Tải bản đầy đủ (.doc) (167 trang)

Luận án tiến sỹ - Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng chính sách tôn giáo hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.63 KB, 167 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn trong luận án có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Các kết quả trình bày trong
luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên
cứu nào khác.
Hà nội, ngày tháng 09 năm 2015
Tác giả luận án


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT
01
02
03
04
05
06
07

Chữ viết đầy đủ
Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia
Chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội khoa học
Uỷ ban Trung ương
Sưu tầm
Biên soạn

Chữ viết tắt
Nxb
CTQG


CNXH
CNXHKH
UBTW
St
Bs


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN.........................................................................................5
1.1. Nhóm các công trình đề cập đến quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
về tôn giáo.............................................................................................................. 5
1.2 Nhóm các công trình đề cập đến sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin về
tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh.....................................................................9
1.3. Nhóm các công trình đề cập đến sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong xây dựng chính sách tôn giáo.............................................................19
Chương 2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ TÔN GIÁO
................................................................................................................................. 28
2.1. Về nguồn gốc của tôn giáo............................................................................29
2.2. Về bản chất của tôn giáo...............................................................................40
2.3. Về chức năng xã hội của tôn giáo..................................................................54
2.4. Về chính sách đối với tôn giáo của các Đảng mácxít....................................58
2.5 Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội.......................73
Chương 3. SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁCLÊNIN VỀ TÔN GIÁO TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH, TRONG
QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM TRƯỚC ĐỔI MỚI...........................................................................76
3.1. Sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo trong tư
tưởng Hồ Chí Minh..............................................................................................76
3.2. Sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo trong

quan điểm và chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt
Nam trước đổi mới...............................................................................................91
Chương 4. SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁCLÊNIN VỀ TÔN GIÁO TRONG VIỆC XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH TÔN
GIÁO Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI.......................................................113


4.1. Cơ sở thực tiễn cho việc hình thành quan điểm, chính sách tôn giáo của
Đảng và Nhà nước Việt Nam thời kỳ đổi mới....................................................113
4.2. Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam từ
1986 đến 1990....................................................................................................124
4.3. Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam thời
kỳ từ 1990 đến nay.............................................................................................131
KẾT LUẬN..........................................................................................................150
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN......................................................................153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................154


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, đồng thời cũng là một thực thể chính
trị, xã hội đã xuất hiện từ thuở xa xưa của lịch sử nhân loại và còn tồn tại lâu dài.
Từ khi xuất hiện, tôn giáo luôn là yếu tố tham gia vào các quá trình xã hội, ảnh
hưởng đến nhiều mặt của đời sống con người. Trong lịch sử phát triển tôn giáo đã
trải qua nhiều bước thăng trầm và biến đổi. Chủ nghĩa Mác-Lênin lần đầu tiên trong
lịch sử tư tưởng đã chỉ ra nguồn gốc, bản chất của tôn giáo trong xã hội loài người.
Trong mấy thập kỷ trở lại đây, vấn đề tôn giáo trở nên phức tạp, hiện tượng
cuồng tín tôn giáo và sự xuất hiện của nhiều hình thức tín ngưỡng, giáo phái mới đã
làm cho giới học giả và các tổ chức chính trị trên thế giới thực sự “lúng túng” trong
cách giải quyết vấn đề tôn giáo. Các vấn đề nghiên cứu cụ thể đó dường như đối

nghịch lại với các quan điểm truyền thống, đặc biệt là đối nghịch với các quan điểm
của chủ nghĩa Mác về tôn giáo.
Cùng với đó, trong những năm gần đây, ở Việt Nam, các tôn giáo có sự phục
hồi, phát triển và diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị- xã
hội. Lợi dụng chính sách tự do tôn giáo để truyền đạo trái phép, hành nghề mê tín dị
đoan thậm chí là tuyên truyền chống đối lại Đảng và Nhà nước Việt Nam. Từ những
vấn đề đặt ra trong hoạt động của tôn giáo, từ yêu cầu của thực tiễn đất nước, đảng
Cộng sản Việt Nam cần phải có một chủ trương, chính sách đúng đắn đối với tôn
giáo (thể chế hóa bằng các điều luật cụ thể) để làm sao vừa đảm bảo ổn định chính
trị, xã hội, xây dựng đất nước, vừa đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân, vừa chống lại những âm mưu chống phá chế độ, làm phương hại đến lợi
ích quốc gia.
Nhận thức được điều đó, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên tổng kết lý luận
và thực tiễn trong việc hoạch định chính sách và thực thi chính sách đối với tôn
giáo, trên cơ sở đó tiếp tục hoàn thiện những chủ trương, chính sách đối với tôn
giáo, nhằm đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn đất nước và quốc tế. Cùng với sự
nghiệp đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính
sách cởi mở hơn, thông thoáng hơn tạo điều kiện để các hoạt động tôn giáo được
phát triển thuận lợi và phát huy tính tích cực của tôn giáo đối với đời sống xã hội.

1


Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, trong quá trình thực hiện chính sách
tôn giáo, ở một số nơi, chính quyền và cán bộ làm công tác tôn giáo chưa nhận thức
được đầy đủ tinh thần, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nên chưa làm
tốt công tác tôn giáo, còn có nhiều nghi kỵ, thành kiến với tôn giáo (như nhấn mạnh
mặt tiêu cực của nó, công dân có đạo còn gặp nhiều khó khăn trong những thủ tục
hành chính, trong khi xử lý, giải quyết những vấn đề cụ thể liên quan đến tôn giáo
còn thờ ơ, thiếu trách nhiệm, để tồn tại hiện tượng khiếu kiện lâu dài việc chính

quyền địa phương tranh chấp đất đai, nơi thờ tự của tôn giáo…) dẫn đến sự hiểu
lầm của một bộ phận giáo dân và giới chức sắc tôn giáo cho rằng, chủ trương, chính
sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước ta vẫn muốn cấm cản tôn giáo, làm cho họ
không yên tâm, không tin tưởng vào chính sách của Nhà nước đối với tôn giáo.
Công tác vận động, hướng dẫn tín đồ và giới chức sắc tôn giáo thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng chưa được quan tâm đúng mức, do vậy chưa khuyến
khích, động viên họ thực hiện đúng, đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước…
Dựa trên những sai sót trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo nêu trên,
các thế lực thù địch tuyên truyền rằng, ở Việt Nam không có tự do tôn giáo, Cộng
sản chủ trương cấm đoán tôn giáo, từ đó, gây chia rẽ và phá hoại sự đoàn kết toàn
dân tộc.
Chính từ những vấn đề nêu trên, việc tìm hiểu, nghiên cứu quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, trên cơ sở lý luận đó, kết
hợp với thực tiễn và tình hình diễn biến tôn giáo trong nước và quốc tế, xây dựng
một chính sách tôn giáo đúng. Tổng kết quá trình thực hiện chính sách tôn giáo rút
ra những bài học kinh nghiệm, từ đó có những đánh giá, dự báo, kiến nghị góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo và hoàn thiện chính sách đối với tôn giáo trong tình hình mới hiện nay luôn là
một vấn đề có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn cấp bách.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Quan điểm của Chủ nghĩa
Mác-Lênin về tôn giáo và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây
dựng chính sách tôn giáo hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ triết
học của mình.

