Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN tôn GIÁO sự tồn tại của tôn GIÁO dưới CNXH, đặc điểm TÌNH HÌNH tôn GIÁO ở VIỆT NAM và CHÍNH SÁCH tôn GIÁO của ĐẢNG và NHÀ nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.9 KB, 18 trang )

1

ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ
QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG,
NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY.

1. KHÁI QUÁT VỀ TÔN GIÁO VÀ SỰ TỒN TẠI CỦA TÔN GIÁO
DƯỚI CNXH.

Tôn giáo là một hiện tượng xã hội lịch sử, bao gồm ý thức tôn giáo, hệ
thống tổ chức tôn giáo và những hoạt động mang tính chất nghi thức tín
ngưỡng; trong đó ý thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, là sự phản
ánh hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Qua hình thức phản ánh của
tôn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự nhiên, xã hội đều trở thành thần bí
và chi phối mạnh mẽ cuộc sống hàng ngày của con người, như MácĂngghen đã khẳng định: “Bất cứ tôn giáo nào cũng đều là sự phản ánh hư ảo
vào đầu óc người ta những sức mạnh từ bên ngoài chi phối cuộc sống hàng
ngày của họ; chỉ là sự phản ánh mà trong đó những sức mạnh của thế gian đã
mang hình thức sức mạnh siêu thế gian” (1). Tôn giáo xuất hiện rất sớm trong
quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, tôn giáo là sản phẩm của chính
hoạt động của con người, phản ánh bình diện của đời sống tinh thần của con
người và là một giá trị văn hoá. Tôn giáo tồn tại phổ biến trong các cộng
đồng người trong lịch sử và sẽ còn tồn tại cùng với xã hội loài người trong
một thời gian khó mà dự đoán trước được. Trong quá trình tồn tại và phát
triển, tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị, văn hoá, xã hội,
tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán của nhiều quốc gia dân tộc.
Tôn giáo thực sự là nhu cầu tinh thần của con người, của xã hội. Một khi
những những hình thái ý thức xã hội khác chưa hoàn toàn thoả mãn đầy đủ
1

C.Mác-Awngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, H.1994, tr.544.



2

mọi nhu cầu tinh thần của con người, thì đối với một bộ phận tầng lớp xã hội
tôn giáo vẫn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân, tôn
giáo vẫn là nguồn gốc của giá trị đạo đức, niềm an ủi, sự nâng đỡ về tâm lý,
tinh thần, cho dù đó là sự nâng đỡ một cách hư ảo, vì thế chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng: “ Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân’’.
Xét về bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội, văn hóa lịch sử
phản ánh sự bế tắc, bất lực của con người trước các hiện tượng tự nhiên, xã
hội và phản ánh sự phản kháng tiêu cực của con người trước các hiện tượng
đó; như Mác đã chỉ ra, tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là
trái tim của thế giới không có trái tim, là tinh thần của trật tự không có tinh
thần, là thuốc phiện của nhân dân. Đặc trưng nổi bật của tôn giáo là ở chỗ nó
ra đời, tồn tại và phát triển chủ yếu dựa vào niềm tin của con người đối với
các lực lượng siêu nhiên, từ đó đặt ra những phương thức ứng xử, để trước
mắt có được một cuộc sống bình an “tạm thời” nơi trần thế và sẽ được hưởng
một hạnh phúc vĩnh hằng nơi thế giới bên kia nhờ vào sự hỗ trợ của những
sức mạnh siêu nhiên đó. Do đó dù trong hoàn cảnh xã hội nào thì cơ sở của
mọi tôn giáo cũng là niềm tin của con người vào cái thần bí, cái “thiêng”, đối
lập với cái tồn tại khách quan, cái “trần tục” hiện hữu. Tôn giáo luôn mang
dấu ấn lịch sử của thời đại, dân tộc mà nó ra đời và quá trình tồn tại, phát
triển, nó luôn biến đổi nhằm thích ứng với sự vận động, biến đổi của xã hội.
Quá trình xây dựng CNXH, chúng ta cần khẳng định rằng, tôn giáo sẽ còn
tồn tại lâu dài, bởi những nguyên nhân, những nguồn gốc của sự ra đời và
phát triển của tôn giáo vẫn tồn tại; mặt khác bên cạnh sự tác động tiêu cực
của nó, nếu nhìn một cách toàn diện tôn giáo cũng có những đóng góp tích
cực nhất định cho đời sống con người, đặc biệt là về mặt đạo đức và văn hoá.


