Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ với thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.54 KB, 15 trang )

lOMoARcPSD|9242611

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

…………………………………….

BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC LÊ-NIN

Đề tài số 3:

Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó rút ra ý
nghĩa phương pháp luận và liên hệ với thực tiễn

Họ, tên SV: Nguyễn Thị Thùy Dương
Mã SV: 11221594
Lớp: 64C Digital Marketing Khóa: 64
GĐ: A2-711

Hà Nội -12/2022

1

lOMoARcPSD|9242611

MỤC LỤC

I. LỜI NÓI ĐẦU………………………………………………………….3
II. NỘI DUNG LÝ THUYẾT
1. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý


thức
a. Vật chất quyết định ý thức………………………………………………
4
b. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật
chất…………...6
2. Ý nghĩa phương pháp luận………………………………………………
7
III. LIÊN HỆ THỰC TIỄN
1. Liên hệ với việc học tập của bản thân……………………………………

8
2. Liên hệ với thực tiễn đổi mới ở nước

ta………………………………....9
IV. KẾT

LUẬN………………………………………………………………14

V. TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………….15

2

lOMoARcPSD|9242611

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Phát triển là một q trình địi hỏi sự biến đổi cả về chất và lượng. Trải qua hàng ngàn năm,

nhân loại đã tích lũy và đúc kết được những tư tưởng đóng góp lớn cho sự phát triển, đi lên của

xã hội. Dựa trên những giá trị tư tưởng đó, triết học Mác – Lênin ra đời và trở thành hình thức
phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật – duy vật biện chứng. Xuất phát từ những sai lầm,
hạn chế của các quan niệm duy tâm, siêu hình, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã nêu lên những
quan điểm khoa học đúng đắn về mặt triết học trên hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật
chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng. Theo quan điểm triết học Mác Lê nin, vật chất và ý
thức tồn tại trong mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Từ mối quan hệ này, em
đã rút ra những bài học thực tiễn vơ cùng quan trọng cho bản thân. Đó là lí do em chọn đề tài:
“Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó rút ra ý
nghĩa phương pháp luận và liên hệ với thực tiễn”

2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích quan trọng nhất là tìm hiểu và phân tích được mối quan hệ tương quan giữa vật

chất và ý thức thông qua quan niệm duy vật biện chứng. Từ đó rút ra được phương pháp luận
chung và vận dụng vào liên hệ với thực tiễn đời sống, cụ thể là trong nhận thức cuộc sống học
tập, sinh hoạt thường ngày và đổi mới đất nước.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: vật chất, ý thức, quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ

giữa vật chất và ý thức, ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ thực tiễn
Phạm vi nghiên cứu: trong phạm vi của chủ nghĩa Mác- Lênin

4. Bố cục của đề tài:
Bài tiểu luận ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì cịn được chia

thành các nội dung cơ bản sau:
I. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
II. Ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào thực
tiễn


Do chưa có nhiều kinh nghiệm và kiến thức của bản thân còn nhiều chỗ hạn chế nên bài
tiểu luận của em khó có thể tránh khỏi những thiếu sót, em kính mong sẽ nhận được sự góp
ý và giúp đỡ của thầy giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!

3

lOMoARcPSD|9242611

NỘI DUNG LÝ THUYẾT

I. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:

Từ việc nắm vững phép biện chứng duy vật và luôn theo sát những thành tựu mới
nhất của khoa học tự nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Leenind đã khắc phục
những sai lầm, hạn chế của các quan niệm duy tâm, siêu hình và nêu lên những quan điểm
khoa học, khái quát, đúng đắn về mặt triết học trên hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật
chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng.
Theo quan điểm triết học Mác – Leenin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng,
trong đó vật chất quyết định ý thức, cịn ý thức tác động trở lại vật chất.

a. Vật chất quyết định ý thức:
Trước tiên, em sẽ giải thích về hai khái niệm “vật chất” và “ý thức”.
Ý thức là thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất đặc biệt là bộ óc người. Cấu trúc

hồn thiện của bộ óc người là nền tảng vật chất để ý thức hoạt động. Khơng có bộ óc của
con người, khơng có hoạt động thực tiễn xã hội thì khơng thể có ý thức.

Còn theo Lê nin, “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được

đem lại cho con người trong cảm giác và được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.

Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên những khía cạnh sau:
*Vật chất quyết định nguồn gốc ý thức:
Vật chất “sinh ra” ý thức, vì con người – đại diện cho vật chất, là kết quả của một q
trình phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất và ý thức
xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm. Con người
do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, ý thức – một thuộc tính của bộ óc con người – cũng do
giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh
rằng, giới tự nhiên có trước con người; vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật
chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức
và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ
quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của
bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan.

*Vật chất quyết định nội dung của ý thức:

4

lOMoARcPSD|9242611

Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Ý thức mà
trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong
đầu óc con người. Hay nói cách khác, có thế giới hiện thực vận động, phát triển theo những
quy luật khách quan của nó, được phản ánh vào ý thức mới có nội dung của ý thức.
Thế giới khách quan, trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã hội – lịch sử của
loài người, là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ánh. Ý thức chỉ là hình ảnh của
thế giới khách quan. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là
động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc nội dung của tư duy, ý

thức con người qua các thế hệ, qua các thời đại từ mông muội đến văn minh, hiện đại.

