TIỂU LUẬN
MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
TÊN TIỂU LUẬN:
QUAN ĐIỂM VÀ CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
Chương 1..........................................................................................................2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƠN GIÁO................................................2
1. Quan niệm....................................................................................................2
2. Đặc điểm tơn giáo ở Việt Nam....................................................................7
3. Tình hình tơn giáo ở nước ta hiện nay.......................................................9
Chương 2........................................................................................................10
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG
Q TRÌNH GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TƠN GIÁO HIỆN NAY....10
Chương 3........................................................................................................18
GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ
ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÔN GIÁO VIỆT NAM.......................18
KẾT LUẬN....................................................................................................27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................28
2
MỞ ĐẦU
Hiện nay, trên tinh thần đổi mới nhận thức về tôn giáo, Đảng và Nhà
nước ta đã nhận đinh tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, trong tơn
giáo có những giá trị tốt đẹp về đạo đức, văn hóa. Vấn đề đạo đức tơn giáo đã
được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Các giáo lý tôn giáo đều chứa
đựng một số giá trị đạo đức nhân bản rất hữu ích cho việc xây dựng nền đạo
đức mới và nhân cách con người Việt Nam hiện nay.
Theo thống kê, hiện nay trên cả nước có 13 tơn giáo với 36 tổ chức tôn
giáo và 1 pháp môn tu hành được Nhà nước cơng nhận, với gần 24 triệu tín đồ
- chiếm khoảng 27% dân số cả nước, có 83.000 chức sắc, 250.000 chức việc,
46 cơ sở đào tạo chức sắc tơn giáo, 25 nghìn cơ sở thờ tự (trong đó Phật giáo
có khoảng 11 triệu tín đồ, Cơng giáo gần 7 triệu tín đồ, Cao đài khoảng 2,4
triệu tín đồ, Tin lành hơn 1 triệu tín đồ,…).
Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn xác định vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo
và cơng tác tơn giáo là vấn đề chính trị quan trọng, quan hệ đến sự phát triển
của đất nước, đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của các tầng lớp
nhân dân. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách
mạng. Là sự vận dụng trung thành và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tơn giáo vào điều
kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Đảng và Nhà nước ta
không ngừng đổi mới nhận thức về tôn giáo và quản lý nhà nước trong lĩnh
vực tôn giáo, tín ngưỡng. Đây là nền tảng để xây dựng chủ trương, chính
sách, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt tơn giáo, tín ngưỡng của đồng bào
có đạo và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Vì
vậy, tơi chọn chủ đề Tiểu luận: “Quan điểm và chính sách tơn giáo của
Đảng, Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội”.
1
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÔN GIÁO
1. Quan niệm
Chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan
trọng nhất của chủ nghĩa C.Mác, thì những quan điểm về tơn giáo là một
trong những biểu hiện rõ nét nhất lập trường duy vật về lịch sử của học thuyết
này. Nó thể hiện thông qua các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cả
bản chất, nguồn gốc lẫn chức năng của tôn giáo.
Trong khi các nhà duy tâm, thần học cho rằng tơn giáo có nguồn gốc
siêu nhiên, thế giới tự nhiên, xã hội loài người cũng như toàn bộ hoạt động
của mỗi cá nhân con người đều chịu sự chi phối, điều khiển của các lực lượng
siêu nhiên, thần thánh thì các nhà duy vật, vơ thần đã có quan điểm hoàn toàn
đối lập.
L.Phoiơbắc - nhà triết học duy vật người Đức, trong “Bản chất đạo Cơ
đốc”, đã khẳng định rằng, không phải thần thánh sáng tạo ra con người mà
con người sáng tạo ra thần thánh theo hình mẫu của mình; rằng: “Thượng đế
siêu hình khơng phải là cái gì khác mà là sự tập hợp, là tồn bộ những đặc
tính chung nhất rút ra từ giới tự nhiên, song con người, nhờ vào sức tưởng
tượng… lại đem giới tự nhiên biến thành một chủ thể hay một thực thể độc
lập” [3, tr. 41]. Tuy nhiên, Phoiơbắc chưa chỉ ra được bản chất thực sự của
tơn giáo và ở khía cạnh này, ơng vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm khi
chỉ phê phán thứ tôn giáo hiện thời chứ không phê phán tơn giáo nói chung,
càng chưa hề đề cập đến sự phê phán những điều kiện hiện thực đã làm nảy
sinh tơn giáo. Thậm chí, ơng cịn cho rằng người ta vẫn rất cần một thứ tơn
giáo khác thay thế, đó là “tơn giáo tình u” để xố bỏ đi những áp bức, bất
công trong xã hội.
