính phủ và giới kinh doanh là yếu tố cản trở vai trị lãnh đạo kinh tế của chính phủ.
Tổng thống Kim Dae Jung, sau khi đắc cử đã đưa ra những quan điểm cấp tiến hơn hẳn
những chính thể trước đây. Ông cho rằng phải giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước và tự
đặt cho mình sứ mệnh phát triển song hành nền kinh tế thị trường và nền dân chủ. Để cải
tổ thành công, cần thay đổi về cơ bản mối quan hệ giữa chính phủ- ngân hàng- Chaebol.
Tổng thống mới Roh Mun Hiêng cũng đi theo quan điểm này. Quá trình cải cách kinh tế
của Hàn Quốc trong những năm qua là một quá trình mang tính hai mặt, vừa là q trình
giảm điều tiết tư nhân hố vừa là q trình tăng cường vai trị kinh tế của nhà nước. Thực
chất đó là q trình làm cho vai trị kinh tế của chính phủ thích ứng với bối cảnh mới,
chính phủ tạo khung khổ để thiết lập một nền kinh tế thị trường. Để thực hiện cải tổ,
chính phủ đã chuyển mạnh điều tiết theo kiểu chỉ huy sang điều tiết theo khuôn khổ các
thể chế. Chính phủ tập trung thực hiện vai trị lãnh đạo và tập trung mọi lực lượng trong
việc xây dựng các khuôn khổ thể chế cho “nền kinh tế thị trường tiên tiến”, đặc biệt là

các thể chế liên quan đến các doanh nghiệp và lĩnh vực tài chính. Chính phủ đã thực sự
lấy lại được sức sống của mình. Để công cuộc cải tổ đạt được những mục tiêu đặt ra,
chính phủ cần chấm dứt những can thiệp của mình vào hoạt động kinh doanh của các
Cheabol. Chính phủ cần tập trung vào việc hoạch định chính sách và hồn thiện hệ thống
pháp luật, sử dụng các cơng cụ này để điều chỉnh hoạt động các công ty thuộc khu vực
kinh tế tư nhân.

1.1.2. Đảm bảo tính ổn định và nhất quán của chính sách

Những thay đổi về môi trường hoạt động kinh doanh theo các nguyên tắc thị trường
đã tạo ra thuận lợi cho cải tổ của các cheabol. Các khung pháp luật phục vụ cho tái cơ cấu
các công ty từng bước được thiết lập. Hoạt động chức năng của ngân hàng được cải thiện,
ngân hàng đã đóng vai trị trung tâm trong việc tái cơ cấu nợ và củng cố cơ cấu tài chính
của các cơng ty. Tuy nhiên các chính sách của chính phủ thiếu tính ổn định cần thiết.
Chính phủ đã liên tục sửa đổi một số chính sách, một phần do chính phủ phải chịu sức ép
từ phía các Cheabol thơng qua Hiệp hội Cơng nghiệp Hàn Quốc. Mặc dù việc sửa đổi các

chính sách này là cần thiết nhưng nó tạo ra sự hoài nghi, thiếu tin tưởng của giới doanh
nhân, từ đó dẫn đến sự thiếu quyết tâm trong việc thực hiện các biện pháp cần thiết.

1.1.3.Chính phủ cần tạo dựng được sự đồng thuận cao trong giới kinh doanh và xã hội
đối với công cuộc cải tổ

Hàn Quốc đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Thực tiễn kinh
doanh và cách nghĩ của dân chúng chưa thay đổi một cách tương xứng với những thay
đổi của khung pháp lý. Cơ chế tự tạo động cơ cải tổ chưa hình thành. Dưới sự lãnh đạo
của chính phủ của Tổng thống Kim, nền kinh tế Hàn Quốc đã chuyển sang theo mơ hình
Anh-Mỹ, một mơ hình đối lập với mơ hình của Tổng thống Park trước đây. Sau khủng
hoảng năm 1997, mơ hình này càng khẳng định vị trí của nó và phát triển nhanh hơn.
Chính phủ của tổng thống Kim đã có những nỗ lực góp phần tạo dựng sự đồng thuận cao

