Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Luận văn - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.35 KB, 53 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
trên tất cả các lĩnh vực. Đặc biện là phát triển kinh tế đang từng bước hội
nhập kinh tee quốc tế.
Thực tiễn cho thấy để phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tăng sức mạnh cạnh tranh,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư phải dựa trên cơ sở phát huy thế
mạnh và lợi thế so sánh của đất nước, gắn với nhu cầu thị trường trong và
ngoài nước, nhu cầu đời sốn của nhân dân và quốc phòng an ninh tạo thêm
sức mua của thị trường trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước.
Cơ cấu kinh tế thể hiện nội dung và mục tiêu chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, của mỗi địa phương, không phải là sản phẩm
chủ quan mà luôn vận động theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
và nhu cầu của xã hội, đặc biệt là đối với Việt Nam chúng ta hiện nay là
một nước nông nghệp còn tương đối lạc hậu, đang trên con đường công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế thế giới.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam
đã nhấn mạnh: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và
nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông
dân”
1
. Chính vì vậy trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn quan tâm cho
đầu tư, phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, trong đó nội dung cơ bản là chuyển dịch mạnh cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá tập trung gắn
với công nghiệp hoá chế biến và thị trường. Áp dụng các tiến bộ khoa học
kỹ thuật, nâng cao năng xuất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm,
tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và
1


Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lâầ thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia 2006, tr.88
1
dịch vụ… Trong những năm qua cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở
nước ta về cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng hoá theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tuy nhiên kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế
và yêu cầu, như: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, chưa theo sát thị
trường, sản xuất ở nhiều nơi còn nhỏ lẻ, lạc hậu, thiếu bền vững chất lượng
và khả năng cạnh tranh thị trường của nhiều sản phẩm nông nghiệp còn
thấp. Tỷ lệ đói nghèo và tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp ở nông thôn
còn cao. Do vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo
hướng sản xuất hàng hoá có vai trò, vị trí quan trọng trong thúc đẩy sản
xuất phát triển, xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới góp phần đưa
nước ta trở thành nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo mục tiêu của
Đảng đã đề ra.
Than Uyên là huyện nằm ở phía Nam của tỉnh Lai Châu, vừa được
chia tách ra từ huyện Than Uyên cũ. Để thành lập huyện Than Uyên và Tân
Uyên vào ngày 01/01/2009. Huyện Than Uyên có tổng diện tích tự nhiên
là: 79.687,60 ha toàn huyện có 11 xã và 01 thị trấn, dân số 5,8 vạn người,
có 8 dân tộc, trong đó dân tộc Thái là chủ yếu chiếm tới 65%, kinh 20%,
HMông 10%; còn lại là các dân tộc khác. Trong những năm qua thực hiện
đường lối lãnh đạo của Đảng và chính sách pháp luật nhà nước, nền kinh tế
- xã hội của huỵên đã có những chuyển biến rõ nét trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; cơ sở hạ tầng nông thôn từng bước
được đầu tư, đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi và áp dụng các tiến Bộ khoa
học và kỹ thuật vào sản xuất, bước đầu đã hình thành các vùng chuyên
canh như vùng sản xuất cây lương thực, thực phẩm, vùng chăn nuôi đại gia
súc, thuỷ sản… Đã tạo ra sản phẩm của tiêu thụ trong và ngoài tỉnh, tốc độ
tăng trưởng bình quân của huyện đạt khá cao bình quân 15%/năm trong đó
nông nghiệp tăng 13,5% công nghiệp xây dựng 15,7%; dịch vụ tăng 21,6%.

2
Mặc dù đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ, song
nhìn chung, xét trên cơ sở kinh tế nông nghiệp, nông thôn của huyện Than
Uyên còn tương đối chậm, cơ cấu ở một số vùng còn mang tính tự phát,
chưa gắn với quy hoạch, chất lượng hàng hoá chưa cao, tỷ trọng nông
nghiệp chiếm trong cơ cấu nền kinh tế của huyện còn cao 45% Thực tế
đó chưa tương xướng với tiềm năng của một huyện có điều kiện thuận lợi
về đất đai có nhiều tuyến đường quốc lộ chạy qua sang Lào Cai, Yên Bái,
Sơn La, Lai Châu, nguồn lao động dồi dào… Vì thế, việc đẩy mạnh thực
hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở huyện Than Uyên là hết sức cần thiết và có ý
nghĩa to lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội; xoá đói giảm nghèo, nâng
cao đời sống xã hội cho đồng bào các dân tộc trên địa bàn huyện, từng
bước góp phần thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ và văn minh.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, để đưa nông nghiệp nông thôn
phát triển bền vững, theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tất yếu
khách quan trong nền kinh tế thị trường nói chung và thúc đẩy kinh tế của
huyện Than Uyên, phát triển theo hướng hiện đại nói riêng.
Với những kiến thức tiếp thu được trong chương trình lý luận Cao
cấp những thực tiễn tại địa phương tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu” để làm luận văn
Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính khoá học 2009-2010.
2. Mục tiêu nhiệm vụ của đề tài:
a. Mục tiêu:
Đánh giá đúng thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn huyện Than Uyên theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
đưa ra phương hướng, mục tiêu và giải pháp trong thời gian tới.
b. Nhiệm vụ:

3
+ Về lý luận: đưa ra những vấn đề lý luận làm cơ sở khoa học
+ Về thực tiễn: Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nông
nghiệp nông thôn của huyện Than Uyên.
+ Giải pháp giải quyết vấn đề: Làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiêp, nông thôn.
+ Đề xuất phương hướng, giải pháp trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
a. Đối tượng nghiên cứu là công tác chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn ở huyện Than Uyên, tập trung và một số ngành như:
trồng trọt, chăn nuôi…. Và phân tích cơ cấu kinh tế theo các vùng kinh tế
đã được Đảng bộ huyện xác định.
b.Phạm vi và thời gian nghiên cứu: nghiên cứu quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn của huyện Than Uyên giai đoạn
2007-2009 hướng đến năm 2015 và những năm tiếp theo.
4. Phương pháp nghiên cứu:
a. Cơ sở phương pháp luận:
Vận dụng những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc
biệt lý luận về khoa học quản lý, kinh tế, phát triển, kinh tế chính trị Mác –
Lênin để nghiên cứu;
b. Các phương pháp cụ thể: sử dụng tổng hợp các phương pháp
thống kê, điều tra, khảo sát, tổng hợp, phân tích, so sánh vv…làm rõ thực
trạng, đề xuất phương hướng, mục tiêu và các giải pháp chủ yếu đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Than Uyên
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn gồm có 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4

- Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu.
- Chương 3: Phương hướng, mục tiêu và giải pháp đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Than Uyên, tỉnh Lai
Châu.
Do điều kiện thời gian và trình độ bản thân còn hạn chế, đề tài không
thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế, kinh mong thầy, cô giáo và các bạn
đồng nghiệp góp ý chân thành để đề tài được hoàn thiện hơn.
Cho phép tôi được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới cô giáo: Thạc sỹ
Đàm Thị Thanh Thủy khoa kinh tế phát triển, cùng các thầy, cô giáo trong
Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I, các đồng chí lãnh đạo Huyện
uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện Than Uyên, lãnh đạo, cán
bộ các phòng; tài chính kế hoạch, thống kê, nông nghiệp và phát triển nông
thôn, lao động thương binh và xã hội; công thương, tài nguyên và môi
trường đã hướng dẫn, góp ý và cung cấp số liệu để tôi hoàn thành luận văn
này.
5
NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH
TẾ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
I. CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
1. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thôn thôn và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
1.1. Cơ cấu kinh tế, nông nghiệp nông thôn.
- Khái niệm cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ chủ yếu về
chất lượng và số lượng tương đối ổn định của các yếu tố, các bộ phận của
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong hệ thống tái sản xuất xã họi
trong những điều kiện kinh tế xã hội, trong những không gian, thời gian

nhất định.
Cơ cấu của nền kinh tế là tổng thể những mối quan hệ các tỷ lệ cân
đối giữa các bộ phận lập thành của nền kinh tế (sản xuất- trao đổi- tiêu
dùng) các ngành kinh tế (Nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ), các thành
phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân…); các
vùng tự nhiên kinh tế (miền núi, đồng bằng, trung thu, miền biển…) muốn
xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các vùng, các ngành, các thành
phần kinh tế phải tuỳ điều kiện cụ thể để xác định. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất và phân công lao động là tiền đề trực tiếp hình thành cơ cấu
kinh tế. C. Mác đã viết: “cơ cấu kinhh tế xã hội là toàn thể những quan hệ
sản xuất phù hợp với quá trình phát triển nhất định của lực lượng sản xuất
vật chất”
1
.
1
C.Mác. góp phần phê phán kinh tế chính trị học. Nxb Sự thật, Hà Nội 1964, tr7.
6
C.Mác cũng chú ý đến cả hai mặt chất và lượng của cơ cấu kinh tế
theo ông cơ cấu kinh tế là “Một sự phân chia về chất và một tỷ lệ phân chia
về số lượng của quá trình sản xuất xã hội”
1
.
- Tính chất của cơ cấu kinh tế
+ Tính chất khách quan: Cơ cấu kinh tế có tính chất khách quan của
nó mà không thể áp đặt theo ý muốn chủ quan của chúng ta. Cơ cấu kinh tế
phản ánh tính chất, trạng thái của phân công lao động xã hội và trình độ xã
hội hoá sản xuất. Ứng với một trình độ phát triển nhất định từ đó có cơ sở
bố trí cơ cấu kinh tế của đất nước, của địa phương cho phù hợp giữa các
yếu tố trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Chính vì thế, việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, khi nên kinh tế chuyển sang một

mô hình mới, cao hơn.
Cơ cấu kinh tế phản ánh cơ bản, cô đọng nội dung của chiến lược
kinh tế, xã hôi trong từng giai đoạn, một cơ cấu kinh tế hợp lý phản ánh
được sự vận động của quy luật khách quan trong nền kinh tế. Vai trò chủ
quan của con người, chính là sự nhận thức và vận dụng theo đúng quy luật
khách quan đó để xác định cơ cấu, hoạch định chiến lược kinh tế, xã hội
đúng đắn. Mọi sự áp đặt chủ quan, nóng vội hay bảo thủ trong việc thay đổi
cơ cấu kinh tế, đều mang lại tác động xấu đối với sự nghiệp phát triển kinh
tế, xã hội của mỗi địa phương và đất nước.
+ Tính chất lịch sử xã hội: Cơ cấu kinh tế mang tính lịch sử nhất
định, ta biết rằng, nền kinh tế chỉ có thể phát triển bình thường, khi giữa
các mặt, các bộ phận của quá trình tái sản xuất xã hội; xác lập được những
mối liên hệ cân đối của sự phân công lao động xã hội. Tuy nhiên, tính ổn
định của cơ cấu kinh tế chỉ là tương đối, cơ cấu kinh tế luôn luôn vận động,
tới một chừng mực nhất định C.Mác viết: “Do tổ chức quá trình lao động
và phát triển kỹ thuật một cách mạnh mẽ, đã làm đảo lộn toàn bộ cơ cấu
kinh té của xã hội”
2
.
1
C.Mác. Tư sản. QII, TII, Nxb Sự thật. Hà Nội 1975, tr.102
2
C.Mác: Tư sản Q1, Nxb Sự thật, Hà Nội.1996, tr. 47.
7
Mỗi phương thức sản xuất, mỗi thời kỳ lịch sử có yêu cầu khác nhau
và nguyên tắc, nội dung, chất lượng, cách thứ thể hiện. Sự khác nhau đó là
quy luật kinh tế đặc thù của mỗi phương thức sản xuất trước hết là quy luật
kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất ấy quy định. Cơ cấu kinh tế có
tính hai mặt vừa ổn định (tương đối) vừa vận động biến đổi thường xuyên
và ngoài tác động của lực lượng sản xuất thì yếu tốt quan hệ sản xuất và