2


2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích

Trên cơ sở làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo, luận án
phân tích sự vận dụng quan điểm này trong tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng chính sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, phân tích, làm rõ những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về
nguồn gốc, bản chất, chức năng của tôn giáo cũng như chính sách đối với tôn giáo
của các Đảng mácxít
Thứ hai, phân tích sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo
trong tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trước thời kỳ
đổi mới
Thứ ba, phân tích sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn
giáo trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với việc xây dựng chính
sách tôn giáo ở Việt Nam thời kỳ đổi mới
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo và
sự vận dụng của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng chính
sách tôn giáo hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Quan điểm cơ bản của các nhà kinh điển chủ nghĩa
Mác-Lênin về tôn giáo. Nội dung tư tưởng tôn giáo cơ bản của Hồ Chí Minh và sự
vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng chính sách tôn giáo từ khi
thành lập Đảng đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo.
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp luận được sử dụng trong luận án là
phương pháp luận duy vật biện chứng. Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp lịch sử- lôgic, phương

3



pháp phân tích- tổng hợp, phương pháp so sánh- đối chiếu, phương pháp quy nạpdiễn dịch…
5. Đóng góp mới của luận án
- Về mặt khoa học:
+ Trên cơ sở luận giải một cách có hệ thống những quan điểm cơ bản của
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo, luận án bước đầu nêu lên ý
nghĩa và giá trị của những quan điểm khoa học ấy, đồng thời chỉ ra những điểm còn
hạn chế trong những luận điểm về tôn giáo của các ông.
+ Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn
giáo để từ đó khẳng định Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng
sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo trong điều kiện lịch sử- cụ
thể của Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn: Luận án có thể làm tư liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu và giảng dạy triết học tôn giáo, cũng như công tác quản lý nhà nước về hoạt động
tôn giáo. Luận án cũng góp phần đưa ra một số luận cứ khoa học cho việc xây dựng
và hoạch định chính sách đối với tôn giáo cho phù hợp với điều kiện thực tiễn trong
nước và quốc tế.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương; 13 tiết.

4


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Tôn giáo vốn là đối tượng nghiên cứu của triết học trong suốt quá trình tồn tại
và phát triển. Mức độ nghiên cứu vấn đề tôn giáo ở các thời đại hay các nhà triết học là

khác nhau. Việc nghiên cứu tôn giáo, nhất là nghiên cứu các quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin về tôn giáo cũng như sự vận dụng của Đảng ta được rất nhiều tác giả, tác
phẩm, các công trình bàn bạc, nghiên cứu một cách nghiêm túc. Khi tìm hiểu, nghiên
cứu quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo, chúng ta có thể
nhận thấy các luận điểm, các mệnh đề bàn về tôn giáo nằm rải rác trong các tác phẩm,
chẳng hạn như tác phẩm: "Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen- Lời
nói đầu" năm 1843 của C.Mác; "Luận cương về Phoiơbắc", "Bản thảo kinh tế- triết
học năm 1844" của C.Mác. Với Ph.Ăngghen qua một số tác phẩm nổi tiếng: “Chiến
tranh nông dân ở Đức" được viết vào mùa hạ-thu năm 1840; "Chống Đuyrinh" năm
1876-1878; "Brunô Bauơ và đạo Cơ đốc khởi thủy" tháng 4 năm 1882; "Sách khải thị"
viết tháng 6-7 năm 1883; "Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển
Đức" viết đầu năm 1886; "Biện chứng của tự nhiên" tháng 1 năm 1878; "Sự phát triển
của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học" năm 1892; "Bàn về lịch sử đạo Cơ
đốc sơ kỳ" năm 1894.
Khi nghiên cứu về tôn giáo V.I.Lênin có một số tác phẩm chủ yếu: "Chủ nghĩa
xã hội và tôn giáo" tháng 12 năm 1905; "Thái độ của Đảng công nhân đối với tôn
giáo" công bố tháng 5 năm 1909; "Thái độ của các giai cấp và các đảng phái đối với
tôn giáo và giáo hội" tháng 6 năm 1909; "Phái tự do và giới tăng lữ" tháng 7 năm
1912; hay "Dự thảo cương lĩnh của Đảng Cộng sản (b) Nga", trong đó có điểm nói về
quan hệ tôn giáo trong cương lĩnh công bố ngày 26 tháng 2 năm 1919....
1.1. Nhóm các công trình đề cập đến quan điểm của chủ nghĩa MácLênin về tôn giáo
Công trình Trích tác phẩm của C.Mác-Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí
Minh về vấn đề tôn giáo, sách tham khảo của Trung tâm khoa học về tín ngưỡng và
tôn giáo của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1998. Cuốn sách tuyển
chọn ngắn gọn, dễ hiểu những đoạn trích, những câu nói tiêu biểu, xúc tích của

5


C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh về nguồn gốc, bản chất, tính chất

và vai trò của tôn giáo cũng như những luận điểm có tính nguyên tắc và phương
pháp giải quyết vấn đề tôn giáo.
Tác phẩm C.Mác-Ph.Ăngghen về vấn đề tôn giáo do Nguyễn Đức Đạt (chủ
biên) Nxb Khoa học xã hội, xuất bản năm 1999; trong tác phẩm này tác giả đã tuyển
chọn những ý kiến của C.Mác và Ph.Ăngghen về tôn giáo; sưu tập và trích lục
những tác phẩm và những đoạn văn viết về tôn giáo trong C.Mác- Ph.Ăngghen toàn
tập. Những ý kiến của hai ông về tôn giáo vừa có tính nguyên tắc, đúng đắn, vừa
mang tính chất sắc bén khoa học.
Tác phẩm Mác, Ăngghen, Lênin, bàn về tôn giáo và chủ nghĩa vô thần, sách
tham khảo của Nxb Chính trị Quốc gia, xuất bản năm 2001. Tác phẩm được dịch từ
bản tiếng Trung Quốc. Công trình tập hợp những tác phẩm và những ý kiến chủ yếu
của C.Mác, Ph.Ăngghen, và V.I.Lênin và một số ý kiến của Xtalin về vấn đề lý luận
tôn giáo; chính sách đối với tôn giáo, chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa duy vật, quan
hệ giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Bên cạnh đó, tác phẩm còn có trích một số
luận điểm có tính chất nền tảng về tôn giáo. Công trình còn nêu ra bản chất và
nguyên nhân tồn tại của tôn giáo, sự ảnh hưởng xã hội cũng như sự mất đi của tôn
giáo, lý luận chủ nghĩa duy vật mácxít và chủ nghĩa vô thần, thái độ và chính sách
của Đảng vô sản đối với tôn giáo.
Tác phẩm Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây
dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện nay của TS.Nguyễn Hữu Khiển
(chủ biên), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001, cuốn sách gồm 7 chương, trong
đó có chương 1 và chương 5 liên quan đến nội dung luận án. Kế thừa tư tưởng
C.Mác-Ph.Ăngghen; V.I.Lênin trình bày quan điểm của mình về tôn giáo trong điều
kiện chủ nghĩa tư bản Nga nói riêng và chủ nghĩa tư bản đang trong quá trình phát
triển thành chủ nghĩa đế quốc. Đặc biệt, Lênin đã có nhiều quan điểm về tôn giáo
trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội. Theo tác giả "Lênin cho rằng tôn giáo là một
hiện tượng tinh thần phản ánh một cách siêu tự nhiên nhưng lại có ảnh hưởng đến
đời sống hiện thực vì vậy tôn giáo được cả giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột sử
dụng như chỗ dựa tinh thần đối với người lao động" [56, tr.25]. Đây là một trong
những gợi ý sâu sắc, quan điểm của tác giả giống như quan điểm của các nhà kinh