trong xã hội đối với công cuộc cải cách như tham khảo rộng rãi nguyện vọng của quần
chúng và các nhóm lợi ích biểu hiện tập trung ở việc đạt được sự thoả thuận ba bên giữa
giới kinh doanh, giới lao động và chính phủ. Các Chaebol là sản phẩm của các chính sách
kinh tế của chính quyền Park, bắt dầu từ những năm 60 trong kế hoạch phát triển kinh tế
5 năm lần thứ nhất. Khi chính quyền Kim và sau này là chính quyền của Roh thực hiện
các chính sách kinh tế khác biệt so với tư tưởng của chính quyền Park như khuyến khích
đầu tư nước ngồi, bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ, tạo môi trường cạnh tranh thì chính
phủ đã gặp phải những phản đối từ phía các chaebol. Hiệp hội Cơng nghiệp Hàn Quốc là
tổ chức bảo vệ quyền lợi của các gia đình chủ sở hữu của các chaebol đã nhiều lần biểu
thị thái độ không thoả mãn với những yêu cầu mới của chính phủ. Họ phê phán những nỗ
lực của chính phủ nhằm bảo vệ và củng cố quyền tham gia vào quản lý của các cổ đông
nhỏ và cho rằng những cố gắng của chính phủ nhằm kiểm sốt cơ cấu của hội đồng quản
trị trên phương diện pháp luật, là đi ngược lại với thông lệ quốc tế. Họ đã đưa ra những
yêu cầu giảm thuế công ty, cho phép các chaebol kiểm soát ngân hàng. Trước sức ép đó,
chính phủ buộc phải dỡ bỏ từng bước giới hạn trần về đầu tư của các chaebol. Thái độ
này của chính phủ đã làm hạn chế các kết quả cải tổ. Trong giai đoạn phức tạp của cải
cách do chính khu vực kinh tế tư nhân thực hiện, vấn đề tạo sự đồng tình của xã hội, đặc

biệt là của người lao động của các công ty tiếp tục là vấn đề mà chính phủ cần quan tâm.
Đặc biệt là trong khi các chaebol thu hút một số lượng lớn lao động (chỉ tính riêng 5
chaebol lớn nhất Hàn Quốc đã tuyển dụng 600.000 công nhân) và thực hiện nhiều chức
năng xã hội như người lao động ở các chaebol ví dụ ở Hyundai được ở trong các khu nhà
riêng của Hyundai, đi làm bằng xe Hyundai, ốm đau được chữa bệnh tại bệnh viện của
Hyundai, con cái được học tại trường của Hyundai. Khơng những có ảnh hưởng tới nền
kinh tế mà các Chaebol cịn có ảnh hưởng lớn đối với xã hội. Do đó, muốn cải tổ Chaebol
thành cơng, chính phủ cần tạo được sự đồng thuận của giới doanh nghiệp và của toàn xã
hội.

1.1.4.Tăng cường tính rõ ràng và mềm dẻo trong việc hoạch định chính sách


Các cơng ty thường than phiền rằng chính phủ rất khơng rõ ràng trong việc hoạch
định các chính kinh tế. Điều này làm cho giới kinh doanh khơng nắm được những chính
sách mới hay những điều chỉnh của chính phủ đối. Khi các nhà kinh doanh ít hiểu biết về
việc chính phủ hoạch định chính sách như thế nào và nhằm mục đích gì thì họ sẽ gặp khó
khăn trong việc thực hiện các chính sách đó. Chính phủ cần quan tâm đến vấn đề cung
cấp thông tin cho các doanh nghiệp và các đối tượng khác có liên quan về quá trình hoạch
định chính sách, các định hướng về chính sách trong tương lai và những điều chỉnh
chính sách đang thực hiện. Khi chính sách của chính phủ là một trong những nguyên
nhân cơ bản dẫn đến khuynh hướng đa dạng hóa của các chaebol thì việc khắc phục tình
trạng này phải bắt nguồn từ chính việc sửa đổi các chính sách của chính phủ.Với những
chính sách phù hợp hay khơng phát huy được tác dụng, thì chính phủ cần thực hiện sửa
đổi các chính sách, tìm các biện pháp chống khủng hoảng và các cải cách địi hỏi mang
tính sáng tạo cao, phù hợp những hoàn cảnh mới của đất nước.

1.2.Khả năng vận dụng bài học kinh nghiệm Hàn Quốc vào quản lý các tổng công ty
Việt Nam

1.2.1. So sánh các mơ hình tập đồn kinh tế ở Việt Nam và Hàn Quốc

1.2.1.1. Đặc điểm chung:

Hầu hết mơ hình TĐKT nhà nước của Việt Nam hiện nay giống với Chaebol Hàn Quốc
trong thời kỳ 1960 – 1980, được Nhà nước hỗ trợ thơng qua các chính sách ưu đãi về
vốn. Các tập đoàn được ưu tiên tiếp cận vốn tín dụng. Ngân sách nhà nước có một khoản
đầu tư hỗ trợ các tập đoàn, TCT và DNNN với số tiền tăng lên hằng năm. Chính phủ
cũng đứng ra bảo lãnh cho tập đoàn đi vay nợ với lý do để thực hiện nhiệm vụ do Nhà
nước đặt hàng.