3


Thứ nhất: nguồn gốc ra đời tôn giáo còn tồn tại, bao gồm cả nguồn
gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội và nguồn gốc tâm lý.
Về nguồn gốc tự nhiên: chúng ta biết rằng thế giới tự nhiên là vô cùng
tận, các hiện tượng trong tự nhiên là hết sức phong phú, đa dạng; nhận thức
của con người tuy không có giới hạn, nhưng nhận thức của một người, một
thế hệ là hữu hạn. Do giới hạn về nhận thức, đặc biệt là trong thời kỳ xã hội
nguyên thủy, khi mà trình độ khoa học còn ở giai đoạn sơ khai, nên con
người không thể lý giải được những hiện tượng tự nhiên, vì thế cho rằng tất
cả các hiện tượng tự nhiên đó là do các lực lượng siêu nhiên nào đó chi phối.
Vì vậy quan niệm có thần linh, thượng đế, cũng như hình thành nên biểu
tượng về các tôn giáo khác nhau. Lênin viết: “Bất cứ tôn giáo nào cũng đều
có gốc rễ trong các quan niệm thiển cận và ngu của thời kỳ mông muội” (1).
Dưới CNXH mặc dù khoa học đã phát triển mạnh mẽ song vẫn còn rất nhiều
vấn đề tự nhiên chưa thể giải thích được, như các hiện tượng tự nhiên kỳ bí,
hay các hiện tượng tâm linh, ngoại cảm….. Bên cạnh đó chúng ta cũng nhận
thấy, thậm chí hiện nay nhiều hiện tượng tự nhiên đã được khoa học chứng
minh, nhưng do trình độ dân trí thấp cũng không thể hiểu được... Do đó tôn
giáo còn tồn tại.
Về nguồn gốc xã hội: Khi xã hội xuất hiện giai cấp, có đối kháng giai
cấp, có áp bức, bóc lột, có bất công, bất bình đẳng xã hội, mà như Lênin
khẳng định: giai cấp bóc lột: “đang hàng ngày, hàng giờ gây ra cho những
người lao động bình thường những nỗi thống khổ cực kỳ ghê gớm, những sự
đau thương thật là khủng khiếp, nhiều gấp nghìn lần so với những biến cố
phi thường như chiến tranh, động đất”(2). Cho dù các hiện tượng đó như là
một tất yếu lịch sử, song cũng do giới hạn về nhận thức mà con người trước
C.Mác-Ăngghen, Toàn tập. Tập 21, Nxb CTQG, H.1995, tr.404.
Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb CTQG,
H.1997, tr126.
1

2


4

đây đã không thể giải thích được tại sao có các hiện tượng đó, nên cho rằng
có định mệnh, có số phận; đồng thời cũng chính từ đó, giai cấp bị áp bức bóc
lột mong muốn có đấng cứu thế và hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp ở thế
giới bên kia… từ đó mà hình thành nên biểu tượng về tôn giáo. Lênin viết:
“Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bóc lột, tất
nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp ở thế giới bên kia…” (1). Dưới
CNXH, giai đoạn đầu của CNCS, là xã hội vẫn còn giai cấp, nhà nước, nên
mức độ nào đó vẫn còn hiện tượng bóc lột, bất công, bất bình đẳng, còn sự
phân hóa giàu nghèo…Do đó vẫn còn cơ sở xã hội cho sự tồn tại của tôn
giáo.
Về nguồn gốc tâm lý: do sự sợ hãi trước các hiện tượng tự nhiên, xã
hội; hoặc biết ơn, sự ngưỡng mộ, sự kính trọng trong quan hệ giữa con
người với tự nhiên và con người…mà dẫn đến tín ngưỡng tôn giáo còn tồn
tại.
Thứ hai: Do sai lầm của một số Đảng, Nhà nước trong xây dựng
CNXH.
Quá trình xây dựng CNXH, nhiều Đảng cộng sản, nhà nước XHCN,
trước đây đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng; đặc biệt sau sự sụp đổ
của CNXH ở Đông Âu và Liên Xô làm cho nhiều người mất niềm tin vào
CNXH; thêm vào đó một bộ phận cán bộ đảng viên trong bộ máy Đảng, Nhà
nước, thoái hóa biến chất, xa rời quần chúng hay các hiện tượng tiêu cực, tệ
nạn xã hội nảy sinh chậm được khắc phục…là những điều kiện thuận lợi cho
tôn giáo tồn tại và phát triển. Bên cạnh đó có những thời gian nhiều nước
XHCN, trong đó có cả Việt Nam, việc giải quyết vấn đề tôn giáo còn có
những sai lầm, thiếu sót nhất định, như việc cấm đoán hoạt động tôn giáo

1

Lê-nin Toàn tập, Tập 12, Nxb TB M, 1979, tr 170.