Kế thừa và vượt lên trên quan điểm của Phoiơbắc và các nhà duy vật
trước đó, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã đứng vững trên lập
2
trường duy vật lịch sử để lý giải vấn đề bản chất của tôn giáo. Ph.Ăngghen,
khi nghiên cứu đạo Cơ Đốc sơ kỳ cũng đã thừa nhận nó như là sự phản ánh
khát vọng của những người nô lệ và trong bản thân nó có những điểm
tương đồng với lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Ông viết: “Trong lịch sử đạo
Cơ Đốc sơ kỳ có những điểm giống đáng lưu ý với phong trào công nhân
hiện đại, đạo Cơ Đốc nảy sinh như là một phong trào của những người bị
áp bức; lúc đầu nó là tơn giáo của những người nô lệ và nô lệ đã được tha,
của người nghèo và người vô quyền, của các dân tộc bị La Mã chinh phục
hoặc đuổi đi tản mát. Cả đạo Cơ Đốc lẫn chủ nghĩa xã hội công nhân đều
tuyên truyền sự giải phóng con người trong tương lai khỏi cảnh nô lệ và
nghèo khổ” [13, tr. 663].
Theo đó, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội
quyết định. Mặc dù có tính độc lập tương đối nhưng mọi hiện tượng trong đời
sống tinh thần, xét đến cùng, đều có nguồn gốc từ đời sống vật chất. Tôn giáo
là một hiện tượng tinh thần của xã hội và vì vậy, nó là một trong những hình
thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất
định. Nhưng khác với những hình thái ý thức xã hội khác, sự phản ánh của tôn
giáo đối với hiện thực là sự phản ánh đặc thù, đó là sự phản ánh “lộn ngược”,
“hoang đường” thế giới khách quan. Trên lập trường duy vật vô thần triệt để,
chủ nghĩa Mác - Lênin dù có thừa nhận những giá trị tích cực nhất định của tơn
giáo, song vẫn phê phán nó, vì xét cho cùng, tôn giáo vẫn hướng con người vào
một thế giới ảo tưởng, an ủi họ quên nỗi đau khổ ở cuộc sống hiện thực và hứa
hẹn sự đền bù cho họ ở một thế giới siêu nhiên. Trong khi đó, để khắc phục
những khổ đau ở cuộc sống trần thế, con người cần phải có phương tiện hiện
thực, có nghị lực, dũng cảm sáng tạo vượt qua trong xã hội hiện thực. Ăngghen
đã chỉ ra điểm khác nhau căn bản giữa đạo Cơ Đốc và chủ nghĩa xã hội, đó là:
“Đạo Cơ Đốc tìm sự giải thốt ấy trong cuộc sống trên trời, ở thế giới bên kia
sau khi chết, cịn chủ nghĩa xã hội thì tìm nó ở thế giới bên này, ở việc tổ chức
lại xã hội” [15, tr. 663].
3
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, sự phản kháng của tôn giáo về cơ bản vẫn
mang tính tiêu cực, thụ động, nó khun con người chấp nhận hiện thực để
mỗi người tự hồn thiện mình, tách khỏi mọi mối quan hệ của xã hội hiện
thực.
Vấn đề đặt ra ở đây là, nguyên nhân nào dẫn đến sự phản ánh “hoang
đường”, “hư ảo” của tôn giáo? Tại sao con người lại có nhu cầu tơn giáo và
đặt niềm tin lớn lao vào tôn giáo như vậy? Đứng vững trên lập trường duy vật
lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải rằng sự xuất hiện và tồn tại của
tôn giáo xuất phát từ hiện thực khách quan và nguồn gốc quan trọng nhất của
tơn giáo chính là điều kiện kinh tế - xã hội.
Cắt nghĩa về nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo, Ph.Ăngghen viết:
“Trong những thời kỳ đầu của lịch sử chính những lực lượng thiên nhiên là
những cái trước tiên được phản ánh như thế, và trong quá trình phát triển hơn
nữa thì ở những dân tộc khác nhau, những lực lượng thiên nhiên ấy đã được
nhân cách hóa một cách hết sức nhiều vẻ và hết sức hỗn tạp... Nhưng chẳng
bao lâu, bên cạnh những lực lượng thiên nhiên lại cịn có cả những lực lượng
xã hội tác động - những lực lượng này đối lập với con người, một cách cũng
xa lạ lúc đầu cũng không thể hiểu được đối với họ, và cũng thống trị họ với
cái vẻ tất yếu bề ngoài giống như bản thân những lực lượng tự nhiên vậy” [14,
tr. 562].
Tiếp tục quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, VI.Lênin bổ sung, phát
triển, hoàn thiện thêm và chỉ ra vai trị của tơn giáo trong đời sống xã hội, về
cơ bản, là tác động tiêu cực. Tôn giáo dạy cho con người chịu đựng những
đau khổ để chờ đợi những điều tốt đẹp ảo tưởng, khơng có thực: “Những điều
thiêng liêng của đạo chính thống quý báu là ở chỗ nó dạy người ta chịu đựng
đau khổ “không một tiếng kêu ca”! Thực tế, điều thiêng liêng đó có lợi cho
giai cấp thống trị biết chừng nào!…tơn giáo dạy người ta chịu đựng “không
một tiếng kêu ca”cái địa ngục trần gian để chờ đợi một thiên đường nào đấy”
[11, tr. 331].