Với sự ưu đãi như vậy, các tập đoàn đã trở thành những lực lượng mạnh chi phối các
ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam. Một số lĩnh vực đã có tiến bộ vượt bậc trong thời

gian ngắn, như viễn thơng, dầu khí, đóng tàu biển.

Song chính phủ chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ đối với hoạt động của các tập đồn.
Những điều đó dẫn đến hậu quả tương tự như đã xảy ra đối với các Chaebol trong những
năm 90: các tập đoàn vay nợ lớn để mở rộng quy mô, đầu tư dàn trải vào nhiều lĩnh vực,
nhiều ngành nghề, phát triển các hoạt động ngồi ngành nghề chính, độc quyền và có khả
năng lũng đoạn thị trường, quản lý kém gây thất thoát vốn, kinh doanh thua lỗ, v.v…

Hậu quả xấu không tránh khỏi là một số tập đồn nhà nước làm ăn khơng hiệu quả, thậm
chí đứng trên bờ vực phá sản. Vinashin là trường hợp điển hình của việc lặp lại những
thất bại mà các Chaebol Hàn Quốc đã trải qua.

Nhưng các TĐKT tư nhân Việt Nam hiện nay lại giống với các Cheabol về phương thức
quản lý: đều tồn tại phương thức quản lý gia đình dẫn đến những quyết định mang tính
chủ quan.

1.2.1.2 Đặc điểm riêng:

Có thể nói, các TĐKT nhà nước và tư nhân của Việt Nam hiện nay giống như là sự phân
tách mơ hình Cheabol của Hàn Quốc.

Khác với Chaebol, các TĐKT của Việt Nam hầu hết thuộc sở hữu nhà nước. Mặt khác,
các TĐKT thế giới, hầu hết đều đi từ các các cơng ty nhỏ, hoạt động hiệu quả, tích tụ vốn
và phát triển quy mô dần trở thành các tập đoàn khổng lồ. Nhưng ở Việt Nam các tập
đoàn được thành lập dựa trên các quyết định hành chính, tập hợp nhiều DN thuộc cùng
một lĩnh vực để trở thành một nhóm DN lớn bao gồm cơng ty mẹ và các công ty con, với
hy vọng sẽ là những DN mạnh, đóng vai trị chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và sẽ đủ
sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Lãnh đạo của các tập đoàn do Chính phủ bổ nhiệm
và về thực chất họ là những cơng chức chính phủ, có nghĩa vụ tn theo những kế hoạch
và chỉ đạo của Chính phủ về định hướng phát triển ngành.


Thực tế, các mơ hình Cheabol khơng theo bất cứ lý thuyết quản trị kinh doanh nào. Các
tập đồn này khơng tn thủ các ngun tắc như tập trung vào các lĩnh vực kinh doanh
chủ chốt, thuê mướn các nguồn ngồi,… mà đa dạng hóa kinh doanh theo nhiều phương
hướng khác nhau và đang dần chiếm lĩnh thị trường thế giới. Như ta biết, 3 tập đoàn
khổng lồ của Hàn Quốc là Huyndai, LG, Samsung đã rất thành công và hiện chiếm tới
40% tổng thu nhập quốc dân Hàn Quốc. Trong khi đó, trong các doanh nghiệp nhà nước
của Việt Nam có 12 tập đồn kinh tế nhà nước nhưng mức đóng góp rất thấp.\

Điều này cho thấy các tập đoàn nhà nước của chúng ta hoạt động rất kém hiệu quả và đã
không phát huy được lợi thế được ưu đãi và hỗ trợ lớn của Chính phủ.

Trước đây, các “Chaebol” chủ yếu là bắt chước và thường chạy theo các bậc đàn anh.
Hiện thời, các “Chaebol” đang vượt lên dẫn đầu. Các tập đoàn lớn của Hàn Quốc khơng
cịn bị động chạy theo xu thế hiện hành mà đang tìm cách tạo ra xu thế mới. Trong khi
các TĐKT Việt Nam lại đang loay hay giải quyết các vấn đề về sở hữu, cơ cấu, đầu tư và
sử dụng nguồn vốn.

Về lĩnh vực hoạt động, hầu hết các Cheabol hoạt động trong lĩnh vực chế tạo, hàng cơng
nghệ và điện tử. Cịn các các TĐKT Việt Nam thì nắm giữ các lĩnh vực chủ chốt của nhà
nước như khai tác khống sản, chế biến dầu, điện,…

Cịn đối với TĐKT tư nhân Việt Nam, thì đi đúng theo quy luật thế giới là dựa trên cơ sở
tích tụ, phát triển về qui mô, vốn và do nhu cầu ngoại và nội lực để mở rộng mà không có
bất cứ quyết định hành chính hay sự hỗ trợ về vốn, ngành nghề cũng như về chính sách
của nhà nước. Vì thế cho dù đã phát triển và tồn tại trên thị trường nhưng các TĐKT này
vẫn chưa được thừa nhận bởi luật của Việt Nam. Tuy nhiên cũng có nhiều tập đồn có
những thành cơng đáng kể như Hoàng Anh Gia Lai.