điển; điều mà mọi người thường hay nghĩ tôn giáo được giai cấp bóc lột sử dụng để

6


nô dịch đời sống tinh thần người lao động, vậy mà giai cấp bị bóc lột cũng tìm thấy
nơi an ủi, chỗ dựa tinh thần.
Năm 2005, tập thể tác giả TS.Đỗ Minh Hợp, TS.Nguyễn Anh Tuấn,
TS.Nguyễn Thanh, Th.S Lê Hải Thanh cho ra mắt bạn đọc tác phẩm Tôn giáo lý
luận xưa và nay, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, trong chương II phần thứ
nhất, tập trung nghiên cứu lịch sử triết học của tôn giáo, trình bày quan điểm các
nhà triết học tiền bối trong lĩnh vực tôn giáo, những nghiên cứu này là cơ sở để luận
án khi nghiên cứu những luận điểm của chủ nghĩa Mác về tôn giáo sẽ đem so sánh
với những quan điểm trước C.Mác về tôn giáo.
Vào tháng 10 năm 2005, tác giả Đỗ Quang Hưng cho ra mắt bạn đọc tác
phẩm Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam- Lý luận và thực tiễn, đây là công
trình thu hút được nhiều người quan tâm và đánh giá cao. Công trình gồm bốn phần,
trên 500 trang, trên cơ sở hệ thống những nét chủ yếu của vấn đề lý luận và thực
tiễn trong công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta từ năm 1920 đến nay. Trên cơ
sở nghiên cứu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với nhận thức lý luận của
Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo và đặc biệt nêu được nội dung, vai trò tư
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo. Từ đó, tác giả đã chỉ ra được quá trình phát sinh,
phát triển tư duy lý luận cũng như việc xây dựng, phát triển, hoàn thiện đường lối,
chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Công trình Một số chuyên đề về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam
của tập thể tác giả TS.Doãn Hùng, TS.Nguyễn Thanh Xuân, TS.Đoàn Minh Huấn,
Nxb Tôn giáo, Hà Nội, năm 2007. Công trình gần 300 trang, hai phần, phần I, các
tác giả mới chỉ nêu khái quát, sơ lược tư tưởng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
về bản chất, nguồn gốc, chức năng, tính chất của tôn giáo. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo thì công trình mới đề cập đến tư tưởng về đoàn kết tôn giáo và tự

do tín ngưỡng tôn giáo, điều này đã được nhiều công trình nghiên cứu, còn tư tưởng
về tính tương đồng giữa tôn giáo và cách mạng xã hội chủ nghĩa, hay tư tưởng về
ứng xử khoan dung tôn giáo, vấn đề phòng chống kẻ thù lợi dụng tôn giáo...đầy tính
thời sự thì công trình này không đề cập đến.
Cũng năm 2007, PGS.TS Nguyễn Đức Lữ, thuộc Viện nghiên cứu tôn giáo
và tín ngưỡng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, xuất bản tác phẩm Lý
luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam. Tác phẩm gồm 10 bài và các

7


phụ lục. Tác phẩm chủ yếu trình bày về tình hình, đặc điểm và các tôn giáo cụ thể ở
Việt Nam. Cũng giống như mọi công trình nghiên cứu về quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin tác phẩm cũng chia theo nguồn gốc, bản chất, chức năng và tính chất
của tôn giáo một cách khái quát.
Bên cạnh các tác phẩm tiêu biểu nghiên cứu quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin
về tôn giáo, còn có các bài viết đăng trên các tạp chí. Bài viết Tôn giáo, thuốc phiện
của nhân dân và sự phản kháng chống lại khốn cùng thực tại- Các quan điểm của
Mác và Lênin của GS.Sergio Vuscovic RoJo người Chi Lê đăng trên tạp chí Nghiên
cứu Tôn giáo, số 2 năm 2000. Bài viết đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và đăng trên
các tạp chí của nhiều nước. Tác giả đã dựa trên quan điểm của Mác nhận định về
tôn giáo "tôn giáo vừa là biểu hiện vừa là sự phản kháng nỗi khốn cùng của thực
tại" [118,tr.14]. Theo GS.Sergio Vuscovic RoJo, C.Mác không phải là người đầu
tiên nhận định rằng "tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. C.Mác tiếp cận nó bởi
vì nó phản ánh vai trò của tôn giáo ở nước Đức thời bấy giờ. Với tư cách là sự phản
kháng ban đầu, tôn giáo từng là một yếu tố tích cực, vì nó đã đóng vai trò tập hợp
quần chúng tín đồ. Sự phản kháng chống lại nỗi khốn cùng thực tại của sự bất
lực,bất bình đẳng trong xã hội họ lại tìm đến tôn giáo như chỗ dựa tinh thần, sự an
ủi, chở che, như liều thuốc giảm đau tinh thần và thông qua đó khuyến khích quần
chúng tín đồ, trong ước muốn sâu xa của họ là thay đổi tình hình xã hội hay chính

trị của đất nước.
Bài viết Từ quan điểm duy vật lịch sử của C.Mác xem xét vấn đề tôn giáo ở
nước ta của TS Ngô Hữu Thảo đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 3, năm
2004. Theo tác giả, từ chỗ khẳng định quan điểm duy vật lịch sử trong việc nhận
thức vấn đề tôn giáo, C.Mác hướng đến việc giải quyết vấn đề tôn giáo trên hiện
thực. Vận dụng quan điểm duy vật lịch sử của C.Mác trong việc xem xét, giải quyết
vấn đề tôn giáo ở nước ta là rất cần thiết. Những gợi ý của tác giả, luận án đã vận
dụng vào quá trình xây dựng chính sách tôn giáo thời kỳ từ 1990 đến nay.
Bài viết Những di sản quý giá Ph.Ăngghen về tôn giáo của PGS.TS Nguyễn
Đức Lữ đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5, năm 2004. Trong bài viết này,
tác giả đã nhận định những tư tưởng quý báu của Ph.Ăngghen về tôn giáo vẫn là
một trong cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu, hoạch định chính sách ở nước ta.

8


Luận án kế thừa những gợi ý của tác giả và bổ sung vào phần nguồn gốc, bản chất
của tôn giáo.
Tháng 6/năm 2010, PGS.TS.Đỗ Lan Hiền có bài viết V.I.Lênin nói về thái
độ của Người Cộng sản đối với tôn giáo trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, bài viết
được đăng trên Tạp chí Triết học số 6. Trong bài này, tác giả trình bày quan điểm
của V.I.Lênin về thái độ của người Cộng sản đối với tôn giáo trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Tác giả cho rằng "Theo V.I.Lênin, những người Cộng sản phải đấu
tranh chống tôn giáo, đó là điều sơ đẳng của toàn bộ chủ nghĩa duy vật, của chủ
nghĩa Mác" [36, tr.27]. Tuy nhiên, đấu tranh chống tôn giáo không phải theo kiểu
"tung hiến binh ra để truy kích tôn giáo", đập phá nhà thờ, điều quan trọng là phải
"xóa bỏ toàn bộ những cơ sở hiện thực làm nảy sinh tôn giáo, chứ không thể thanh
toán tôn giáo bằng bạo lực, bằng luật pháp hay đơn giản tuyên bố nó là cái vô nghĩa,
vì tôn giáo đã tồn tại và thống trị phần lớn nhân loại trong suốt hơn hai nghìn năm"
[36, tr.27].