4
V.I.Lênin cho rằng, một mặt tôn giáo đem lại cho con người sự an ủi mơ
hồ, răn dạy họ nhẫn nhục trong cuộc sống thực để hy vọng được đền bù ở cõi
sống khác, mặt khác tôn giáo là sự biện hộ cho các thế lực bóc lột và khuyên
những người bị bóc lột hãy cam chịu cuộc sống hiện tại. Người viết: “Đối với
những ai suốt đời vẫn lao động và sống trong cảnh thiếu thốn, tôn giáo dạy họ
phải sống theo tinh thần cam chịu và nhẫn nhục trong cuộc sống dưới trần gian,
bằng cách làm cho họ hy vọng sẽ được đền đáp khi lên thiên đường. Còn đối với
những kẻ sống bằng lao động của người khác, tôn giáo dạy họ hãy làm điều
thiện ở thế gian, biện hộ một cách rẻ tiền cho tồn bộ cuộc đời bóc lột của
chúng, và bán rẻ cho chúng những tấm thẻ để lên thiên đường của những người
hạnh phúc” [12, tr. 170].
V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, khi tôn giáo bị giai cấp tư sản lợi dụng làm cơng
cụ chính trị thì nó trở thành “thứ rượu tinh thần, làm cho những người nô lệ của tư
bản mất phẩm cách con người và quên mất hết những điều họ đòi hỏi để được
sống một cuộc đời đôi chút xứng đáng với con người” [12, tr. 170].
Tôn giáo được V.I.Lênin xem xét gắn liền với thực tiễn đấu tranh cách
mạng của giai cấp vô sản, trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nga và
châu Âu cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chính vì vậy, V.I.Lênin nói đến vai
trị tiêu cực của tơn giáo và giáo hội cũng trong một tình huống rất cụ thể: tơn
giáo và giáo hội tôn giáo bị giai cấp tư sản lợi dụng làm cơng cụ để bảo vệ
chế độ bóc lột, đầu độc quần chúng bị áp bức. Lúc này, mâu thuẫn giữa giai
cấp vô sản và giai cấp tư sản đã trở nên gay gắt và trong xã hội đó, “Tơn giáo
là một trong những hình thức áp bức về tinh thần, luôn luôn và bất cứ ở đâu
cũng đè nặng lên quần chúng nhân dân khốn khổ vì phải lao động suốt đời
cho người khác hưởng, vì phải chịu cảnh bần cùng cô độc” [12, tr. 169].
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tơn giáo có nguồn
gốc từ trong hiện thực và phản ánh chính hiện thực đó - một hiện thực cần có
tơn giáo và có điều kiện để tôn giáo xuất hiện và tồn tại. Trong tác phẩm “Phê
phán triết học pháp quyền của Hêghen - Lời nói đầu”, C.Mác đã viết: “Sự
5
nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự
phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của
chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới khơng có trái tim, cũng như nó là
tinh thần của những trật tự khơng có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của
nhân dân” [13, tr. 570].
Luận điểm trên của C.Mác đã thể hiện rõ nguồn gốc, bản chất, chức
năng của tôn giáo trên lập trường duy vật lịch sử. Với C.Mác, tôn giáo như là
“vầng hào quang” ảo tưởng, là những vòng hoa giả đầy màu sắc và đẹp một
cách hoàn mỹ, là ước mơ, là niềm hy vọng và điểm tựa tinh thần vô cùng to
lớn cho những số phận bé nhỏ, bất lực trước cuộc sống hiện thực. Vì, trong
cuộc sống hiện thực, khi con người bất lực trước tự nhiên, bất lực trước các
hiện tượng áp bức, bất cơng của xã hội thì họ chỉ cịn biết “thở dài” và âm
thầm, nhẫn nhục chịu đựng. Cũng trong cuộc sống hiện thực ấy, họ khơng thể
tìm thấy “một trái tim” để yêu thương, che chở nên phải tìm đến một “trái
tim” trong tưởng tượng nơi tơn giáo. Trái tim đó sẽ sẵn sàng bao dung, tha
thứ, chở che và tiếp thêm sức mạnh cho họ để họ có thể vượt qua mọi khó
khăn trong cuộc sống.
Với luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác không chỉ
muốn khẳng định tính chất “ru ngủ” hay độc hại của tơn giáo, mà còn nhấn mạnh
đến sự tồn tại tất yếu của tôn giáo với tư cách một thứ thuốc giảm đau được dùng
để xoa dịu những nỗi đau trần thế. Thực vậy, người ta dùng thuốc giảm đau khi
người ta bị đau đớn và chừng nào cịn đau đớn, thì chừng đó cịn có nhu cầu dùng
nó. Đó chính là lý do để lý giải tại sao người ta hướng tới, hy vọng và coi tôn giáo
như chiếc “phao cứu sinh” cho cuộc sống của mình, cho dù đó chỉ là những hạnh
phúc ảo tưởng, chỉ là “sự đền bù hư ảo”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo mặc dù là sự phản
ánh hoang đường, hư ảo hiện thực, là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội
nhưng nó khơng phải khơng có những yếu tố tích cực. Tơn giáo chỉ là những
“bông hoa giả” tô điểm cho một cuộc sống hiện thực đầy xiềng xích. Nhưng
6
nếu khơng có những “bơng hoa giả” ấy thì cuộc sống của con người chỉ cịn
lại “xiềng xích” mà thơi. Và nếu khơng có thứ “thuốc giảm đau” ấy thì con
người sẽ phải vật vã đau đớn trong cuộc sống hiện thực với đầy rẫy những áp
bức, bất công và bạo lực.