1.2.2.Vận dụng vào Việt Nam


Từ những phân tích trên ta có thể nêu một số vấn đề mà chính phủ Việt Nam cần
chú ý đến thời gian tới.

 Tạo dựng môi trường pháp lý đáp ứng yêu cầu của cải cách doanh nghiệp nhà
nước và xu hướng hội nhập

Kinh nghiệm cải tổ của các chaebol Hàn Quốc cho thấy để thực hiện công cuộc cải
tổ theo đúng định hướng, vấn đề tạo dựng môi trường pháp luật là rất quan trọng. Xu
hướng hội nhập đòi hỏi chúng ta phải có những nỗ lực đặc biệt trong vấn đề này, nhất là
khi Việt Nam đã gia nhập tổ chức kinh tế thế giới WTO. Những năm qua, Quốc hội đã
thông qua rất nhiều đạo luật cần thiết nhưng chúng ta cần đẩy nhanh hơn nữa q trình
này. Chính phủ cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp luật. Cần
ban hành và sửa đổi các văn bản luật pháp liên quan đến những vấn đề phát sinh cần giải

quyết trong qúa trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước, thiết lập khung pháp lý cho hoạt
động của các tập đồn: luật tập đồn kinh tế, luật về cơng ty tài chính, luật liên kết doanh
nghiệp...

 Đẩy mạnh cải cách trong lĩnh vực tài chính
Sự quản lý yếu kém trong lĩnh vực tài chính có thể xem là một trong những ngun
nhân của khủng hoảng kinh tế ở Hàn Quốc. Chính phủ Việt Nam cần nhận thức rõ vai trị
của ngành tài chính trong nền kinh tế quốc dân để từ đó có những biện pháp thích hợp
thúc đẩy nhanh q trình cải tổ của lĩnh vực này, nâng cao năng lực thực hiện các nghiệp
vụ ngân hàng. Một hệ thống ngân hàng thực hiện tốt chức năng và hoạt động có hiệu qủa
sẽ tạo được môi trường tốt cho công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước, góp phần
ngăn ngừa nguy cơ phá sản của các doanh nghiệp. Trong một hệ thống mà tín dụng ngân
hàng được mở khơng chỉ dựa trên khả năng đứng vững về kinh tế mà còn dựa vào yêu
cầu cấp bách của chính sách kinh tế của nhà nước, thì cách duy nhất để ngặn chặn tình
trạng mất khả năng trả nợ là các ngân hàng phải thiết lập hệ thống giám sát và kiểm soát

thường xuyên, kể cả việc theo dõi mọi nơi mọi lúc( chẳng hạn như để ngăn chặn tình
trạng đầu cơ, vay vốn chỉ để đầu cơ vào bất động sản), giám sát q trình cải cách cơ cấu
tài trợ cơng ty và thiết lập một mạng lưới trần về tín dụng.
 Tạo lập và duy trì mối quan hệ chặt chẽ giữa chính phủ và giới kinh doanh.
Chính phủ cần tạo lập mối quan hệ chặt chẽ giữa chính phủ và giới kinh doanh. Dựa
trên cơ sở hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp, chính phủ mới có thể tìm ra những giải
pháp chính sách thích hợp, hỗ trợ cho việc mở rộng hoạt động kinh doanh của các tổng
công ty và tạo lập được vị trí cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Duy trì
mối quan hệ này làm các tổ chức kinh doanh có thể nắm bắt được một cách kịp thời và
chính xác các chủ trương chính sách của chính phủ, để từ đó có cơ sở điều chỉnh các hoạt
động của mình. Chính phủ không nên can thiệp trực tiếp vào quyết định kinh doanh của
doanh nghiệp. Một số quy định của chính phủ làm cản trở sự độc lập sáng tạo của các
tổng công ty trong hoạt động kinh doanh cần được dỡ bỏ.
 Thực hiện những hỗ trợ đối với các doanh nghiệp có trọng tâm trọng điểm
Vai trò bà đỡ của chính phủ thơng qua việc tạo những điều kiện thuận lợi về chính
sách như chính sách thuế và chính sách tài chính là cần thiết. Do hoạt động marketing
trong xuất khẩu để vươn ra thị trường quốc tế địi hỏi chi phí cố định lớn trong giai đoạn
đầu và kéo theo những chi phí lớn khác, nên sự trợ cấp của chính phủ thơng qua các


×