Bài viết Về nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của Nguyễn Hoài Sanh đăng trên
Tạp chí Triết học số 8, năm 2012, trong đó tác giả đã tiếp cận nghiên cứu tôn giáo
từ nhu cầu; nhu cầu tôn giáo không tự nhiên mà có, mà nó gắn với hoạt động xã hội
hiện thực của con người, với sự bất lực của con người trong các hoạt động ấy.Trên
cơ sở trình bày hệ thống hóa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng ghen về nhu cầu tôn
giáo, tác giả đã luận giải nhằm góp phần làm sáng tỏ quan điểm của Đảng trong thời
kỳ đổi mới về nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo. Luận án sẽ tiếp thu những gợi mở này
để đóng góp bổ sung vào luận án.
1.2. Nhóm các công trình đề cập đến sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn
giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Công trình Hồ Chí Minh về tôn giáo, tín ngưỡng của Viện Nghiên cứu Tôn
giáo, Nxb Khoa học Xã hội, xuất bản năm 1996, tái bản bổ sung lần thứ 2 năm
1998. Trong lời tựa cuốn sách, GS.Đặng Nghiêm Vạn cho rằng, Hồ Chí Minh đã
"chuyển ý của các vị cho thích hợp với thời đại, hợp với dân chúng mà tinh thần cơ
bản không hề thay đổi" [145, tr.10]. Điều đó, chứng tỏ Hồ Chí Minh đã biết vận
dụng tài tình những tư tưởng tôn giáo của Chủ nghĩa Mác-Lênnin ở phương Tây
phù hợp với xã hội phương Đông mà không hề giảm bớt giá trị ý nghĩa của nó.
Trong tác phẩm này, tác giả Ngô Phương Bá đã đề cập đến những quan điểm của

9


Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo thông qua những giai đoạn lịch sử cũng như
thông qua cách giải quyết tôn giáo trong cách mạng giải phóng dân tộc. Đường lối
đoàn kết tôn giáo, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, bắt nguồn từ tư tưởng đại đoàn
kết của Hồ Chủ tịch. Đây là những ý kiến có giá trị, trực tiếp đề cập đến mối quan
hệ giữa tôn giáo và chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam.
Tiếp đến, tác phẩm Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam
của Viện Nghiên cứu Tôn giáo, đây là công trình của tập thể các nhà khoa học bàn
về tín ngưỡng, tôn giáo của Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học Xã hội, năm 1998. Trong

cuốn sách này, tác giả Phạm Như Cương có "Bàn về thái độ và phương pháp khi
nghiên cứu các tác phẩm của Mác, Ăngghen, Lênin và Hồ Chí Minh về tôn giáo";
tác giả đã nêu lên quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về nguồn gốc, bản chất, vai
trò của tôn giáo giúp cho giai cấp vô sản có cái nhìn cách mạng khoa học về tôn
giáo. Trên cơ sở những quan điểm khoa học của C.Mác, Ph.Ăngghen về tôn giáo,
V.I.Lênin đã vận dụng tài tình vào điều kiện hoàn cảnh của nước Nga để xây dựng
nên chính sách tôn giáo, bổ sung thêm về nguồn gốc xã hội của tôn giáo, sách lược
của giai cấp vô sản đối với tôn giáo. Đồng thời, tác giả cũng đã chỉ ra tư tưởng Hồ
Chí Minh về tôn giáo, tín ngưỡng dựa trên những luận điểm chủ yếu của Chủ nghĩa
Mác-Lênin về tôn giáo, tín ngưỡng nhưng được vận dụng vào điều kiện Việt Nam.
Luận án tiếp thu, kế thừa có chọn lọc và làm sắc nét hơn những tư tưởng biện chứng
của Hồ Chí Minh và sự vận dụng tài tình những quan điểm về tôn giáo của Chủ
nghĩa Mác-Lênin vào xã hội Việt Nam không nặng nề theo quan điểm tả khuynh
hay giáo điều; mà rất mềm dẻo, linh hoạt, nhiều quan điểm của chủ tịch Hồ Chí
Minh về tôn giáo mà trước đây các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác chưa có điều kiện
nghiên cứu.
Trong công trình này, với bài viết Vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, theo tác giả Đỗ Quang Hưng đã nhấn mạnh: điểm đặc sắc nhất
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là Người đã đặt sang một bên những vấn đề
mang tính ý thức hệ vô thần- hữu thần, vấn đề thế giới quan duy tâm- duy vật, để
nhìn nhận tôn giáo từ góc độ văn hóa- đạo đức, tâm linh, tôn giáo là vấn đề con
người chứ không phải là vấn đề nhận thức luận, ý thức hệ. Đây là cách nhìn rất mới
mẻ và đầy tính sáng tạo khi vận dụng tài tình quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
về tôn giáo.

10


Năm 1988, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí cho ra mắt tác phẩm Thập giá và
lưỡi gươm của tác giả Trần Tam Tỉnh, giáo sư Đại học Laval, tỉnh Quebec (Canada),

Viện sĩ Viện Hàn lâm Hoàng gia Canada với những nhận xét trung thực, khách quan
và tinh tế, đúng đắn; tác giả đã lột tả được những tình cảm chân thực của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đối với đồng bào Công giáo trong thời khắc lịch sử nóng bỏng và
nhạy cảm. Linh mục Trần Tam Tỉnh khẳng định, đối với giáo hội Công giáo, cụ Hồ
Chí Minh đã tỏ ra hết sức có tình có lý. Chỉ hai tháng sau ngày độc lập, linh mục Lê
Hữu Từ được cử làm trưởng đoàn Chính phủ gồm bốn vị bộ trưởng đến tham dự,
trong đó có những cán bộ cao cấp nhất của Việt Minh là ông Phạm Văn Đồng, Võ
Nguyên Giáp và vị cố vấn tối cao của Người là cựu Hoàng Bảo Đại. Trong thư chúc
mừng giám mục mới, Người tỏ ra vui sướng vì có một nhà lãnh đạo mới của người
Công giáo, giúp giáo dân biết hy sinh và chiến đấu bảo vệ tự do và độc lập của đất
nước. Ngày 25/2/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đích thân đi một mình không có đoàn
bảo vệ, đến Phát Diệm để long trọng tuyên bố: “Từ nay, giám mục Lê Hữu Từ sẽ là
cố vấn tối cao của Chánh phủ” [130, tr.27]. Đây là tài liệu có giá trị cho những nhà
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo nói chung, cũng như những tình cảm
của Người đối với đạo Công giáo nói riêng.
Tiếp đó, tác phẩm Bàn về đạo Nho của Nguyễn Khắc Viện, Nxb Thế giới, Hà
Nội, năm 2000 đã nêu lên sự ảnh hưởng rất sâu sắc của Nho giáo trong xã hội Việt
Nam, đồng thời tác giả cuốn sách cũng đã chỉ ra sự khác biệt giữa Nho giáo và chủ
nghĩa Mác, nhiều nhà Nho đã có bước nhảy vọt từ tư tưởng Nho giáo sang chủ
Nghĩa Mác, điển hình nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, luận án sẽ
chứng minh thêm bằng đường hoạt động cách mạng, con đường thực tiễn là yếu tố
quyết định cho sự ra đời quan điểm tín ngưỡng, tôn giáo của Hồ Chí Minh.
Công trình Một số vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo của mặt trận, tài liệu
lưu hành nội bộ của Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Hà Nội, năm
2000. Phần thứ hai của cuốn sách có đề cập đến chủ trương chính sách của Đảng,
Nhà nước Việt Nam đối với tôn giáo. Trong phần này, cuốn sách có nêu lên khái
quát bản chất, nguồn gốc, chức năng của tôn giáo theo quan điểm của Chủ nghĩa
Mác-Lênin "Khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, cuốn sách đã gợi
mở: Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh điểm tương đồng giữa các tôn giáo với
Chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh hiểu tôn giáo như là nơi gửi gắm