Điều vĩ đại của C.Mác khi quan niệm về tơn giáo chính là ở chỗ đó.
Trong khi các nhà duy vật vơ thần chỉ biết phê phán bản thân tơn giáo thì
C.Mác lại khơng phê phán tơn giáo mà phê phán chính cái hiện thực đã làm
nảy sinh tôn giáo, tức là phê phán sự áp bức, bất công, bạo lực… trong xã hội
đã đẩy con người phải tìm đến với tơn giáo và ru ngủ mình trong tơn giáo.
C.Mác đã nhận thấy rất rõ quan hệ nhân - quả trong vấn đề này. Vì tơn giáo là
một hiện tượng tinh thần có nguyên nhân từ trong đời sống hiện thực nên
muốn xố bỏ tơn giáo, khơng có cách nào khác là phải xố bỏ cái hiện thực đã
làm nó nảy sinh. Theo C.Mác, vấn đề không phải là “vứt những bông hoa giả”
đi mà là xoá bỏ bản thân cái “xiềng xích” được trang điểm bởi những bơng
hoa giả đó để con người có thể “giơ tay hái những bơng hoa thật” cho mình,
tức là tìm kiếm được hạnh phúc thật sự ngay trong thế giới hiện thực. Từ đó,
C.Mác đã khẳng định rằng, muốn xố bỏ tơn giáo và giải phóng con người
khỏi sự nơ dịch của tơn giáo thì trước hết phải đấu tranh giải phóng con người
khỏi những thế lực của trần thế, xoá bỏ chế độ áp bức bất cơng, nâng cao trình
độ nhận thức cho người dân và xây dựng một xã hội mới khơng cịn tình trạng
người bóc lột người, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa.
2. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
Một là, Việt Nam là nước có nhiều tín ngưỡng, tơn giáo. Hiện nay, ở
nước ta có sáu tôn giáo lớn đã được Nhà nước thừa nhận về tổ chức là: Phật
giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao đài, Hồ Hảo với khoảng 20 triệu tín
đồ. Ngồi ra cịn hàng chục triệu người khác vẫn giữ tín ngướng dân gian,
truyền thống và cả tín ngưỡng nguyên thuỷ.
Tín ngưỡng, tơn giáo ở nước ta chủ yếu ở cấp độ tâm lý tơn giáo. Nhiều
tín đồ tơn giáo tuy khá sùng đạo, nhưng hiểu giáo lý rất ít, gia nhập đạo phần
7
nhiều do lan truyền tâm lý, hoặc do vận động, lơi kéo; ý thức tơn giáo ở phần
lớn tín đồ không thật sâu sắc.
Hai là, các tơn giáo, tín ngưỡng dung hợp, đan xen và hồ đồng, khơng
có kỳ thị, tranh chấp và xung đột tơn giáo. Các tín ngưỡng truyền thống và tàn
dư tôn giáo nguyên thuỷ in dấu ấn khá sâu đậm vào đời sống tinh thần của
người Việt Nam, theo suốt chiều dài lịch sử, đó là cái nền tâm linh để dễ dàng
đón nhận sự du nhập của các tơn giáo khác. Sự khoan dung, lịng độ lượng,
nhân ái của dân tộc Việt Nam, cùng với yêu cầu phải đoàn kết toàn dân để
bảo vệ nền độc lập, thống nhất lãnh thổ, nên người Việt Nam tiếp nhận các
tôn giáo khác nhau một cách tự nhiên, miễn là nó khơng trái với lợi ích dân
tộc – quốc gia và truyền thống văn hố, tín ngưỡng cổ truyền.
Sự phân bố tôn giáo ở nước ta có đặc điểm nổi bật là giáo dân của các
tôn giáo thường sinh sống thành từng cộng đồng quy mơ nhỏ, các cộng đồng
tơn giáo khác nhau có thể sống xen kẽ nhau. ở nhiều nơi, trong một làng, xã
cũng có các nhóm tín đồ của các tơn giáo khác nhau sống đan xen, hoà hợp
nhau, hoặc xen kẽ với những người không theo tôn giáo nào.
Ba là, Các tôn giáo chính có ảnh hưởng lớn trong xã hội Việt Nam đều
du nhập từ bên ngồi, ít nhiều đều có sự biến đổi và mang dấu ấn Việt Nam.
Các tơn giáo từ bên ngồi vào Việt Nam vừa theo cách du nhập tự
nhiên qua giao lưu kinh tế, văn hoá như: Phật giáo, Hồi giáo; vừa có sự áp đặt
song hành với q trình xâm lược của các đế quốc trong lịch sử như
Công giáo, Tin lành… Q trình giao du, gặp gỡ các tơn giáo vừa thâm
nhập, bổ sung, vừa cải biến lẫn nhau, khiến cho mỗi tơn giáo đều có sự biến
đổi phù hợp với đặc điểm địa lý, lịch sử và văn hoá Việt Nam.
Bốn là, Sự pha trộn phức tạp giữa ý thức tôn giáo với tín ngưỡng truyền
thống và tình cảm, phong tục tập qn và nhân dân.