các quan hệ khác giữa ngưới với người trong xã hội cũng rất quan trọng,
ngay các nước có chế độ kinh tế xã hội và trình độ phát triển giống nhau,
song vẫn có sự khác nhau về cơ cấu kinh tế . Bởi vậy mà cơ cấu kinh tế
luôn gắn với sự biến đổi, phát triển không ngừng của các bộ phận, yếu tố
bên trong của nền kinh tế và những mối quan hệ giữa chúng. Do đó muốn
có một nền kinh tế phát triển chúng ta phải luôn lựa chọn cơ cấu kinh tế
cho từng giai đoạn lịch sử nhất định. Đặc biệt là trong giai đoạn đầu của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; các yếu tố của sản xuất còn hạn chế
cho nên phải lựa chọn những khâu, những mối quan hệ cần thiết, then
chốt, tập trung lực lượng phát triển, tạo nên sự cân đối thích hợp, nhờ đó
mà có thể nắm lấy những khâu, những mắt xích quan trọng tiếp theo. Trong
điều kiện lịch sử hiện tại gắn với xu thế toàn cầu hoá, các nền kinh tế cần
phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế của mình cho phù hợp theo hướng mở, hội
nhập. Yêu cầu của cơ cấu kinh tế trong điều kiện lịch sử này là đủ khả năng
phát huy lợi thế so sánh trong nước, linh hoạt, điều chỉnh, đáp ứng nhu cầu
thị trường và quy định của quốc tế.
- Cơ cấu kinh tế Nông nghiệp, nông thôn
+ Cơ cấu kinh tế Nông nghiệp, nông thôn là tổng thể các mối quan
hệ các yếu tố hợp thành nền Nông nghiệp theo những quan hệ tỷ lệ nhất
định và có sự tác động lẫn nhau, gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ
thể, nhầm thực hiện có hiệu quả những mục tiêu đã được xác định.
Nông nghiệp là một ngành quan trọng trong quá trình phát triển kinh
tế. Kinh tế nông nghiệp và kinh tế nông thôn được nói đến như một nền
8
kinh tế truyền thống, nông nghiệp là khu vực duy nhất sản xuất ra lương
thực, thực thẩm để nuôi sống con người. Dù trình độ phát triển của khoa
học kỹ thuật đến đâu thì ngày này, sản phẩm nông nghiệp chưa có một
ngành sản xuất nào thay thế được, việc xác định vai trò của nông nghiệp,
nông thôn trong phát triển nền kinh tế là sự thể hiện quan điểm chính trị
của Đảng ta trong việc xác định phương hướng và mô hình phát triển nông

nghiệp, nông thôn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi phát triển
theo những quy luật nhất định của tự nhiên con người trên cơ sở nhận thức
được các quy luật, có thể tạo điều kiện cho chúng phát triển và phát triển
tốt, một nền nông nghiệp có hiệu quả phải là nền công nghiệp có kết cấu hạ
tầng nông thôn, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ phát triển,
năng xuất cây trồng vật nuôi đạt giá trị cao với chi phí thấp nhất trên một
đơn vị sản phẩm. Do vậy cần phải có những chính sách hợp lý và nhận thức
được các quy luật sinh học, lợi dụng tối đa các lợi thế của tự nhiên.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn hình thành và biến đổi gắn
liền với sự phát triển của xã hội và nền kinh tế sản xuất hàng hoá do vậy đã
tác động, thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển đa dạng và năng động
theo hưởng ngày càng tiến tiến và hiện đại hơn.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn gồm nhiều bộ phận hợp thành
song quan trọng là các bộ phận cơ bản sau:
+ Cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp biểu hiện ở mối quan hệ tỷ
lệ giữa các phân ngành trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp, và trong
từng phần ngành đó lại được phân chia thành nhiều ngành nhỏ hơn, tất cả
các bộ phần đó trong quá trình phát triển có sự tác động lẫn nhau, cùng cơ
cấu thành cơ cấu ngành trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phản ánh trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ tổ chức quản lý của một quốc
gia về nông nghiệp, xem xét cơ cấu ngành ngoài việc xem xét chỉ tiêu giá
trị, còn phải phân tích chỉ tiêu lao động. Chỉ tiêu vốn đầu tư, tổng hợp các
9
chỉ tiêu đó phản ánh thực trạng của cơ cấu ngành trong cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, cơ cấu của cơ cấu ngành là phân công lao động xã hội. Phân công
lao động càng được thực hiện sâu sắc thì cơ cấu ngành càng được phân chia
tỉ mỉ và đa dạng. Tiền đề của phân công lao động là năng suất lao động
nông nghiệp. Trước hết và chủ yếu là năng suất lao động của những người
sản xuất lương thực phải đạt tới một giới hạn chế nhất định, đảm bảo đủ

sản lượng lương thực cần thiết cho xã hội khi đó mới tạo ra được sự phân
công giữa những người sản xuất lương thực với những người trồng cây
công nghiệp, chăn nuôi, người làm dịch vụ nông nghiệp, chế biến nông sản vv…
+ Cơ cấu vùng lãnh thổ: Sự phân công lao động theo ngành, tất yếu
kéo theo sự phân công lao động theo vùng lãnh thổ, đó là tính hai mặt của
một quá trình. Sự phân công theo ngành bao giờ cũng diễn ra, trên những
vùng lãnh thổ nhất định tức là việc bố trí trồng cụ thể cây gì? Nuôi coi gì
cho phù hợp với điều kiện tự nhiên, dân số, lao động, trình độ, tập quán
canh tác, điều kiện thị trường… Để có cơ cấu vùng lãnh thổ hợp lý, trong
từng vùng cần coi trọng chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng hợp,
da dạng và trước hết cần hướng vào khai thác lợi thế so sánh của từng khu
vực. Đó là những khu vực có điều kiện về khí hậu, thổ nhưỡng, vị trí địa lý
thuật lợi, có khả năng tiếp cận và hoà nhập nhanh chóng với thị trường
hàng hoá, dịch vụ. Tuy vậy so với cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ có
sự chuyển biến chậm và lâu dài hơn, cho nên việc xây dựng các vùng
chuyên canh cần phải được xem xét cụ thể. Nếu mắc sai lầm sẽ khó khắc
phục và đưa lại hậu quả nặng nề không những về mặt kinh tế mà còn về
vấn đề xã hội, do vậy khi lựa chọn xây dựng cơ cấu vùng lãnh thổ bên cạnh
các yếu tố khác cần phải quan tâm trước hết đến thị trường, đặc biệt là thị
trường, đặc biệt là thị trường đầu ra, sau nữa là điều kiện riêng của từng
vùng, nhằm tìm kiếm những lợi thế trong sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu
cầu thị trường. Tuy nhiên việc xác định cơ cấu vùng không thể thụ động,
chỉ biết phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, mà phải năng động, biết kết hợp
10
lợi thế với việc khắc phục những hạn chế vốn có, lấy mục tiêu hiệu quả
tổng hợp làm định hướng cho việc xây dựng cơ cấu vùng.
+ Cơ cấu thành phần kinh tế: Đặc trưng và việc sử dụng các thành
phần kinh tế trong thời kỳ quá độ cũng thể hiện trong lĩnh vực nông nghiệp.
Tuy nhiên, ở nông nghiệp có những nét đặc thù không hoàn toàn giống như
trong công nghiệp và dịch vụ. Chủ thể tham gia trực tiếp sản xuất, kinh