11


nguyện vọng tha thiết của quần chúng lao động và các dân tộc bị áp bức, mong chờ
được giải thoát nghèo nàn, bất công" [147, tr.89]. Điều đó cũng có nghĩa “giữa tín
ngưỡng, tôn giáo và cuộc đấu tranh cho con người, cho dân tộc cho nhân loại,
không có mâu thuẫn, đối lập về mục tiêu, khát vọng, giữa tôn giáo với chủ nghĩa xã
hội càng không hề có sự đối lập mâu thuẫn như nước với lửa như bọn thực dân và
đế quốc vẫn tuyên truyền" [147, tr.89]. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lý giải rằng tôn
giáo không mâu thuẫn với tổ quốc, và hơn thế nữa, tôn giáo không đối lập với lý
tưởng cộng sản.
Đây chính là sự vận dụng sáng tạo, đặc sắc tư tưởng Hồ Chí Minh trong
điều kiện cách mạng Việt Nam mà luận án kế thừa để nghiên cứu thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về tôn giáo và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ở Người luôn nhấn
mạnh đề cao điểm tương đồng giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội; tư tưởng tự do
tín ngưỡng, tôn giáo.
Tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc tôn giáo và đại đoàn kết trong
cách mạng Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, xuất bản năm 2003, tác giả Ngô
Phương Bá trong bài viết "Những biểu hiện sinh động của tư tưởng Hồ Chí Minh về
tôn giáo, tín ngưỡng" đã đề cập đến tư tưởng khoan dung, hòa hợp đối với các tôn
giáo thông qua mối quan hệ của Hồ Chí Minh với các chức sắc, giáo hội và đồng
bào Công giáo. Luận án đã chú ý đến những gợi ý này và phát triển thành tư tưởng
của Hồ Chí Minh về ứng xử khoan dung với tôn giáo. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
khoan dung tôn giáo thể hiện tư tưởng khoan dung mácxít, khoan dung để hướng tới
sự đoàn kết dân tộc, sự đồng thuận xã hội trong công cuộc xây dựng xã hội mới.
Thái độ ứng xử khoan dung của chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện rõ trong Sắc lệnh
234-SL, chương III, hay sắc lệnh 197/SL (19/12/1953). Quan điểm ứng xử khoan
dung với tôn giáo của Hồ Chí Minh góp phần làm phong phú lý luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin về tôn giáo.

Nhân kỷ niệm 112 năm nhân ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã tổ chức cuộc hội thảo: Nội dung cơ bản trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo. Các bài tham luận này được
ấn hành thành công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo do
hai tác giả Lê Hữu Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ (đồng chủ biên), Nxb Tôn giáo, xuất
bản năm 2003. Công trình này được chia làm hai phần. Phần thứ nhất, gồm các bài

12


viết của Hồ Chí Minh về tôn giáo. Phần thứ hai, gồm các bài tham luận của Hồ Chí
Minh về công tác tôn giáo. Ở đây, chúng tôi thấy ý kiến của các nhà khoa học rất có
giá trị, gợi mở vấn đề để luận án tiếp tục nghiên cứu tiếp, chẳng hạn tác giả Phạm
Như Cương đặt vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận khi nghiên cứu C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.Lênin và Hồ Chí Minh về tôn giáo; hay GS.Đặng Nghiêm Vạn nêu
lên tư tưởng Hồ Chí Minh với đặc trưng tôn giáo Việt Nam; tiếp đó ý kiến của tác
giả Đỗ Quang Hưng đề cập tư tưởng Hồ Chí Minh và nền tảng luật pháp tôn giáo ở
Việt Nam.
Năm 2005, công trình Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam- lý luận và
thực tiễn của tác giả Đỗ Quang Hưng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đây là công
trình nghiên cứu rất công phu của tác giả, theo trình tự thời gian, qua đó nêu bật lên
vai trò của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng sáng tạo lý luận của Chủ nghĩa MácLênin trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặc biệt là những đóng góp của Hồ Chủ
tịch trong ứng xử với tôn giáo và luật pháp tôn giáo. Luận án sẽ phát triển những
gợi ý quan trọng của tác giả về sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa MácLênin về tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh, về các quan điểm, chính sách về tôn
giáo qua các thời kỳ cách mạng, trong việc xây dựng luật pháp tôn giáo.
Đảng và Nhà nước ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm
đến vấn đề tôn giáo và định ra đường lối chính sách tín ngưỡng tôn giáo đúng
đắn. Với chính sách đoàn kết tôn giáo để hướng tới; chính sách tự do tín ngưỡng,
sự khoan dung tôn giáo đó là những nghiên cứu mà TS.Hồ Trọng Hoài và
TS.Nguyễn Thị Nga đã khái quát trong cuốn sách Quan điểm của C.MácPh.Ăngghen-Lênin và Hồ Chí Minh về tôn giáo và sự vận dụng của Đảng Cộng

sản, của Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2006. Theo các tác giả, những người Việt
Nam yêu nước có thể tiến hành chiến lược đoàn kết và có thể đoàn kết được "bởi
mọi người Việt Nam yêu nước, mọi tín đồ tôn giáo chân chính đều có chung
mong muốn mình được tự do, hạnh phúc, đều muốn nước nhà được độc lập" [41,
tr.89] đó chính là quan điểm đoàn kết lương - giáo trong tư tưởng của Hồ Chủ
tịch. Đây là những gợi ý để chúng tôi sẽ phát triển, đồng thời nhấn mạnh quan
điểm đoàn kết tôn giáo là một bộ phận trong tư tưởng đoàn kết dân tộc- một tư
tưởng lớn của Hồ Chí Minh; một vấn đề mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác-Lênin trước đây chưa có điều kiện nghiên cứu đến nhiều.