5

bằng hành chính, bằng pháp luật và các công cụ bạo lực khác… Chính vì vậy
tạo nên sự phản kháng ngấm ngầm của nhiều tín đồ các tôn giáo và góp phần
tạo nên sự tồn tại của tôn giáo cũng như nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp.
Thứ ba: Tín ngưỡng tôn giáo còn đáp ứng được nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân (Nhu cầu hư ảo).
Cho dù trong bất kỳ xã hội nào, trong thời kỳ lịch sử nào, thì những
hiện tượng như thiên tai, chiến tranh loạn lạc hay những rủi ro trong cuộc
sống của mỗi con người xảy ra là điều hoàn toàn bình thường và con người
khó có thể kiểm soát được. Trong những trường hợp này chính niềm tin tôn
giáo là một liều thuốc “an thần” giúp con người xoa dịu nỗi đau, sự mất mát,
những rủi ro đó, cho dù đó chỉ là sự xoa dịu một cách hư ảo. Mặt khác đạo
đức tôn giáo còn nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng CNXH, như
khuyên người ta làm điều thiện, tránh điều ác, hoặc đều mơ ước cho sự giải
phóng con người… Mác từng khẳng định: “Cả Đạo Cơ đốc lẫn CNXH đều
tuyên truyền sự giải phóng con người trong tương lai khỏi cảnh nô lệ và
nghèo khổ”(1). Dĩ nhiên, CNXH hướng tới giải phóng con người trên trần thế,
còn các tôn giáo tuyên truyền về sự giải phóng ở thế giới bên kia.
Thứ tư: Do tính bảo thủ, lạc hậu của ý thức tôn giáo và những biến
đổi thích nghi của tôn giáo.
Một trong những thuộc tính của các hình thái ý thức xã hội nói chung
là tính lạc hậu so với thực tiễn. Trong đó ý thức tôn giáo lại là một hình thái
ý thức đặc biệt, có tính bảo thủ hơn hẳn so với các loại hình thái ý thức xã
hội khác, nên nó ăn sâu bám rễ trong quần chúng trở thành tập quán, thói

quen qua nhiều thế hệ, do đó mà rất khó loại bỏ nó ra khỏi cuộc sống xã hội.
Hơn thế nữa, hiện nay các tôn giáo đều có những biến đổi thích nghi, như lợi
1

Mác - Ăng ghen toàn tập, tập 22. Nxb CTQG, H 1995, tr663.


6

dụng những thành tựu của khoa học hiện đại để giải thích những tín điều
trong kinh thánh, hoặc điều chỉnh những quy định của giới luật và các quy
định về sinh hoạt tôn giáo theo hướng cởi mở hơn, bớt khắt khe hơn, phù
hợp với cuộc sống hiện đại hơn; đồng thời các tôn giáo hiện nay đều tìm
cách mở rộng phạm vi ảnh hưởng, do đó mà nó còn tồn tại lâu dài.
Thứ năm: Do các lực lượng thù địch luôn lợi dụng vấn đề tôn giáo
chống phá cách mạng.
Việc lợi dụng vấn đề tôn giáo là một trong những thủ đoạn trong chiến
lược “Diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc, nhằm thực hiện mục tiêu
chung là xóa bỏ CNXH trên thế giới. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch, luôn tìm mọi cách vu cho CNXH đàn áp các tôn giáo, đối xử phân biệt
với đồng bào theo các tôn giáo, hòng gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân
tộc; chúng kích động các phần tử cực đoan trong các tôn giáo, tạo dựng lực
lượng đối lập và chống đối Đảng cộng sản, nhà nước XHCN, mà thực tiễn
thế giới và Việt Nam đã chứng minh. Trên thế giới, điển hình như Ba-lan, sự
sụp đổ của CNXH ở Ba-la do nhiều nguyên nhân, những trong đó một
nguyên nhân hết sức quan trọng đó là sự cấu kết của những phần tử phản
động theo đạo thiên chúa giáo ở Ba-lan với Công đoàn đoàn kết và tòa thánh
Va-ti-căng đã tạo sự bất ổn, tiến tới lôi kéo, kích động người dân chống lại
Đảng cộng sản và Nhà nước Ba-lan, dẫn đến sự sụp đổ của Ba-lan.
Hiện nay hiểm hoạ về chiến tranh hạt nhân, chiến tranh huỷ diệt đã bị

đẩy lùi, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột tôn giáo, sắc tộc, khủng bố…hay
dịch bệnh, đói nghèo…cùng với những mối đe doạ khác cũng là những điều
kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại.