doanh trong lĩnh vực Nông nghiệp chủ yếu là các hộ nông dân, các hộ này
hoặc là làm ăn riêng lẻ hoặc liên kết với nhau trong mô hình kinh tế hợp
tác. Đây là bộ phận chủ yếu trong cơ cấu thành phần kinh tế nông nghiệp
này cùng với kinh tế hộ, kinh tế hợp tác tồn tại dưới nhiều hình thức khác
nhau, trong quá trình đổi mới hiện nay, kinh tế hợp tác đang từng bước
được củng cố và phát triển.
+ Cơ cấu kỹ thuật: Khác với công nghiệp và dịch vụ, cơ cấu kỹ thuật
trong nông nghiệp mang tính chất cổ truyền kỹ thuật và còn lạc hậu, cấu
tạo hữu cơ thấp xa so với công nghiệp sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc
vào tự nhiên, phương thức canh tác chậm đổi mới, hạ tầng kỹ thuật hết sức
khó khăn, bảo quản, chế biến sản phẩm sau thu hoạch ít được quan tâm
vv… Trong những năm gần đây, trước sự phát triển mạnh mẽ của cách
mạng khoa học công nghệ tính bảo thủ trì trệ đã từng bước được khắc phục,
các tiến bộ mới về khoa học kỹ thuật đã được ứng dụng như giống, phân
bón, hệ thống thuỷ lợi, bảo vệ thực vật vv… đã được sử dụng, một số khâu
như vận chuyển, làm đất, thu hoạch… đã từng bước được cơ giới hoá ở
mức độ khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể đã góp phần giải phóng sức lao
động của người nông dân. Đặc biệt là sự phát triển của công nghiệp chế
biến đã có tác động thúc đẩy việc ứng dụng những thành tựu khoa học –
công nghệ và sản xuất nông nghiệp.
Từ những cơ sở lý luận trên ta thấy xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất
nông nghiệp và kinh tế nông thôn cần phải dựa trên cơ sở: đảm bảo tuân
thủ theo các quy luật khách quan trong phát triển. Đảm bảo khả năng khai
11
thác, sử dụng nguồn lực trong nước một cách tối ưu, đáp ứng được nhu cầu
hội nhập quốc tế, và phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình
tác động có hướng của các chủ thể quản lý kinh tế, nhằm biến đổi từ một cơ

cấu kinh tế lạc hậu, kém hiệu quả song một cơ cấu kinh tế mới hợp lý hơn,
tiến bộ hơn, hiệu quả hơn. Đó là quá trình tác động liên tục, tổng hợp trên
nhiều phương diện ở cả cấp vĩ mô và vi mô.
+ Những yêu cầu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế là phải phát huy tốt
nhất lợi thế so sánh của quốc gia, vùng, ngành, doanh nghiệp; khai thác
tổng hợp mọi tiềm năng; góp phần phát triển và ổn định kinh tế, xã hội, môi
trường; kết hợp kinh tế trong và ngoài nước; gắn tăng trưởng kinh tế với
giải quyết những vấn đề bức xúc của xã hội như tạo thêm việc làm, phân
phối hợp lý sản phẩm lao động
+ Cơ cấu kinh tế có tính ổn định tương đối còn hợp lý hoá chuyển
dịch cơ cấu kinh tế là thường xuyên. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế không
hoàn toàn giống nhau giữa các quốc gia, các giai đoạn phát triển. Tuy nhiên
trên những nét chung nhất nó đều mang tính quy luật phổ biến.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn: chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp là thay đổi tỷ trọng của nông, lâm, ngư nghiệp;
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là sự thay đổi tỷ trọng của nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với
nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và cần phải thực hiện
đồng thời những nhiệm vụ cơ bản sau:
Đưa năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp lên một mức cao
để đảm bảo thu nhập của người nông dân và sản phẩm nông nghiệp thoả
12
mãn được nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Muốn vậy, trước hết
phải đưa nông nghiệp lên thành nền kinh tế hàng hoá có chất lượng ngày
càng các, các biện pháp khoa học, kỹ thuật tiên tiến phải được áp dụng rộng
rãi, đồng thời các biện pháp tổ chức sản xuất, dịch vụ phải được phối hợp
trong các hình thức hợp tác xã mới và tổ chức trại thích hợp để mở rộng
quy mô sản xuất phù hợp với phương thức sản xuất công nghiệp.