13


Năm 2007, Công trình Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt
Nam của PGS.TS Nguyễn Đức Lữ, Nxb Tôn giáo. Tác phẩm gồm 10 bài và các phụ
lục. Bài 2 có trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo. Trong phần
này tác giả cũng chỉ tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương
giáo; về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; về chống âm mưu lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo.
Điểm đặc sắc nhất đó là tính tương đồng giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội, hay
quan điểm ứng xử khoan dung với tôn giáo thì công trình không thấy đề cập đến.
Năm 2008, PGS.TS Nguyễn Đức Lữ, làm chủ nhiệm đề tài cấp bộ với công
trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và việc vận dụng ở Việt Nam hiện nay. Đề
tài gồm hai phần: Phần một, nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn
giáo. Phần hai, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo. Công trình này đã cung
cấp đến người quan tâm nghiên cứu tôn giáo về một số tư tưởng cơ bản của Hồ Chí
Minh về tôn giáo, về vai trò, vị trí và sự ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống xã
hội. Đồng thời, công trình cũng nêu lên sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong ứng xử với tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Đây là
những nghiên cứu có giá trị giúp cho luận án tham khảo.
Năm 2013, PGS.TS Nguyễn Đức Lữ cho ra mắt công trình Tôn giáo với

dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia. Trong phần I và II tác
phẩm có bàn về tính tương đồng, sự khác biệt giữa tôn giáo với chủ nghĩa xã hội
hay quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo với
chủ nghĩa xã hội. Những đóng góp trong tác phẩm chỉ là một đặc điểm nhỏ mà
luận án trình bày đó là tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa tôn giáo và
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ngoài những công trình tiêu biểu có nghiên cứu đến tư tưởng Hồ Chí Minh
về tôn giáo; còn có các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Bài viết
Vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng trong tư tưởng Hồ Chí Minh của tác giả Đỗ Quang
Hưng, đăng trên tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 1 năm 1999 đã nêu lên những nội
dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo. Theo tác giả
"Nguyễn Ái Quốc cũng đã phác họa những đường nét cơ bản về đặc tính một số tôn
giáo, nhân vật tôn giáo, tiêu biểu cũng như tâm thức tôn giáo của người Việt Nam
và Á Đông" [48, tr.25]; theo tác giả bài viết, đóng góp đầu tiên của Hồ Chí Minh
sau cách mạng tháng Tám chính là vấn đề luật pháp tôn giáo. Theo Đỗ Quang

14


Hưng, cách nhìn nhận đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn giáo rất sáng tạo,
linh hoạt và mang giá trị khoa học ở chỗ Hồ Chí Minh "không bao giờ đóng khung
trong chuyện tôn giáo cụ thể, không chỉ là vấn đề nhận thức luận, ý thức hệ mà còn
là vấn đề với con người nói chung trong tổng thể các quan hệ chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa" [48, tr.31]. Luận án sẽ tiếp thu và kế thừa những ý kiến mà tác giả đã
đưa ra, để từ đó thấy rõ sự khác biệt trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về tôn giáo
với những nhà kinh điển Chủ nghĩa Mác-Lênin là đã không quá nhấn mạnh vấn đề ý
thức hệ, duy vật-duy tâm mà xem xét tôn giáo trong quan hệ với con người, đạo
đức, văn hóa.
Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 1, năm 2003, tác giả Hồ Trọng Hoài với bài
viết Hồ Chí Minh về sự khoan dung tôn giáo. Theo tác giả: "Mặc dù thế giới quan

mácxít là sự khác biệt với thế giới quan tôn giáo, song nó chủ trương khắc phục sự
khác biệt trên cơ sở khoan dung- tôn trọng triệt để quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo
của con người. Nó chủ trương không xâm phạm đến đức tin bằng những biện pháp
hành chính hay mệnh lệnh, bằng sự đàn áp hay tuyên chiến. Cao hơn nữa, nó chủ
trương kiến tạo một "Thiên đường", một cõi "bồng lai" ngay chính ở cõi trần...
Ngoài ra, Chủ nghĩa Mác-Lênin còn chủ trương thực hành sự bình đẳng tôn giáo
trong cả tư tưởng và hành động. Sự khoan dung đó đủ nói lên rằng, đó là sự vượt
trội so với tư tưởng về một "trung tâm châu Âu" hay là sự phủ nhận tín ngưỡng của
người khác và xem đó là "dị" hay "tà" giáo" [40, tr.10]. Các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác-Lênin đã nói nhiều đến phương pháp đấu tranh mềm dẻo, khôn ngoan
với tôn giáo của những người cộng sản. Tác giả Hồ Trọng Hoài cho rằng, chủ nghĩa
Mác-Lênin chủ trương khắc phục sự khác biệt giữa thế giới quan mácxít và thế giới
quan tôn giáo trên cơ sở khoan dung. Tuy nhiên, cần làm rõ hơn khái niệm khoan
dung là gì? Chúng tôi sẽ trình bày rõ quan điểm ứng xử khoan dung với tôn giáo
của Hồ Chí Minh trong luận án của mình.
Bên cạnh các tạp chí, cuộc hội thảo do Học viện Chính trị -Hành chính Quốc
gia Hồ Chí Minh tổ chức nhân dịp kỷ niệm 112 năm, ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí
Minh vào năm 2002. Tại cuộc hội thảo, nhiều bài tham luận khoa học của các nhà
nghiên cứu tiêu biểu về tôn giáo đã được trình bày. Tác giả Đặng Nghiêm Vạn có
bài Hồ Chí Minh với đặc trưng tôn giáo Việt Nam đã nhấn mạnh quan điểm của Hồ
Chí Minh "Người An Nam...không có tôn giáo theo cách nghĩ của châu Âu" là trùng

15


hợp với ý kiến của nhà nghiên cứu có uy tín về tôn giáo Việt Nam -tác giả dẫn
L.Cadière, một linh mục chuyên nghiên cứu về tôn giáo Việt Nam: "Người Việt
Nam không có tôn giáo, khái niệm về đấng tối cao tuột khỏi họ, họ sống không có
Chúa" [148, tr.193]. Tác giả khẳng định việc thờ các vị đã khuất là hình thức tôn
giáo chủ yếu ở nước ta. Đây là một ý kiến sâu sắc, nhất là trong tình hình thế giới

hiện nay, xu thế bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc để chống lại sự "xâm lược"
của văn hóa ngoại lai.
Tại Hội thảo này, tác giả Lê Quang Vịnh (nguyên Trưởng ban Tôn giáo
Chính phủ) có bản tham luận về Tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý nhà nước đối
với tôn giáo. Trong đó, tác giả viết rằng: Khi nghiên cứu phương pháp luận Hồ Chí
Minh trong vấn đề tôn giáo, chúng ta lại gặp Mác: "Phê phán thượng giới trở thành
phê phán thế tục. Phê phán tôn giáo trở thành phê phán pháp quyền. Phê phán thần
học trở thành phê phán chính trị" [148, tr.210]. Đây là một luận điểm triết học hết
sức nổi tiếng của C.Mác, điều này rất đúng trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của
giai cấp công nhân ở châu Âu thế kỷ XIX-XX. Còn ở Việt Nam, điều này tất nhiên
là không sai nhưng cần thiết phải giải thích rõ hơn. Trong thực tiễn đấu tranh cách
mạng ở Việt Nam, Hồ Chí Minh với tư cách là lãnh tụ chưa bao giờ tiến hành cuộc
đấu tranh với tôn giáo về mặt thế giới quan hay về thần học, giáo lí vì điều này
không phù hợp với thực tiễn cách mạng ở Việt Nam. Luận án đã giải thích rõ hơn
vấn đề này dựa trên chính luận điểm của Hồ Chí Minh: "Không thể cấm bổ sung cơ
sở của lịch sử của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác
ở thời mình không thể có được... xem lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó,
củng cố nó bằng dân tộc phương Đông” [85, tr.456]. Đề cao những giá trị văn hóa,
đạo đức tín ngưỡng, tôn giáo, tập hợp, động viên đồng bào các tôn giáo đoàn kết
cùng đồng bào cả nước đấu tranh cho độc lập tự do hạnh phúc của toàn dân tộc,
chính là nét tinh túy của những quan điểm của Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo
mang lại nét đặc sắc phương Đông và Việt Nam.
Công trình Tôn giáo với dân tộc và chủ nghĩa xã hội của PGS.TS Nguyễn
Đức Lữ, xuất bản năm 2013, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Theo tác giả, mặc dù
thế giới quan và phương pháp luận của tôn giáo và chủ nghĩa xã hội là khác nhau;
tuy nhiên điểm chung hay nét tương đồng là đều có cùng ước mơ về một xã hội tốt
đẹp, cùng chung khát vọng về sự giải phóng con người thoát khỏi sự áp bức, bất