7

Tóm lại từ những lý do trên: khẳng định trong CNXH tôn giáo còn
tồn tại, tuy nhiên không phải tôn giáo sẽ tồn tại vĩnh hằng, mà nó sẽ mất đi
khi nào con người làm chủ được tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình.
2. ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM.

Việt Nam nằm ở vị trí địa chính trị hết sức quan trọng của khu vực
Châu Á, là nơi giao lưu và du nhập của nhiều luồng dân cư, văn hoá, tôn
giáo khác nhau. Về mặt cư dân, Việt Nam gồm 54 tộc người khác nhau, mỗi
tộc người lại lưu giữ những hỡnh thức tớn ngưỡng, tôn giáo khác nhau, vỡ
thế Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, trong đó tín ngưỡng dân gian ra
đời khá sớm như tín ngưỡng về sức mạnh của tự nhiên, đó là: thần Núi, thần
Sông, thần Sét; hoặc tục thờ tổ tiên, thờ thành hoàng, thờ những người có
công với cộng đồng, với dân tộc…Những tôn giáo ngoại cũng được du nhập
vào nước ta khá sớm như đạo Nho, đạo Phật, đạo Lão đã có gần 2000 năm,
đạo Thiên Chúa từ năm 1553 đã truyền vào nước ta, rồi đạo Tin Lành, đạo
Hồi... cũng có mặt ở nước ta khá sớm. Tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam rất
đa dạng, phức tạp, đan xen, pha trộn giữa nội sinh và ngoại nhập, có cả tôn
giáo mới và tín ngưỡng dân gian, trong đó có những tín ngưỡng tồn tại như
một tôn giáo. Bức tranh tín ngưỡng tôn giáo rất phong phú, nhiều màu sắc,
bên cạnh những cái hay cái đẹp, còn tồn tại những cái chưa tốt, còn nhiều hủ
tục lạc hậu cần khắc phục. Theo số liệu báo cáo của Ban tôn giáo Chính phủ,
hiện nay ở Việt Nam có 6 tôn giáo lớn gồm: 4 tôn giáo du nhập từ nước
ngoài vào là đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành, đạo Hồi và 2 tôn giáo

nội sinh mang tính chất địa phương là đạo Cao Đài và đạo Hoà Hảo. Ước
tính ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín ngưỡng, trong đó có
20 triệu tín đồ, gần 150 ngàn chức sắc và nhà tu hành hoạt động tôn giáo
chuyên nghiệp, hơn 20 ngàn cơ sở thờ tự (chùa, nhà thờ, thánh đường, thánh


8

thất...). Theo số liệu thống kê của tài liệu nghiên cứu NQTƯ 7- Khóa IX của
Đảng: hiện nay ở nước ta, Phật giáo có khoảng gần 10 triệu tín đồ; Công
giáo có khoảng hơn 5 triệu tín đồ; Tin lành có khoảng hơn 400.000 tín đồ;
Đạo hồi có khoảng hơn 60.000 tín đồ. Hai tôn giáo nội sinh là đạo Hòa hảo
và đạo Cao đài, trong đó Đạo cao đài, ra đời đêm Nô-en năm 1925, do một số
người thuộc tầng lớp địa chủ, tư sản, tiểu tư sản sáng lập; hiện có khoảng hơn 2
triệu tín đồ; Phật giáo Hoà hảo ra đời năm 1939 tại làng Hoà hảo, Châu
đốc, An giang do Ông Huỳnh Phú Sổ sáng lập, hiện có hơn 1 triệu tín đồ.
Ngoài ra hiện nay trên cả nước xuất hiện nhiều tôn giáo là khác như: Long
hoa di lặc, Thanh hải vô thượng sư, hay đạo Vàng chứ của dân tộc Mông,
Dao ở Tây bắc; Tin lành Đề ga ở Tây nguyên...
Nhìn chung các tôn giáo ở Việt Nam cơ bản chung sống hoà bình,
không xảy ra xung đột hay chiến tranh tôn giáo như một số nước khác; tín đồ
chủ yếu là nhân dân lao động, cấp độ ảnh hưởng chỉ ở cấp độ tâm lý, không
đến mức cuồng tín như nhiều nước khác. Các tôn giáo hiện nay đang có xu
hướng phục hồi và mở rộng phạm vi ảnh hưởng. Quá trình tồn tại, phát triển
các tôn giáo luôn bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng nhằm thực hiện
mưu đồ của chúng. Đặc biệt từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời lãnh đạo
cách mạng đến nay, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách lợi dụng vấn đề
tôn giáo nhằm mục tiêu chống phá cách mạng Việt Nam. Cụ thể những năm
gần đây, Mỹ thường xuyên liệt Việt Nam vào những nước “cần có sự quan
tâm đặc biệt về vấn đề tôn giáo”, từ đó Mỹ gây sức ép đối với chúng ta trong