Tín ngưỡng truyền thống dân gian mà nổi bật nhất là phong tục thờ
cúng tổ tiên, đã dung hợp với các tơn giáo, góp phần tạo nên đặc điểm tình
cảm, tâm hồn, tính cách người Việt Nam. Tuy vậy, sự pha trộn phức tạp giữa
8
ý thức tơn giáo với tín ngưỡng cổ truyền và tình cảm, phong tục tập quán đã
ăn sâu vào đời sống tinh thần người Việt Nam, làm cho một bộ phận không
nhỏ quần chúng lao động rất dễ dàng tiếp nhận tình cảm, ý thức tơn giáo mới.
3. Tình hình tơn giáo ở nước ta hiện nay
Mặc dù sự hình thành và phạm vi ảnh hưởng đối với số lượng tín đồ và
tác động chính trị – xã hội không giống nhau, đồng bào các tôn giáo đã góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, hàng chục vạn
thanh niên có đạo đã tham gia chiến đấu và nhiều người đã anh dũng hy sinh
vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
nhiều tín đồ và giáo sĩ đã nhận thức đúng chính sách, luật pháp của Nhà nước,
làm tốt cả “việc đạo” và “việc đời”. Tình hình kinh tế, an ninh chính trị và trật
tự xã hội ở nhiều vùng tôn giáo khá ổn định. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân khác nhau, một bộ phận đồng bào có tín ngưỡng tơn giáo còn băn khoăn,
lo lắng cả phần đạo và phần đời.
Những năm gần đây, sinh hoạt tơn giáo có phần phát triển, nhà thờ,
đình chùa, miếu mạo, thánh thất được tu sửa và tôn tạo, xây cất lại, in ấn tài
liệu, đào tạo các chức sắc… Số người tham gia các hoạt động tôn giáo gia
tăng. Những hoạt động lễ hội gần gũi với tôn giáo nhiều, mang nhiều màu sắc
khác nhau, cũng xuất hiện nhiều hiện tượng mê tín dị đoan. Thực trạng trên,
một mặt phản ánh nhu cầu tinh thần của một số đông quần chúng. Từ khi đổi
mới và dân chủ hố tự do tín ngưỡng càng có điều kiện thể hiện, đáp ứng
nguyện vọng của một bộ phận nhân dân. Mặt khác cũng nói lên điều khơng
bình thường vì trong đó khơng chỉ có sự sinh hoạt tơn giáo thuần t, mà cịn
biểu hiện lợi dụng tín ngưỡng tơn giáo để phục vụ cho mưu đồ chính trị và
hoạt động mê tín dị đoan.
9
Chương 2
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG
QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TÔN GIÁO HIỆN NAY
Cùng với sự nghiệp đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, Đảng Cộng
sản Việt Nam (CSVN) đã từng bước đổi mới nhận thức về vấn đề tôn giáo và
công tác tôn giáo. Bước ngoặt trong sự đổi mới tư duy lí luận của Đảng
CSVN về vấn đề tôn giáo được đánh dấu bằng sự ra đời Nghị quyết số 24 của
Bộ Chính trị, ngày 16/10/1990 về tăng cường cơng tác tơn giáo trong tình
hình mới.
Về nhận thức lí luận, Nghị quyết 24 nêu lên “3 luận đề” cơ bản về vấn
đề tơn giáo, tín ngưỡng: Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân; hai là, tơn giáo là vấn đề cịn tồn tại lâu dài và ba là,
đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với cơng cuộc xây dựng xã hội mới.
Để có được những tư tưởng đổi mới có tính “đột phá” nêu trên, Đảng CSVN
tìm tịi, trăn trở trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề tơn giáo vào tình hình tơn giáo ở Việt Nam. Để giải
quyết tốt vấn đề tôn giáo hiện nay, trước hết cần phải nhận thức rõ một số vấn
đề sau đây:
Thứ nhất, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay,
những điều kiện tồn tại của tôn giáo vẫn cịn; vì vậy, sự tồn tại của nó vẫn là
một tất yếu khách quan. Những điều kiện đó là: trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, của khoa học - kỹ thuật còn thấp nên khả năng cải tạo thế giới
chưa cao; trình độ nhận thức cịn hạn chế nên chưa cho phép giải thích đầy
đủ, khoa học những hiện tượng tự nhiên, xã hội; trình độ phát triển kinh tế
còn thấp nên đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn; thời kỳ quá độ
với những quan hệ sản xuất cũ và mới đan xen nhau nên chưa thể xố bỏ
những hiện tượng bóc lột, bất bình đẳng trong xã hội… Thêm vào đó, chiến
tranh, đặc biệt là thiên tai, vẫn xảy ra khiến cho con người cảm thấy không
10
yên tâm và vì vậy, một bộ phận người dân vẫn sẽ có nhu cầu tín ngưỡng tơn
giáo như một tất yếu. Vấn đề là ở chỗ, chúng ta cần có thái độ như thế nào đối
với tơn giáo.
Thứ hai, cần phải nhận thức rõ rằng, đối tượng đấu tranh trong việc giải
quyết vấn đề tôn giáo không phải là mọi tôn giáo và những sinh hoạt tơn giáo hay
tất cả những tín đồ tơn giáo nói chung, mà chỉ là những bộ phận người lợi dụng
tơn giáo để hành nghề mê tín dị đoan hoặc chống phá cách mạng, gây rối trật tự trị
an, đi ngược lại với lợi ích của quốc gia dân tộc.