Công nghiệp vùng nông thôn phải được tạo dựng và phát triển vừa
để phục vụ đầu vào và đầu ra của nông nghiệp, vừa để giải quyết việc làm
và nghề nghiệp mới cho số lao động dôi dư và mới tăng thêm ở nông thôn.
Đây là vấn đề lớn trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Xây dựng hạ tầng nông thôn mới cần tập trung đầu tư theo thứ tự ưu
tiên cho các công trình thiết yếu để phát triển và phục vụ sản xuất như hệ
thống giao thông, điện, thuỷ lợi, giáo dục – đào tạo, y tế - văn hoá vv…
phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tạo ra nền tảng vững chắc cho
quá trình đổi mới nông thôn đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn phải đảm bảo
tăng được chất lượng và giá trị sản phẩm, hàng hoá nông nghiệp nhưng
giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân
một các khoa học, hợp lý, mặt khác cơ cấu trong khối ngành nông nghiệp
cũng phải chuyển dịch theo hướng giảm cơ cấu giá trị ngành trồng trọt,
tăng giá trị ngành chăn nuôi, dịch vụ chế biến và xuất khẩu, xong phải ổn
định về lương thực và đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia.
+ Trong thực tế để đánh giá trình độ và hiệu quả của việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu
như: cơ cấu giá trị sản xuất, cơ cấu lao động, cơ cấu vốn đầu tư, năng suất
lao động….
Tuy nhiên tuỳ thuộc vào mục tiêu và phạm vi nghiên cứu, nguồn tư
liệu cho phép mà lựa chọn cho phù hợp. Song hai chỉ tiêu quan trọng nhất
là chỉ tiêu cơ cấu giá trị sản xuất và cơ cấu lao động.
13
Quá trình hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn liền
với quá trình phân công lao động xã hội, do đó gắn liền với sự biến đổi của
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước thúc đẩy sự phát triển cũng như quan hệ sản xuất. Chính vì
vậy, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tiền đề vật chất và động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế

nông nghiệp nói riêng. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp vưa là
kết quả, vừa là tiền đề của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.3. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn ở Việt Nam.
- Nhưng năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong phát triển nông nghiệp và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn đã
đảm bảo được ổn định lương thực cho toàn xã hội và xuất khẩu được một
lượng khá lớn (Bình quân 3,5 – 4 triệu tấm gạo/năm) nhiều mặt hàng nông
sản đã có chỗ đứng trên thị trường thế giới, tạo ra khối lượng lớn công ăn
việc làm cho người lao động, thu được ngoại tệ đáng kể do xuất khẩu nông
sản, khơi dậy tiềm năng phát triển các ngành nghề trong nông thôn, tạo lập
bước đầu phương thức làm ăn mới theo cơ chế thị trường, thúc đẩy giao lưu
kinh tế giữa nông thôn và thành thị… Đây là cơ sở, tiền đề thuận lợi cho
bước phát triển tiếp theo. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được báo
cáo tại Đại họi Đảng toàn quốc lần thứ X cũng đã nêu ra những yếu kém.
“Trong nông nghiệp, sản phẩm chưa gắn kết chặt chẽ và có hiệu quả cao
với thị trường; việc đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất còn
chậm; công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nông nghiệp và nông thôn vẫn
còn lúng túng”
1
, qua thực tế ra nhận thấy nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
còn một mặt yếu cơ bản như:
1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia 2006, tr.164.
14
+ Chưa khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên
nhiên, chưa thực sự khai thác hết lợi thế so sánh của từng vùng để tạo ra
các sản phẩm có lợi ra các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
+ Lực lượng lao động nông thôn dồi dào nhưng thiếu việc làm và
tình trạng này xảy ra ngày càng gay gắt khi mà diện tích đất canh tác ngày

càng giảm do quá trình đô thị hoá và phát triển các các khu công nghiệp tại
nông thôn.
+ Trình độ ứng dụng khoa học trong nhiều lĩnh vực nông nghiệp còn
thấp về năng xuất, chất lượng dẫn đến khả năng cạnh tranh của đa số hàng
nông sản khó cạnh tranh tiêu thu trên thị trường.
+ Cơ cấu kinh tế nông thôn chậm chuyển dịch, chủ yếu vẫn là sản
xuất nông nghiệp thuần tuý công nghiệp và dịch vụ kém phát triển, trong
cơ cấu nông nghiệp , trồng trọt vẫn chiếm tỷ lệ lớn hơn rất nhiều so với
chăn nuôi và chủ yếu là sản xuất lương thực.
+ Thị trường tiêu thụ nông sản gặp nhiều khó khăn, ở trong nước thì
“được mùa rới giá”, thị trường nước ngoài không ổn định.
+ Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống cho người nông dân
còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, sản xuất theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Trước thực trạng nông nghiệp và nông thôn Việt Nam hiện nay,
thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn sẽ giúp cho
nông nghiệp nông thôn có bước phát triển nhanh, vững chắc, đạt được các
mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra, góp phần công nghiệp hóa, hiện đại
hoá. Bởi vì:
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn tạo điều kiện
tiếp tục giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, với hai nguồn lực quan
trọng là tài nguyên thiên nhiên và sức lao động rất dồi dào ở nông thôn, tạo
ra sản phẩm thích ứng với lợi thế từng vừng miền, có sức cạnh tranh cao
15
trên thị trường quốc tế, giúp cho đẩy mạnh xuất khẩu, tăng tích luỹ ngoại
tệ, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn tạo ra sản
phẩm có chất lượng cao, giá trị cao, tăng đóng góp cho thu nhập quốc dân.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn còn tạo ra sự gắn kết chặt
chẽ giữa nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, giúp tăng cường sự hỗ trợ,