các quan hệ song phương. Mỹ còn tìm cách cấu kết, hỗ trợ về kinh phí,
phương tiện cho những kẻ phản động đội nốt tôn giáo trong nước hoạt động
chóng phá Đảng Nhà nước. Còn trong nước nhiều kẻ phản động đội nốt tôn
giáo, liên tục có nhiều hành động công khai chống đối, như vụ Nguyễn Văn
Lý ở Thừa thiên Huế, vụ “cứu trợ dân oan” của Thích Quảng Độ ở Thành


9

phố Hồ Chí Minh, hay nhiều vụ các tôn giáo gây sức ép với Đảng, đòi đất,
“đòi tự do tôn giáo” nên có thể nói tình hình tôn giáo ở nước ta hiện nay vẫn
tiềm ẩn nhiều nhân tố gây bất ổn....
3. QUAN ĐIỂM CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM.

Quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam
luôn quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề tôn giáo. Trước hết Đảng cộng sản Việt
Nam đã quán triệt sâu sắc những vấn đề có tính nguyên tắc trong giải quyết
vấn đề tôn giáo của chủ nghĩa Mác-Lênin, trên cơ sở đó đề ra quan điểm,
chính sách tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo trên thực tiễn. Những vấn
đề có tính nguyên tắc đó là: khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của
tôn giáo là việc làm lâu dài, phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ,
xây dựng chủ nghĩa xã hội; tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng
và không tín ngưỡng của công dân, kiên quyết bài trừ mê tín dị đoan; thực
hiện đoàn kết tôn giáo, đoàn kết những người theo tôn giáo và không theo
tôn giáo, đoàn kết dân tộc; phân biệt rõ hai mặt tư tưởng và chính trị trong
giải quyết vấn đề tôn giáo và quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể khi giải
quyết vấn đề tôn giáo.
Đối với Hồ Chí Minh, trước hết Người cho rằng mọi tôn giáo đều là

duy tâm, nhưng Người cũng khẳng định những giá trị tích cực của các tôn
giáo. Theo Người: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu
dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê Su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái
cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện
chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp
với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê Su, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải có


10

những điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài
người, cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên cõi đời này, nếu họ hợp
lại một chỗ tôi tin rằng nhất định họ sẽ chung sống với nhau rất hoàn mỹ
như những người bạn rất thân thiết. Tôi sẽ cố gắng làm người học trò nhỏ
của các vị ấy”1.
Theo Người, tôn giáo có những nội dung mang tính nhân nghĩa, nhân
văn, phù hợp với chế độ ta, cần kế thừa và phát huy. Người luôn nêu cao tinh
thần hướng thiện, phân biệt chính - tà, Người cho rằng, bất kỳ tôn giáo nào
cũng đều hướng thiện. Đó cũng là ước muốn của các tín đồ các tôn giáo,
cũng như của tất cả mọi người trên trái đất này và cũng là của chính những
người Cộng sản. Trong quá trình chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Người luôn
tìm ra điểm tương đồng để đoàn kết lương giáo, đó chính là mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh: nhân dân ta dù lương hay
giáo đều tốt cả, phần lớn đồng bào tôn giáo đều yêu nước, kháng chiến,
nhưng một phần bị địch lợi dụng như ngụy quân, cao đài, hoà hảo, cụng giỏo
ở Ninh Bỡnh, dẫn đến hoài nghi chính sách của Đảng. Do đó theo Người cần
phải am hiểu tín ngưỡng tôn giáo, tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân,
tìm ra sự thống nhất mục tiêu cách mạng với lý tưởng nhân văn, khát vọng
vươn tới cái thiện, cái mỹ của tôn giáo; động viên đồng bào tôn giáo theo
cách mạng, làm cách mạng. Vì vậy ngay trong phiên họp đầu tiên của chính

phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945 Người đã khẳng định:
lương giáo đoàn kết và Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Đồng thời Người
cũng yêu cầu Đảng, Nhà nước phải chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho
đồng bào có đạo, giáo dục nâng cao tinh thần yêu nước, vạch trần các luận
điệu xuyên tạc của kẻ thù. Người cho rằng: Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin
1

Trần Dật Tiên, “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch”, Nxb. Sự thật, 1975, tr. 36.


11

thiêng liêng, cao cả, giữ vị trí trung tâm trong đời sống tinh thần của giáo
dân, chi phối tâm tư tình cảm hành vi của họ. Xúc phạm niềm tin tôn giáo là
xúc phạm tín đồ, là làm tổn thất và chia rẽ khối đại đoàn kết, là mắc mưu
thâm độc của kẻ thù. Vì vậy, tôn trọng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
đoàn kết lương giáo là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Người và từ đó
Người yêu cầu cần nhận thức đúng và giải quyết đúng mối quan hệ giữa tôn
giáo và chính trị, giữa đạo và đời, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh
thần... Đối với công tác tôn giáo, Theo Hồ Chí Minh, đó là nhằm xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết giữa đồng bào theo các tôn giáo và
đồng bào không theo tôn giáo, là làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực
thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng và đây là mặt công tác khó
khăn, lâu dài. Vì vậy Người đòi hỏi, tiến hành công tác tôn giáo không được
cứng nhắc về hình thức và phương pháp, mà cần có sự sáng tạo về hình thức
và phương pháp cho phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn cách mạng,
phù hợp với từng địa phương, từng tôn giáo khác nhau.
Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, gần tám mươi năm
qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta đã xây dựng

được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp cho công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mỗi thành tựu của
cách mạng đều có sự đóng góp không nhỏ từ những chính sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta đối với các tôn giáo.
Quan điểm, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là thừa
nhận sự tồn tại lâu dài của tín ngưỡng tôn giáo; tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng tôn giáo của công dân; quan tâm nâng cao đời
sống mọi mặt cho quần chúng tín đồ chức sắc tôn giáo; cảnh giác, đấu tranh
với mọi sự lợi dụng tôn giáo chống cách mạng của các thế lực thù địch. Bởi


12

thế về cơ bản trong công tác vận động quần chúng nói chung, công tác tôn
giáo nói riêng chúng ta đã thu được nhiều thành tựu quan trọng. Song giải
quyết vấn đề tín ngưỡng tôn giao là một nhiệm vụ không hề đơn giản, vì vậy
có lúc, có nơi cán bộ các cấp đã mắc phải những sai lầm khuyết điểm như có
biểu hiện quá tả trong giải quyết vấn đề tôn giáo, hoặc phân biệt đối xử với
đồng bào theo các đạo, dẫn tới mất đoàn kết, từ đó kẻ thù luôn lợi dụng để
tìm cách chống phá cách mạng.
Văn kiện Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị (khoá VI), Về tăng cường
công tác tôn giáo trong tình hình mới, ban hành ngày 16 tháng 10 năm 1990
xác định: tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng tôn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điểm
phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”, "các giáo hội và tổ chức tôn
giáo nào có đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, có tôn chỉ, mục đích,
điều lệ phù hợp với luật pháp Nhà nước, có tổ chức phù hợp và bộ máy nhân
sự đảm bảo tốt về cả hai mặt đạo, đời thì sẽ được Nhà nước xem xét trong
từng trường hợp cụ thể để cho phép hoạt động".
Nhằm cụ thể hoá quan điểm của Đảng, điều 70 của hiến pháp nước

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 nêu rõ: “Công dân Việt
Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn
giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của
các tín ngưỡng tôn giáo được pháp luật bảo hộ”. Theo đó không ai được
phép xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Tiếp đó trên cơ sở tiếp cận cả ba mặt của tín ngưỡng, tôn giáo là: văn
hoá, đạo đức tôn giáo và chính trị-xã hội, Nghị quyết TƯ 7 - khóa IX của
Đảng, ngày 12/3/2003 khẳng định:


13

- Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo
bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Đảng và Nhà nước ta không bao giờ
chống tôn giáo mà luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng của đồng bào, quan tâm
giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào, tạo điều kiện
cho đồng bào có đạo phát triển sản xuất. Xoá đói giảm nghèo, đồng thời
nghiêm cấm việc xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, hoặc lợi dụng tôn giáo
để làm trái pháp luật và chính sách nhà nước, cũng như khắc phục thái độ
hẹp hòi thành kiến đối với đồng bào có đạo.
- Thực hiện đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết
đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát
huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những
người có công với Tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử

với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc,
gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Thực tiễn quá trình cách mạng, kẻ địch
luôn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mưu đồ của chúng, vì vậy đi đôi với
thực hiện tự do tín ngưỡng tôn giáo phải nêu cao cảnh giác, kiên quyết đấu
tranh chống địch lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để chống lại cách mạng.
- Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là làm tốt công tác vận động
quần chúng, công tác với con người.


14

Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung.
Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều là công dân Việt
Nam, có quyền lợi và nghĩa vụ bình đẳng trước pháp luật, có quyền và nghĩa
vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác vận động quần chúng các tôn giáo
phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập
và thống nhất của Tổ quốc ; thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh
tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của
nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tạo điều kiện để mọi chức sắc,
giáo dân tích cực đóng góp sức mình vào sự nghiệp cách mạng, tranh thủ
sự ủng hộ của đồng bào đối với chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà
nước. Xây dựng đội ngũ cốt cán, những người yêu nước, tiến bộ trong giáo
dân, có trình độ hiểu biết tôn giáo, phát triển đoàn, đội trong tôn giáo.
Tuyên truyền vận động để đồng bào theo đạo hiểu rõ về quan điểm, chính
sách tôn giáo, tin tưởng phấn khởi thực hiện hành đạo theo đúng pháp luật,
kiên quyết không để kẻ địch lợi dụng tôn giáo để lôi kéo, khống chế, mua

chuộc quần chúng chống lại cách mạng.
- Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Công tác
tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xó hội, cỏc cấp, cỏc
ngành, cỏc địa bàn. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ
thống chính trị do Đảng lónh đạo. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên
trách làm công tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và
kiện toàn. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo, thể chế hoá
quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước bằng các văn bản luật, dưới


15

luật về công tác tôn giáo. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, ngăn ngừa sự
kích động, lôi kéo của kẻ xấu.
Công tác tôn giáo là một lĩnh vực công tác xã hội phức tạp, nhạy
cảm, bao gồm nhiều mặt hoạt động đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng
hợp của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng phải có chủ
trương, chính sách tôn giáo đúng đắn, chính quyền các cấp phải thực hiện
tốt chức năng quản lý Nhà nước đối với tôn giáo bằng pháp luật, mặt trận
và các đoàn thể ban ngành phải làm tốt công tác tuyên truyền vận động
quần chúng và các tín đồ, chức sắc tôn giáo, đẩy mạnh phong trào “tốt đời,
đẹp đạo”, gắn bó với dân tộc, đoàn kết cùng phấn đấu vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh.
- Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự
hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước
thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được
hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh
sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo
đúng quy định của pháp luật. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt
động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được

lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được
ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người
truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của
Hiến pháp và pháp luật.
Gần đây nhất, trong văn kiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X của Đảng xác định:
“Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết
dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do


16

tín ngưỡng, theo hoặc không hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền
sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các
tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn
giáo. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo. Động
viên giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống “ tốt đời, đẹp
đạo”. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp
luật bảo hộ.Thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế- xã hội, nâng
cao đời sống vật chất, văn hoá của đồng bào các tôn giáo. Tăng cường công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo. Đấu tranh ngăn chặn
các hành động mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước, vi phạm quyền tự do tôn
giáo của công dân”1.
Như vậy, Đại hội X của Đảng đã đề cập khái quát, sâu sắc và toàn
diện về vấn đề tín ngưỡng tôn giáo, ưu tiên hàng đầu là phải phát huy được
tính tích cực của tôn giáo. Tính tích cực của tôn giáo không chỉ xuất phát từ
bản thân tôn giáo mà còn phụ thuộc vào mục đích và hành vi của những tổ
chức tôn giáo có lợi cho Tổ quốc, cho dân tộc, cho quần chúng tín đồ và
nhân dân, phù hợp với hiến pháp, pháp luật, với đạo đức, với nội dung của