Thứ ba, để khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tơn giáo, khơng
thể dùng mệnh lệnh hành chính hay tun truyền giáo dục đơn thuần mà phải
chú trọng đến việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Xố bỏ dần
phương thức sản xuất tiểu nơng lạc hậu, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho người dân, kết hợp với tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trình độ
nhận thức, trình độ văn hố để người dân tự nhận thức được vai trị thực sự
của tơn giáo trong đời sống hiện thực của họ và chính họ, chứ không phải ai
khác, tự quyết định theo hay khơng theo một tơn giáo nào đó.
Những năm gần đây, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã có những thay đổi quan
trọng trong nhận thức về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo, đưa ra nhiều
chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp.
Với tinh thần mạnh dạn đổi mới, khắc phục những hạn chế, sai lầm
trong nhận thức trước đây, Đảng ta, lần đầu tiên trong Nghị quyết 24-NQ/TW
của Bộ Chính ngày 16-10-1990 đã khẳng định: Tơn giáo là vấn đề cịn tồn tại
lâu dài. Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Đạo đức tơn giáo có nhiều điều phù hợp với cơng cuộc xây dựng xã hội
mới… Có thể coi đây là bước đột phá, khởi đầu trong việc đổi mới nhận thức
về vấn đề tôn giáo của Đảng ta, bởi luận điểm này là cơ sở lý luận quan trọng
để hạn chế các biểu hiện sai sầm trong nhận thức và ứng xử với tơn giáo, làm
cho chính sách của Nhà nước về tôn giáo ngày càng đúng đắn và được đơng
đảo đồng bào có đạo đồng tình, ủng hộ.
11
Đó là sự trở lại với quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đã bổ sung thêm những nghiên cứu về vai
trò của tôn giáo mà trước đây các nhà kinh điển Mác - Lênin chưa có điều
kiện đi sâu tìm hiểu.
Qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX , X và XI của Đảng Cộng sản Việt
Nam, tinh thần đổi mới nhận thức về vấn đề tơn giáo vẫn liên tục được phát
triển và hồn thiện thêm.
Khi thừa nhận tín ngưỡng, tơn giáo là hiện tượng xã hội còn tồn tại lâu
dài, Đảng ta ý thức được rằng, tôn giáo vẫn là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân. Tôn giáo vẫn phát huy ảnh hưởng của nó trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Trong
trường hợp này, thái độ đúng đắn nhất, biện chứng nhất là khuyến khích phát
huy các yếu tố tích cực của tơn giáo, làm cho các yếu tố này thực sự có ý
nghĩa khi tham gia vào quá trình phát triển, hồn thiện con người và xã hội
Việt Nam hiện đại. Do vậy, cũng trên tinh thần đổi mới nhận thức về vấn đề
tôn giáo, Đảng ta không chỉ thừa nhận những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp
trong các tơn giáo mà cịn ln khuyến khích phát huy những giá trị đó trong
việc xây dựng xã hội mới. Chỉ thị 37/CT-TWcủa Bộ Chính trị ngày 2-7-1998
về cơng tác tơn giáo trong tình hình mới đã khẳng định “Những hoạt động tơn
giáo ích nước lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng, hợp
pháp của các tín đồ được đảm bảo. Những giá trị văn hóa đạo đức tốt đẹp của
các tơn giáo được tơn trọng và khuyến khích phát huy” [4, tr. 14].
Nhận thức đúng vai trị của tơn giáo trong đời sống xã hội và những
đóng góp của nó cho nền văn hóa, đạo đức của dân tộc, Đảng ta, trong Nghị
quyết Trung ương 5 khóa VIII, về việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã chủ trương “Khuyến khích ý tưởng cơng
bằng, bác ái, hướng thiện... trong tôn giáo” [4, tr. 67]. Chủ trương này tiếp tục
được khẳng định và phát triển thêm qua các kỳ Đại hội IX, X, XI. Đại hội XI
khẳng định: “Tiếp tục hồn thiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
12
phù hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước; tôn trọng
những giá trị đạo đức, văn hố tốt đẹp của các tơn giáo; động viên chức sắc,
tín đồ, các tổ chức tơn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực
cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [6, tr. 51].
Tuy nhiên, Đảng ta cũng nhận thức rõ, bên cạnh vai trị tích cực, tơn
giáo cịn chứa đựng và tiềm ẩn trong nó nhiều mặt tiêu cực có thể gây nên
những tác động xấu đối với đời sống chính trị, xã hội, đó là vấn đề mê tín, dị
đoan được đan xen, dung dưỡng trong sinh hoạt tôn giáo và đặc biệt là vấn đề
lợi dụng tơn giáo vào mục đích chính trị... Vì vậy, bên cạnh việc thừa nhận và
khuyến khích phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức tích cực trong tôn giáo,
Đảng ta cũng kiên quyết đấu tranh “tuyên truyền giáo dục khắc phục tệ mê tín
dị đoan; chống việc lợi dụng tơn giáo, tín ngưỡng thực hiện ý đồ chính trị
xấu” [4, tr. 67].