16



công, nô dịch và nghèo khổ. Tác phẩm gồm ba phần, trên 400 trang, trong đó phần
hai Tôn giáo đồng hành cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay. Phần này tác giả cũng có nhiều gợi ý cho luận án phát triển, bổ
sung quan điểm của Hồ Chí Minh về tôn giáo với cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Về các tác giả nước ngoài, mặc dù chưa có tác giả nào trực tiếp viết về Hồ
Chí Minh với tôn giáo, nhưng có nhiều tác giả viết về cuộc đời hoạt động cách
mạng của Hồ Chí Minh có liên quan đến vấn đề tôn giáo đã có những ý kiến và
nhận xét rất có giá trị. Bài báo của nhà báo, nhà thơ Xô viết Ôxíp Manđenxtam
đăng trên báo "Tia lửa nhỏ" (1923) cho chúng ta biết quan điểm hết sức cơ bản của
Hồ Chí Minh về tôn giáo Việt Nam là: ở Việt Nam không có tôn giáo theo cách nghĩ
của Châu Âu. Ngay cả Xanh-tơ-in Cao ủy Pháp nhiều năm ở Đông Dương mặc dù
có quan điểm chính trị trái ngược nhưng vẫn phải thừa nhận: Hồ Chí Minh có thái
độ rất tôn trọng các tôn giáo.
Công trình của tác giả người Trung Quốc, Hoàng Tranh Hồ Chí Minh với
Trung Quốc, Nxb Sao Mới, Bắc Kinh,1990 cung cấp nhiều tư liệu để chúng ta hiểu
rõ tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh- không những chỉ đoàn kết dân tộc, mà
còn đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân lao động trên toàn thế giới, không phân biệt
chính kiến, tôn giáo trong cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc xâm lược dân
tộc. Những nhận xét trên đây là những gợi ý để tác giả luận án tiếp tục phát triển
trong những quan điểm của Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo.
Bên cạnh các cuốn sách, còn có luận án Tiến sĩ của Phạm Hữu Xuyên về
Quan điểm Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo, năm 2007. Trên cơ sở phân tích
quá trình hình thành, phát triển và một số nội dung cơ bản quan điểm tín ngưỡng,
tôn giáo của Hồ Chí Minh. Tác giả trình bày những nét lớn về tình hình tôn giáo
trên thế giới và Việt Nam, đây chính là cơ sở thực tiễn để luận án trình bày sự vận
dụng quan điểm của Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng Việt Nam từ năm 1969
đến nay. Tuy nhiên, dưới cách tiếp cận của ngành tôn giáo học nên luận án ít tính
khái quát mang tính triết học. Khi nghiên cứu sự vận dụng quan điểm tín ngưỡng,
tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam tác giả luận án lấy mốc từ năm 1969, tức là

sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, nhưng thực chất là ngay từ khi thành lập,
Đảng ta luôn quan tâm đến chính sách tôn giáo, cụ thể chỉ thị của Thường vụ Trung

17


ương về thành lập Hội phản đế đồng minh ngày 18/11/1930 đã khẳng định về quyền
tự do, tín ngưỡng của nhân dân. Trong luận án này, tác giả mới chỉ vận dụng đến
pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo năm 2004 mà thôi.
Luận văn cao học của Cao Văn Tiền với đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tôn giáo, năm 2011. Luận văn
gồm hai chương. Chương một, tác giả trình bày một số nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo. Chương hai, trình bày quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng. Song, ở đây tác giả chủ yếu đề cập dưới
cách nhìn của nhà tôn giáo học, mà ít mang tính triết học.
Luận án tiến sỹ triết học của Lê Bá Trình với đề tài Quan điểm của Hồ Chí
Minh về tôn giáo và sự vận dụng quan điểm đó vào việc xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc ở nước ta hiện nay, tại Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam, năm
2012. Tác giả luận án đã nghiên cứu, tìm hiểu những nội dung cơ bản trong tư
tưởng của Hồ Chí Minh về tôn giáo, về đoàn kết dân tộc và sự vận dung quan điểm
của Người trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên,
luận án đề cập đến đoàn kết tôn giáo còn chưa nổi bật và việc vận dụng quan điểm
đó vào xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta chưa thực sự lôgíc, bởi vì
muốn thực hiện khối đại đoàn kết dân tộc thì trước hết cần phải đoàn kết đồng bào
có đạo, từ đó sẽ góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Những công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng của Hồ Chí Minh về tín
ngưỡng, tôn giáo đã được công bố ở Việt Nam cũng như nước ngoài, nhìn chung
bước đầu đã làm sáng tỏ những quan điểm, những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo. Song những công trình nghiên cứu đã được công
bố, đôi khi còn nặng về liệt kê, trích dẫn những lời nói; hoặc chỉ để cập đến một

hoặc một vài nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo mà còn
nhẹ về phân tích khoa học nhất là dưới góc độ triết học và tôn giáo học. Các nhà
nghiên cứu mới chỉ đưa ra những gợi ý ban đầu, nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ, cần được
bổ sung, phát triển. Vì vậy, luận án sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận và thực
tiễn cũng như hệ thống hóa những tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo
trên cơ sở kế thừa những kết quả công trình nghiên cứu đã được công bố.