thúc đẩy nhau cùng phát triển.
+ Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn chính là tạo
tiền đề cho sự phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn trên cơ sở giải quyết
việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống, phát triển cơ sở hạ tầng, tạo ra
sự phát triển hài hoà giữa các vùng, giảm khoảng cách giữa đô thị và nông
thôn, giữ vững ổn định, trật tự xã hội và củng cố an ninh quốc phòng quốc
gia.
- Trên cơ sở thực tiễn ta thấy muốn kinh tế phát triển, tạo cơ sở cho
nền sản xuất hàng hoá phát triển và phát huy được lợi thế so sánh của mỗi
vùng, thúc đẩy quan hệ sản xuất mới, chúng ta phải xây dựng một cơ cấu
kinh tế, phù hợp với sự phát triển của nền sản xuất trong nước và quốc tế.
Cơ cấu kinh tế trong thời đại toàn cầu hoá phải thể hiện rõ xu hướng mở,
đủ khả năng tham gia phân công lao động quốc tế. Thực tiễn, qua nhiều
năm xây dựng đất nước cho thấy những thiếu sót trong phát triển kinh tế
đều bắt nguồn từ việc xác định và bố trí cơ cấu kinh tế theo kiểu tập trung,
mệnh lệnh, thiếu tôn trọng tính khách quan của cơ cấu. Vì vậy, phải chuyển
đổi cơ cấu kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tăng nhanh cơ sở vật chất kỹ thuật
cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã lựa chọn. Là một nước
công nghiệp còn lạc hậu, trong bối cảnh xu thế toàn cầu hoá và hội nhập
đang diễn ra mạnh mẽ thì việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là một chủ
16
trương đúng đắn và cấp thiết, có vai trò sức quan trọng và ý nghĩa trong
giai đoạn hiện nay.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp.
2.1. Nhóm nhân tố thuộc về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào ví trí
địa lý, điều kiện tự nhiên như: đất đai, khí hậu, nguồn nước… Đối tượng

của sản xuất nông nghiệp là những cây trồng, vật nuôi là những cơ thể sống
và phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Sự tác động của nhóm nhân tố
điều kiện tự nhiên mang tính thường xuyên và có tính quyết định đối với cơ
cấu cũng như sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, trước hết là cơ
cấu ngành. Trong điều kiện nhiên, nhân tố thời tiết khí hậu, nguồn nước có
tầm quan trọng đặc biệt, đồng thời cũng thường xuyên gây nên những rủi
ro đói với sản xuất nông nghiệp.
Do phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, nên mỗi quốc gia, cũng như
mỗi vùng trong quốc gia có cơ cấu kinh tế nông nghiệp không giống nhau
và sự chuyển dịch cơ cấu đó có những nét riêng biệt. Cũng như cơ cấu
ngành cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế cũng phụ thuộc vào
điều kiện tự nhiên khá rõ nét. Cụ thể là với vị trí địa lý thuật lợi, các tiềm
năng tự nhiên phong phú, cơ cấu ngành phát triển làm cho cơ cấu vùng lãnh
thổ và cơ cấu thành phần kinh tế phát triển theo. Thông thường, ở những
vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi thì các thành phần kinh tế cũng phát
triển với quy mô lớn hơn và tốc độ cao hơn so với các vùng có điều kiện tự
nhiên không thuận lợi. Sự phát triển của cơ cấu ngành, của cơ cấu thành
phần kinh tế nhờ vào điều kiện tự nhiên thuận lợi, đến lượt nó lại tạo điều
kiện và nảy sinh nhu cầu ứng dụng khoa học – công nghệ mới, kỹ thuật tiến
bộ, đổi mới hình thức tổ chức kinh doanh…. điều đó có nghĩa là nó tác
động tới cơ cấu kỹ thuật và cơ cấu sản xuất.
2.2. Nhóm nhân tố kinh tế
17
Nhóm nhân tố này bao gồm nhiều loại:
Một là , nhân tố lực lượng lao động : Trong nhân tố này, số lượng,
chất lượng, cơ cấu của lực lượng lao động có ý nghĩa lớn hơn. Chỉ với một
số lượng lao động nhất định mới có thể thực hiện thâm canh tăng năng
suất . Với những vùng dân cư thưa thớt thì việc thâm canh là hết sức khó
khăn. Cũng như tại chất lượng và cơ cấu lao động là yếu tố quyết định đến
chất lượng công việc, năng suất và hiệu quả. Chỉ có đội ngũ lao động có

chất lượng cao với cơ cấu hợp lý mới có khả năng thực hiện cơ giới hoá, hóa học
hoá và áp dụng với những thành tựu công nghệ sinh học vào nông nghiệp.
Hai là, nhân tố cơ sở vật chất kỹ thuật: Là nhân tố có tính quyết
định đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp
nói riêng. Nó bao gồm kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế, chất lượng, số
lượng, cơ cấu tư liệu sản xuất. Các yếu tố này tác động trực tiếp đối với
năng suất, chất lượng, hiệu quả, từ đó tác động đến phân công lao động, bố
trí lao động. Mọi sự biến đổi về cơ cấu đều bắt nguồn từ sự biến đổi của
cấu tạo kỹ thuật. Song thời đại ngày nay với thành tựu của cuộc cách mạng
thông tin thì vai trò của yếu tố cơ sở vật chất tác động đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn lớn hơn nhiều .
Trong điều kiện ở nước ta cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất nông
nghiệp còn quá nghèo nàn, lạc hậu, kết cấu hạ tầng chưa phát triển, trình độ
cơ giới hoá, hoá học hoá, sinh học hoá thấp. Từ thực tiễn đó đòi hỏi muốn
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá - hiện
đại hoá phải chăm lo và có phương án hiệu quả để phát triển cơ sở vật chất
kỹ thuật .
Ba là , nhân tố vốn đầu tư : Vốn là nhân tố có tính quyết định cuối
cùng tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Nhờ có vốn đầu tư
mới có thể giải quyết được vấn đề tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, áp
dụng những thành tựu của cách mạng khoa học – công nghệ sản xuất. Để
có được vốn đầu tư, ngoài nguồn vốn ngân sách cần có chính sách huy
18
động các nguồn vốn để thực hiện các chương trình, đề án chuyển đổi giống
cây trồng, vật nuôi, công nghệ sau thu hoạch nhằm nâng cao năng suất,
chất lượng, chủng loại sản phẩm phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người
tiêu dùng .
Bốn là , nhân tố thị trường : Việc xây dựng cơ cấu cũng như chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường, dù ở trình độ
nào thì cũng phải quán triệt các vấn đề cơ bản. Đó là sản xuất cái gì, sản