Hội nghị Trung ương 7 khóa IX khẳng định: “Việc theo đạo, truyền đạo
cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật;
không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan,
khơng được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo,
người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của
Hiến pháp và pháp luật” [5, tr. 50 - 51]. Đại hội XI tiếp tục khẳng định chủ trương:
“Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo và khơng tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm với
mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tơn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ
quốc và nhân dân” [6, tr. 81].
Tại Đại hội XII của Đảng, Đảng ta khẳng định: Tiếp tục hoàn thiện
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo, phát huy những giá trị văn hoá,
đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn
giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà
nước công nhận, theo quy định của pháp luật. Đồng thời, chủ động phòng
ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để
13
chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng,
tơn giáo trái quy định của pháp luật [7, tr. 165].
Cũng tại Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục xác định rõ thêm những điểm
tương đồng của tôn giáo trong q trình thực hiện mục tiêu đại đồn kết dân
tộc là: Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, độc lập, thống
nhất, tồn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác nhau khơng trái với
lợi ích chung của quốc gia, dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống
nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam…, tạo sinh
lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng ta xác định, để đoàn kết
được toàn dân tộc cần phải coi trọng phát huy những điểm tương đồng nhằm
tập hợp, đoàn kết rộng rãi tất cả đồng bào và chức sắc tơn giáo vào khối đại
đồn kết dân tộc. Quan điểm Đại hội XII của Đảng về vấn đề dân tộc, tôn
giáo là đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước và nguyện
vọng của mọi tầng lớp nhân dân.
Như vậy, kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dựa trên phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và dựa trên đặc điểm, tình hình tơn giáo ở
Việt Nam, Đảng ta đã nhìn nhận vấn đề tôn giáo với tư duy mới và nhờ đó đã
đưa lại những cách làm mới trong việc giải quyết vấn đề tơn giáo ở Việt Nam.
Điều đó chứng tỏ nhận thức của Đảng ta về vấn đề tôn giáo có sự vận động,
phát triển rõ nét, đồng thời nó cũng chứng tỏ bản lĩnh và sự trưởng thành vượt
bậc của Đảng ta. Sự đổi mới nhận thức của Đảng ta về vấn đề tơn giáo nói
chung, về vai trị của tơn giáo nói riêng hồn tồn khơng xa rời những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tơn
giáo. Hơn nữa, sự đổi mới nhận thức này cịn là sự tiếp tục những công việc mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc đương thời đã từng trăn trở, đó là cần phải bổ sung
“cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác và củng cố chủ nghĩa C.Mác bằng dân tộc
học phương Đông.
Từ nhận thức đúng đắn về nhu cầu tôn giáo của quần chúng, về vai trị
của tơn giáo, tín ngưỡng trong đời sống xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã
14
thường xuyên chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu tín ngưỡng chân chính của đồng bào có đạo. Đảng, Nhà
nước cũng luôn quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào các tôn giáo
phát huy giá trị nhân văn, nhân bản của tôn giáo trong xây dựng cuộc sống;
động viên đồng bào các tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”; đồng thời cũng kiên
quyết đấu tranh chống các biểu hiện vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tơn
giáo, đấu tranh với các hành vi lợi dụng tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, chống phá sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Thực tế cho thấy, khi vai trị tích cực của tơn giáo được thừa nhận và
khuyến khích phát huy đã đem lại những hiệu quả thiết thực trong đời sống xã
hội. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong thời kỳ đổi mới đã
được đông đảo nhân dân đồng tình ủng hộ, tạo được niềm tin, sự phấn khởi
lớn trong đồng bào có đạo. Khối đại đồn kết toàn dân tộc ngày càng được
tăng cường, củng cố vững chắc hơn. Đồng bào có đạo trên khắp các vùng
miền cả nước đã và đang tích cực hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước,
sống tốt đời, đẹp đạo, hăng hái tham gia vào các phong trào phát triển kinh tế-
xã hội, góp phần xây dựng quê hương, đất nước. Nhiều gia đình tín đồ tơn
giáo từ nghèo đói triền miên đã vươn lên thoát nghèo. Nhiều vùng đồng bào
có đạo từ nghèo đói đã trở nên giàu có và trở thành điển hình của cả nước.
Hàng chục vạn gia đình tín đồ, hàng ngàn làng, xã, khu dân cư của đồng bào có
đạo được cơng nhận là gia đình văn hóa, làng xã văn hóa, khu dân cư an toàn.
Những năm qua, đồng bào các tơn giáo cũng có những đóng góp rất
tích cực vào các hoạt động xã hội. Rất nhiều phịng khám chữa bệnh, cơ sở
ni dưỡng người già, trẻ em, người khuyết tật của các tôn giáo đã và đang
góp phần chia sẻ những khó khăn với Nhà nước trong công tác an sinh... là
những minh chứng rõ nhất cho thấy các tôn giáo ở Việt Nam đã và đang phát
huy vai trị tích cực của mình trong đời sống xã hội.