từng tôn giáo. Điều phản bác duy nhất là những hành vi trái với pháp luật,
hiến pháp, trái với đạo đức, trái với đạo đức, phản văn hoá, có hại tới tài sản
và tính mạng của nhân dân.
Chính sách tự do tôn giáo phải xuất phát từ những nguyên lý chung
của chủ nghĩa xã hội, của thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhằm bảo vệ thực
sự quyền tự do bình đẳng giữa các tôn giáo, tôn giáo phải cùng với dân tộc đi
lên CNXH. Mọi tín đồ các tôn giáo đều là những công dân bình đẳng trong
Tổ quốc Việt Nam, chấp hành nghiêm hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
1

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB lần thứ X, Nxb CTQG, Hà nội 2006, tr 122,123


17

Để thực hiện tốt nội dung trên, nhiệm vụ công tác tôn giáo trong thời
gian tới cần: Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương
trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của nhân
dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo. Vận động quần chúng nâng cao tinh
thần yêu nước, ý thức bảo vệ Tổ quốc, tinh thần độc lập tự chủ, gắn bó với
dân tộc phấn đấu xây dựng Tổ quốc Việt Nam độc lập và giàu mạnh. Phương
pháp vận động quần chúng tín đồ phải thông qua việc thực hiện thật tốt
chính sách kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phòng, luật pháp Nhà nước, đảm
bảo lợi ích vật chất, tinh thần cả phần đời và phần đạo cho tín đồ chức sắc.
Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp
đạo” trong quần chúng tín đồ chức sắc, nhà tu hành ở cơ sở. Tăng cường
công tác quản lý nhà Nước về tôn giáo, phát huy tinh thần yêu nước của
đồng bào có đạo, tự giác phối hợp đấu tranh làm thất bại các âm mưu của các
thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống đối chế độ. Tạo
điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng chính sách và

pháp luật của Nhà nước. Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối
ngoại phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh
thông tin tuyên truyền về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Xây
dựng và bồi dưỡng lực lượng cốt cán, đảng viên có đạo trong tín đồ, chức
sắc, nhà tu hành của từng tôn giáo. Tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, Nghị
quyết của Đảng về công tác tôn giáo, tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết
thực tiễn, góp phần cung cấp những luận cứ khoa học cho việc xây dựng và
thực hiện các chủ trương, chính sách đối với tôn giáo kể cả trước mắt và lâu
dài.
Tín ngưỡng tôn giáo là một trong những yếu tố quan trọng, ảnh hưởng
sâu sắc đến đời sống tâm linh, nhu cầu tinh thần sinh hoạt văn hoá và tình
hình chính trị, trật tự an toàn xã hội của mỗi dân tộc, mỗi địa phương và của


18

cả nước. Vì vậy, Đảng và Nhà nước cần phải thường xuyên quan tâm lãnh
đao, chỉ đạo, tìm ra những giải pháp tích cực hiệu quả để phát huy triệt để
những điểm tích cực của tôn giáo, đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Mặt khác kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và từng bước loại trừ
những biểu hiện mê tín dị đoan, những hành động lợi dụng tín ngưỡng tôn
giáo để chống lại chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, phá
hoại khối đoàn kết thống nhất của dân tộc ta.
Tín ngưỡng tôn giáo là bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nó thuộc
lĩnh vực tư tưởng văn hoá, cho nên giữa tín ngưỡng tôn giáo và quan điểm
duy vật của chủ nghĩa xã hội sự đối lập, mâu thuẫn và luôn đấu tranh với
nhau. Đây là vấn đề hết sức tế nhị nhưng không kém phần gay gắt, đòi hỏi
phải giải quyết lâu dài, phải đặt việc giải phóng nhân dân khỏi niềm tin tôn
giáo trong cuộc đấu tranh tư tưởng của giai cấp công nhân. Bên cạnh việc
phát triển đời sống vật chất, tinh thần, tăng cường chất lượng sống, nắm

vững chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Chính phủ, luôn cảnh giác
và đấu tranh với thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, vẫn phải trang bị tri thức
khoa học, bồi dưỡng về chủ nghĩa vô thần để hướng các hoạt động tôn giáo
vào việc xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc, góp phần thiết thực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

*
*

*



×