xuất cho ai, số lượng và chất lượng phải do thị trường quyết định. Chúng ta
đã gặp khó khăn khi động viên nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng rồi
để họ tự lo liệu đầu ra . Cách làm đó dẫn đến việc nông dân phá bỏ cây này
chuyển sang cây trồng khác mà thị trường có nhu cầu… làm thiệt hại kinh
tế không nhỏ cho họ .
Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế, thị trường ngoài nước có vai trò
ngày càng tăng lên. Yếu tố này chi phối mạnh tới sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong từng quốc gia. Việc lựa chọn đúng các lợi thế so sánh của
từng quốc gia đóng vai trò quyết định đến thành công của nước đó trong
hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là hội nhập trong lĩnh vực nông nghiệp.
Vì vậy, cần khai thác nhân tố này để giải quyết đầu ra vào đầu vào cho sản
xuất nông nghiệp. Cũng từ đó, lôi cuốn các thành phần kinh tế tham gia sản
xuất kinh doanh nông nghiệp, hình thành các vùng chuyên canh xuất khẩu,
khai thác lơị thế so sánh, sử dụng hợp lý, có hiệu quả các nguồn lực của
từng vùng .
2.3 Nhóm nhân tố văn hoá – xã hội , chính trị .
- Nhân tố văn hoá – xã hội : Việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
gắn với nông thôn, trong khi đó ở nông thôn còn nhiều phong tục tập quán,
lối sổng bảo thủ, lạc hậu .Do vậy, khi đề ra phương án trồng cây gì, nuôi
con gì phải được điều tra kỹ lưỡng về hiệu quả cũng như đầu ra cho sản
phẩm, phát huy tiềm năng và phương thức sản xuất truyền thống, tập quán
trồng trọt và chăn nuôi của địa phương .
19
- Về nhân tố chính trị : Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá cần có sự ổn định chính
trị - xã hội. Về điểm này, chúng ta có Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chính
sách phát triển kinh tế xã hội đúng đắn thông qua việc vận dung sáng tạo
lý luận Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm quốc tế vào
thực tiễn Việt Nam .
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nông nghiệp nói riêng là vấn đề có tính then chốt với nền kinh tế. Do vậy,
cần phải có vai trò Nhà nước trong việc can thiệp vào quá trình này thông
qua hệ thống công cụ quản lý vĩ mô của mình nhằm thực hiện có hiệu quả
chức năng quản lý .
Tóm lại, Các nhóm nhân tố trên có mối quan hệ tác động lẫn nhau.
Trong mối quan hệ tương tác đó, mỗi nhân tố có vị trí khác nhau, tác động
theo những hướng không giống nhau, nhưng cùng tác động đối với việc
hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Các nhân tố đó chỉ
có thể phát tác dụng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nếu
như có sự can thiệp có hiệu quả của Nhà nước thông qua cơ chế chính
sách, pháp luật .
3. Các quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng và
Nhà nước ta.
Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, phù hợp
với quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường được quán triệt xuyên
suốt trong các Văn kiện đảng và chính sách của Nhà nước .
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương giữa nhiệm kỳ khoá VII của
Đảng đã xác định :” thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá”
1
. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ngày nay mà Đảng ta đã chỉ ra là “ Quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội,
1
Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ BCH TW khoá VIII, tr.26.
20
từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động với công nghệ, phương tiện tiên tiến, hiện đại dựa trên sự
phát triển công nghiệp và khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao độg xã
hội cao”

1
. Với mục tiêu xây dựng nước ta trở thành một nước công
nghiệp, có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất .
Như vậy, theo quan điểm của Đảng ta, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá vần chú ý những vấn đề sau :
Một là , chuyển dịch cơ cấu toàn bộ, bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu
vùng và cơ cấu các thành phần kinh tế; huy động đồng bộ mọi điều kiện,
mọi biện pháp, mọi yếu tố để phát triển kinh tế .
Hai là, chú trọng cải tạo, nâng cao trình độ hiện đại của trang thiết
bị hiện có, đồng thời đổi mới quy trình công nghệ trong sản xuất và quản lý
ở mọi ngành,, mọi lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội .
Nói cách khác, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ
cấu thành phần kinh tế theo hướng hợp lý và hiệu quả cao hơn đòi hỏi nền
kinh tế phải được công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Ngược lại công nghiệp
hoá hiện đại hoá làm cho nền kinh tế tăng trưởng và thúc đẩy mạnh quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế .
Ở nước ta, cung như từng địa phương xu hướng chung của chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong năm tới là :
- Về cơ cấu ngành : Chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng cơ cấu
nông nghiệp,tăng tỷ trọng cơ cấu công nghiệp và dịch vụ .
- Xây dựng cơ cấu các thành phần kinh tế phù hợp gồm : Kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân ( cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân ),
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài .
1
Văn kiện Hội nghị lần thứ Bảy BCH TW khoá VIII, tr.65.
21
- Về cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ : Chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ theo
hướng phát triển toàn diện và tập trung có trọng điểm, phát triển tổng hợp

và phát triển chuyên môn hoá .
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định :” Thúc đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn,
chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả
kinh tế cao; đẩy mạnh thâm canh các loại cây trồng trên cơ sở áp dụng các
quy trình sản xuất đồng bộ và tiên tiến; quy hoạch diện tích sản xuất lương
thực ổn định. Đảm bảo vững chắc an ninh lương thực phát triển mạnh
chăn nuôi theo hướng quy mô lớn, an toàn dịch bệnh và bền vững về môi
trường. xây dựng các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung gắn liền
với việc chuyển giao công nghệ sản xuất chế biến và bảo quản”
1
.
Theo đó, Đảng và nhà nước ta sẽ tập trung thực hiện các giải pháp
đồng bộ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp và nông thôn, nhất là : đưa nhanh khoa học và công
nghệ vào sản xuất nông , lâm, ngư nghiệp; có chính sách đủ mạnh để
khuyến khích phát triển nhanh các doanh nghiệp và hoạt động dịch vụ ở
nông thôn; tiếp tục đàu tư phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội
ở nông thôn ; tập trung giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc và xây
dựng nông thôn mới .
1
Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia 2006, tr.191.
22
Chương 2
THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP NÔNG THÔN Ở HUYỆN THAN UYÊN TỈNH LAI CHÂU
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN THAN UYÊN
TỈNH LAI CHÂU
1. Điều kiện tự nhiên :
1.1 Vị trí địa lý :