18


1.3. Nhóm các công trình đề cập đến sự vận dụng quan điểm Mác-Lênin
về tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng chính sách tôn giáo
Sau hai thập kỷ, vấn đề tôn giáo đã có nhiều biến đổi tích cực, góp phần
đồng hành cùng dân tộc. Đánh giá ý nghĩa của Nghị quyết số 24, Trung tâm nghiên
cứu tôn giáo, thuộc Viện CNXHKH tổ chức hội thảo khoa học cấp Viện với chủ
đề Giá trị lý luận và thực tiễn của Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị về
tôn giáo sau hai mươi năm đổi mới. Các bài tham luận đã đi sâu vào việc phân
tích đánh giá những giá trị lý luận và thực tiễn của Nghị quyết số 24 qua hơn hai
mươi năm. Nghị quyết thể hiện sự vận dụng sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về
tôn giáo qua hơn hai mươi năm đổi mới, nhằm đề xuất một số quan điểm bổ sung
thời gian tới.
Công trình Một số vấn đề về tôn giáo và công tác tôn giáo của mặt trận, tài
liệu lưu hành nội bộ của Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam; Hà Nội, năm 2000.
Trong cuốn sách, phần thứ hai có đề cập sơ lược đến chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước ta đối với tôn giáo. Trong đó, Đảng ta khẳng định "tôn giáo là vấn
đề còn tồn tại lâu dài, tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội
mới, chính sách trước sau như một của Đảng là tôn trọng quyền tự do, tín ngưỡng,
tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân" [147, tr.95]. Đồng thời,
tài liệu cũng trích dẫn một số văn kiện của Đảng, pháp luật của nhà nước về tôn

giáo, đây là một trong những tài liệu bổ sung một phần cho phần vận dụng chương
3 của luận án.
Năm 2001, Nxb Công an nhân dân cho ra mắt bạn đọc tác phẩm Quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây dựng Nhà nước dân chủ, pháp
quyền Việt Nam hiện nay do Nguyễn Hữu Khiển chủ biên. Ngoài việc trình bày khái
quát những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn
giáo; cũng như tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Điều nhấn mạnh ở cuốn
sách này là tác giả tập trung vào nội dung chủ yếu trong công tác quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo trên cơ sở vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh. Từ đó,
tác giả đã nêu ra các đề xuất giải pháp triển khai cho hoạt động tôn giáo hiện nay.
Công trình Xu hướng phát triển tôn giáo hiện nay ở nước ta và những vấn đề
đặt ra cho công tác lãnh đạo, quản lý do GS.TS Lê Hữu Nghĩa làm chủ nhiệm đề

19


tài độc lập cấp Nhà nước, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, nghiệm thu
năm 2003. Công trình đã trình bày một cách tương đối đầy đủ, hệ thống, khoa học
các vấn đề bức tranh tôn giáo ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI. Trên sơ sở
đánh giá những thành tựu và chỉ ra những hạn chế trong việc hoạch định chính sách
tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam những năm qua; theo tác giả cần nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của
sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, phải quán triệt việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng, ban hành các chủ trương,
chính sách đối với công tác tôn giáo. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra những phương
hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng và quản lý Nhà nước
đối với tôn giáo ở nước ta hiện nay.
Tác phẩm Về tôn giáo và tôn giáo ở Việt Nam của Viện Khoa học xã hội Việt
Nam; Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. Trong cuốn sách gồm 2 phần: phần
đầu nghiên cứu về lý luận tôn giáo; phần thứ hai nghiên cứu về các tôn giáo ở Việt

Nam. Cuốn sách bao gồm các bài viết nghiên cứu về tôn giáo của tập thể cán bộ
Viện Nghiên cứu Tôn giáo và các nhà nghiên cứu tôn giáo đã đăng tải trên tạp chí
nghiên cứu tôn giáo từ năm 1999 đến 2003.
Tình hình nghiên cứu tôn giáo ở phương Đông nhất là Trung Quốc, tác giả
Võ Kim Quyên (chủ biên) ra mắt bạn đọc tác phẩm Tôn giáo và đời sống hiện đại,
tập 5, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 2004. Theo tác giả, trong chính sách tôn
giáo "Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc đặc biệt nhấn mạnh nguyên tắc đối
lập và tự trị. Có nghĩa là các tôn giáo Trung Quốc hoàn toàn có quyền tự do hoạt
động tôn giáo bình thường trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật Trung Quốc mà
không chịu bất kỳ sự can thiệp trái pháp luật nào từ bên ngoài" [117, tr.59]. Luận án
nghiên cứu, xem xét trong sự so sánh điểm tương đồng với chính sách tự do tín
ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam. Đồng thời, tác giả cũng nêu ra tình hình phức tạp mới
trong đời sống tôn giáo ở Trung Quốc đang xuất hiện. Ở Trung Quốc hiện nay là sự
hình thành cơn sốt văn hóa tôn giáo, coi tôn giáo không chỉ là một hệ tư tưởng, một
hiện tượng lịch sử xã hội, mà còn là một hiện tượng văn hóa, đây là một cách nhìn
đột phá của giới văn hóa lý luận đối với tôn giáo. Cách đánh giá của tác giả Võ Kim
Quyên là một cách nhìn đột phá của giới văn hóa lý luận đối với tôn giáo. Thông

20


qua cách đánh giá của tác giả gợi ý cho luận án tiếp tục nghiên cứu tôn giáo dưới
góc độ văn hóa, tín ngưỡng tâm linh.
Tác phẩm Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam- Lý luận và thực tiễn,
do tác giả Đỗ Quang Hưng, xuất bản năm 2005. Từ những nghiên cứu những ảnh
hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đối với quá trình phát
triển tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo, con đường xây dựng
và hoàn thiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta từ năm 1945 đến Nghị
quyết 25 ngày 12/3/2003, với nội dung tiếp tục đẩy mạnh tiến trình đổi mới về vấn
đề tôn giáo và công tác tôn giáo. Trong tác phẩm này tác giả cũng đã nghiên cứu

quan điểm của các nhà nghiên cứu, các nhà lãnh đạo của Đảng ta về tôn giáo.
Những nghiên cứu của tác giả rất công phu, có nhiều đóng góp quý báu; tuy nhiên
những biến động của tình hình tôn giáo trong những năm gần đây có nhiều diễn
biến phức tạp, thì công trình còn bỏ ngỏ. Từ đó đến nay Đảng ta đã ra rất nhiều chỉ
thị, nghị quyết kịp thời, tiêu biểu như Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (ngày 29/6/
2004), Cương lĩnh bổ sung và báo cáo chính trị trong đại hội XI, rồi gần đây nhất là
Nghị định 92/2012/NĐ-CP ngày 8/11/2012 thì công trình chưa có đóng góp gì. Đây
chính là cơ sở để luận án bổ sung cho đầy đủ.
Tác phẩm Quan điểm của chủ nghĩa C.Mác-Ăngghen- Lênin, Hồ Chí Minh về
tôn giáo và sự vận dụng của Đảng Cộng sản của hai tác giả Hồ Trọng Hoài, Nguyễn
Thị Nga, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2006. Chương III, các tác giả nêu khái
quát thực trạng và một số đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam; cuốn sách khẳng định chủ
nghĩa yêu nước mang giá trị phổ quát của dân tộc; của các tôn giáo chân chính ở Việt
Nam từ đó Đảng ta đã đề ra những quan điểm chủ yếu về công tác tôn giáo đánh dấu
bằng Nghị quyết 24/NQ-TW ngày 16/10/1990 của Bộ chính trị.
Tác phẩm Một số tôn giáo ở Việt Nam tái bản lần thứ bảy của Nguyễn Thanh
Xuân, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, năm 2007. Trên cơ sở nền tảng lý luận Chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cuốn sách đã cung cấp cho người đọc về các tôn
giáo, nguồn gốc, sự hình thành, sự phát triển, các quy định, nghi thức, phương thức
hành đạo. Cuốn sách khái quát một số tôn giáo lớn ở trên thế giới và Việt Nam như
Đạo Phật, đạo Công giáo, đạo Tin lành, đạo Cao đài....Cuốn sách là tư liệu quan
trọng giúp cán bộ các cấp các ngành, nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo
có những hiểu biết về tôn giáo.

21


×