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực tiễn cho thấy rằng ở
một vài “điểm nóng” về vấn đề Tơn giáo, trong đó có Tây Ngun được chủ
15
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch xác định là địa bàn trọng yếu để thực
hiện âm mưu chiến lược “diễn biến hồ bình”, kết hợp bạo loạn lật đổ
(BLLĐ) chống phá cách mạng Việt Nam. Sự chống phá, lợi dụng vấn đề tôn
giáo của các thế lực thù địch trong thời gian gần đây thường tập trung: Triệt
để lợi dụng vấn đề dân tộc đẩy mạnh các hoạt động chia rẽ, lơi kéo, kích động
ly khai, tự trị, nhằm tập hợp lực lượng trong các vùng dân tộc thiểu số. Nuôi
dưỡng, chứa chấp các phần tử phản động cực đoan trong số người dân tộc
thiểu số lưu vong để thành lập các tổ chức, đảng phái phản động rồi tung vào
các tỉnh ở Tây Nguyên hoạt động chống phá chính quyền nhân dân. Chúng lợi
dụng tơn giáo để thâm nhập, tác động nhằm chia rẽ, lôi kéo, tập hợp và âm
mưu sử dụng đồng bào dân tộc thiểu số vào các hoạt động cực đoan, quá
khích, biểu tình, bạo loạn. Thơng qua con đường viện trợ từ thiện để tuyên
truyền, kích động các phần tử phản động, lơi kéo cán bộ, trí thức người dân
tộc thiểu số gây bạo loạn lật đổ.
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, lần đầu tiên
Đảng ta đề cập trực tiếp các nội dung về tôn giáo và công tác tơn giáo một
cách tồn diện, có trọng điểm với dung lượng nhiều nhất so với các kỳ đại hội
trước đó. Trong 10 văn bản trình bày ở 02 tập của văn kiện, có 04 văn bản đề
cập trực tiếp các nội dung liên quan đến tôn giáo:
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn
kiện trình Đại hội XIII của Đảng, Đảng ta nhấn mạnh: “Tập trung hoàn thiện
và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tơn giáo; có những chính
sách đặc thù giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt
đồn kết tơn giáo, đại đồn kết tồn dân tộc. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành
động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của
đất nước”.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII của Đảng, trong phần xây dựng và
phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh của con người Việt Nam, Đảng ta nêu rõ:
16
“Phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tơn giáo, tín ngưỡng. Phê
phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan”2. Đối với nhiệm
vụ, giải pháp thực hiện về công tác tôn giáo, Đảng ta khẳng định: “Vận động,
đoàn kết, tập hợp các tổ chức tơn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp
đạo”, đóng góp tích cực cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm
cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật và hiến
chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hóa,
đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước.
Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn
giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại
đồn kết tơn giáo và khối đại đồn kết toàn dân tộc”.
17
Chương 3
GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ
ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÔN GIÁO VIỆT NAM
Tín ngưỡng, tơn giáo là vấn đề rất tế nhị và nhạy cảm. Vì vậy, việc đề
ra chính sách và thực hiện chính sách đối với tín ngưỡng, tơn giáo là vấn đề
khó khăn, phức tạp, phải hết sức thận trọng. Do vậy, yêu cầu đặt ra là Đảng
và Nhà nước phải dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và căn cứ vào những đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam để đề ra
các chủ trương, chính sách đối với cơng tác tín ngưỡng, tơn giáo. Xác định rõ
vai trị của tơn giáo trong đời sống xã hội, thừa nhận tôn giáo là một hiện
tượng xã hội còn tồn tại lâu dài, đồng thời tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng
của nhân dân. Những vấn đề tôn giáo cần gắn liền với quá trình vận động
cách mạng, cải biến xã hội và nâng cao nhận thức quần chúng. Đồng thời, để
khắc phục những yếu tố tiêu cực của tôn giáo, cần quan tâm đến cuộc đấu
tranh trên lĩnh vực tư tưởng, coi trọng tuyên truyền, vận động giáo dục thế
giới quan duy vật biện chứng, phương pháp luận khoa học cho quần chúng
nhân dân và các tín đồ. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận
động quần chúng. Đồng bào có đạo hay khơng có đạo đều là cơng dân Việt
Nam, có quyền và nghĩa vụ bình đẳng như nhau trước pháp luật.
Tình hình thực hiện chính sách tơn giáo ở nước ta trong những năm
qua, về cơ bản các chính sách tơn giáo ngày càng được cụ thể hố, đáp ứng
ngày càng tốt hơn nguyện vọng của chức sắc và tín đồ. Nhờ chính sách phát
triển kinh tế phù hợp đã làm cho đời sống vật chất và tinh thần của chức sắc,
tín đồ được nâng lên, hoạt động của các tôn giáo sôi nổi hơn trước; việc xây
mới, sửa chũa cơ sở thờ tự đã được nhà nước quan tâm. Chúng ta đã củng cố
khối đoàn kết những người có tín ngưỡng, tơn giáo với nhau. Chức sắc, tín đồ
ngày càng tin tưởng vào chính sách của Đảng, vào công cuộc đổi mới ở nước
ta. Đồng thời chúng ta đã ngăn chặn, phá vỡ được những âm mưu của các thế
lực thù địch lợi dụng tơn giáo vì mục đích kinh tế, chính trị…
18