Than Uyên là một huyện thuộc tỉnh Lai Châu, nằm ở phía Tây dãy
núi Hoàng Liên Sơn, có toạ độ địa lý từ 21
0
42’ 18’’ – 22
0
18’10’’ vĩ độ
Bắc, 103
0
32’23’’ – 103
0
53’38’’ độ kinh Đông .Cách thị xã Lai Châu 97 km
về phía Nam.
- Phía Bắc giáp huyện Tân Uyên tỉnh Lai Châu.
- Phía Nam giáp huyện Mù Cang Chải tỉnh Yên Bái .
- Phía Đông giáp huyện Văn Bàn tỉnh Lào Cai.
- Phía tây giáp huyện Quỳnh Nhai và huyện Mường La tỉnh Sơn La.
- Tổng diện tích tự nhiên : 79.687,6 ha. Toàn huyện có 11 xã và 1 thị
trấn, dân số 5,8 vạn người. Có hệ thống giao thông tương đối phát triển ( có
đường quốc lộ 132, quốc lộ 279 chạy qua và đường nối từ quốc lộ 132 qua
thuỷ điện Huội Quảng, Bản Chát Huyện Than Uyên với thuỷ điện Sơn La ).
1.2 Địa hình của huyện được chia thành hai vùng cơ bản .
- Vùng 1 : gồm 5 xã và 1 thị trấn. Vùng này nằm dọc theo trục đường
quốc lộ 132. Có tổng diện tích 25.016,52 ha, chiếm 31,4 % diện tích toàn
huyện .
- Vùng 2 : gồm 6 xã. Vùng này nằm dọc theo sông Nậm Mu thuộc
phía Tây và phía Nam của huyện .
1.3 Khí hậu, thuỷ văn, các nguồn tài nguyên .
- Khí hậu :
23
Khí hậu tại huyện Than Uyên mang tính nhiệt đới gió mùa, tổng

lượng mưa bình quân : 2.200 – 2500 mm/ năm, nhiệt độ trung bình năm :
22 – 28
0
C. Ngoài ra, khí hậu ở đây còn có những khác biệt, đặc thù riêng,
đó là gió lạnh và khô thổi rất mạnh từ dãy Hoàng Liên Sơn giáp với huyện
Văn Bàn thổi xuống, thời gian từ tháng 12 năm trước đến tháng 2 năm sau,
mưa lớn nhưng mùa mưa . Ngắn chỉ tập trung từ giữa tháng 5 đến tháng 9,
mùa đông lạnh và kho.
- Thuỷ văn :
Trên địa bàn có rất nhiều sông suối chảy qua. Trong đó có sông Nậm
Mu là chi nhánh lớn nhất của sông Đà, hiện nay đang được chính phủ đầu
tư xây dựng nhà máy thủy điện với công suất 740 MW. Còn lại các suối
khác thường ngắn và dốc, thường gây sạt lở, lũ quét về mùa mưa và thiếu
nước vào mùa khô do hệ thống rừng đầu nguồn bị tàn phá. Ngoài ra còn
nhiều ao, hồ nằm rải rác trên địa bàn huyện .
- Các nguồn tài nguyên :
+ Tài nguyên đất đai :
Đất đai của huyện Than Uyên cơ bản là nhóm đất Fêralit đỏ vàng
trên đá sét, đá biến chất và mắc ma axit, đất mùn xám trên đá cát, diện tích
chủ yếu là đất lâm nghiệp. Phía dưới các dãy núi là đất ruộng và đất bãi,
đây là vùng sản xuất trọng điểm lương thực của huyện Than Uyên nói riêng
và tỉnh Lai Châu nói chung .
24
Bảng 1 : Tình hình sử dụng đất huyện Thanh Uyên
Hạng mục
Năm 2009 Ghi
chú
Diện tích ( ha)
Cơ cấu
( %)

Tổng diện tích tự nhiên 79.686,6 100
1. Đất nông nghiệp 31.193,28 39,14
- Đất sản xuất nông nghiệp 6.948 8,72
+ Đất trồng cây hàng năm 6.486 8,13
+ Đất trồng cây lâu năm 462 0,58
- Đất lâm nghiệp 23.906,28 30
- Đất nuôi trồng thuỷ sản 160 0,2
- Đất nông nghiệp khác 179 0,22
2. Đất phi nông nghiệp 4.510,31 5,66
- Đất ở 420 0,52
- Đất chuyên dùng 2.024,09 2,54
- Đất sông suối, mặt nước 1.362,66 1,71
- Đất khác 703,56 0,88
3. Đất chưa sử dụng 43.984,01 55,2
( Nguồn : phòng tài nguyên môi trường huyện Than Uyên )
+ Tài nguyên nước :
Nguồn nước ở huyện Than Uyên khá phong phú nhờ hệ thống sông,
suối bắt nguồn từ dãy núi Hoàng Liên Sơn chảy xuống, cùng với một số hồ
tích nước của thị trấn xã Mường Than, Mường Cang… đáp ứng cơ bản cho
nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của nhân dân .
+ Tài nguyên rừng :
Tài nguyên rừng của huyện Than Uyên cơ bản là rừng tái sinh và
một diện tích nhỏ rừng trồng phòng hộ , Toàn huyện hiện nay có 23.906,28
ha rừng trong đó khoanh nuôi tái sinh là 21.000 ha. Trồng mới là 1906,28
ha, rừng phòng hộ. Hiện nay còn lại 35.984,01ha, đất núi đồi chưa sử dụng
đang tiến hành quy hoạch dự án giao cho các hộ gia đình và doanh nghiệp
đầu tư trồng rừng sản xuất .
+ Tài nguyên khoáng sản và vật liệu xây dựng :
Chủ yếu là đá vôi, đá xây dựng và cát sỏi, thuận tiện cho việc khai
thác vật liệu xây dựng . Ngoài ra, còn có mỏ than ở xã Mường Than, mỏ

25

×