*Vật chất quyết định bản chất của ý thức
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính khơng tách rời trong bản chất của ý thức. Nhưng
sự phản ánh của con người không phải “soi gương”, “chụp ảnh” hay “phản ánh tâm lý” mà
là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thơng qua thực tiễn. Nếu như chủ nghĩa duy vật cũ
xem thế giới vật chất như là những sự vật, hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện
chứng xem xét thế giới vật chất là thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực
tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con người – là cơ sở để hình thành,
phát triển ý thức, trong đó ý thức con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng
tạo và sáng tạo trong phản ánh.

*Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật
chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người – một sinh vật
có tính xã hội ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức – một
hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
Hoạt động sản xuất càng phát triển thì tư duy, ý thức của con người ngày càng phong phú.
Con người không chỉ ý thức được hiện tại, mà còn ý thức được cả những vấn đề trong quá
khứ và dự kiến được cả trong tương lai, trên cơ sở khái quát ngày càng sâu sắc bản chất,
quy luật vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự vận động, biến đổi không
ngừng của thế giới vật chất, của thực tiễn là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư
duy, ý thức của con người.
Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được biểu hiện ở
vai trị của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn tại xã
hội đối với ý thức xã hội. Trong xã hội, sự phát triển của kinh tế xét đến cùng quy định sự
phát triển của văn hóa; đời sống vật chất thay đổi thì sớm muộn đời sống tinh thần cũng
thay đổi theo.

5


lOMoARcPSD|9242611

Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng về mặt nhận thức
luận, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng của V.I. Lênin, rằng “sự đối lập giữa vật
chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức hạn chế: trong trường
hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trước
và cái gì là cái có sau? Ngồi giới hạn đó, thì khơng cịn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó
là tương đối. Ở đây, tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện qua mối
quan hệ giữa thực thể vật chất đặc biệt – bộ óc người và thuộc tính của chính nó.

b. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất

Điều này được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức được thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh
thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý
thức có “đời sống” riêng , có quy luật vận động, phát triển riêng, khơng lệ thuộc một cách
máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời thì có tính độc lập tương đối, tác động trở lại
thế giới vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, song hành với hiện thực, nhưng nhìn
chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.

Thứ hai, sự tác động của vật chất đối với ý thức phải thông qua hoạt động thực tiễn của
con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hồn cảnh
vật chất, cịn tự bản thân ý thức thì khơng thể biến đổi được hiện thực. Con người dựa trên
những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục
tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã định.
Đặc biệt là ý thức tiến bộ, cách mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân – lực
lượng vật chất xã hội, thì có vai trị rất to lớn. “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể
thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực
lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập

vào quần chúng”.
[Trích C.Mác và Ph. Awngghen: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr.580]

Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người;
nó có thể quyết đinh làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất
bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên đốn một cách chính xác cho
hiện thực, có thể hình thành nên những lý luận định hướng đúng đắn và những lý luận này
được đưa vào quần chúng sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo,
từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực
khi nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực.

6

lOMoARcPSD|9242611

Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trị của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời
đại thời nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, vai trị của tri thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng
nhân văn là hết sức quan trọng.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng khơng thể vượt q tính quy
định cùa những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng
lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu quên điều đó chúng ta sẽ lại rơi vào chủ nghĩa
chủ quan, duy tâm, duy ý chí, phiêu lưu và khơng tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực
tiễn.

II. Ý nghĩa của phương pháp luận:
Trước hết, từ vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, cần rút ra quan điểm khách

quan khi nhìn nhận bất cứ sự việc, hiện tượng nào. Ngoài ra cần kết hợp quan điểm khách

quan với tính chủ quan một cách linh hoạt. Quan điểm khách quan bao gồm: thứ nhất, khi
xem xét, nhận thức sự vật phải xuất phát từ chính sự vật, phải phản ánh đúng bản chất,
thuộc tính của sự vật, hiện tượng đó, khơng để quan điểm chủ quan lấn át. u cầu này
khơng phức tạp, khơng khó thực hiện nhưng trong thực tế nhiều người vi phạm yêu cầu này
ở những mức độ khác nhau, do vậy mà không đạt được những nhận thức đúng đắn về sự vật
hoặc khơng có những chủ trương hoạt động thực tiễn phù hợp. Thứ hai, trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan. Mọi mục đích, hành động, kế hoạch, chủ trương, biện pháp đặt ra cho mỗi người đều
phải dựa trên việc phân tích cặn kẽ, thấu đáo hoàn cảnh thực tế khách quan, các chủ trương
chính sách của con người nhờ vào việc suy xét thực tế khách quan một cách cặn kẽ mà có
thể phản ánh được những nhu cầu đã chín muồi, có như vậy những chủ trương, giải pháp
mới có thể thành công. Mặt khác, các quy luật tự nhiên, xã hội, tư duy tồn tại khách quan,
không phụ thuộc vào ý thức, nếu làm trái với quy luật, con người sẽ phải hứng chịu hậu
quả. Do đó, phải nhận thức các quy luật, hành động phù hợp với quy luật.

Kế đến là phát huy tính năng động chủ quan của ý thức. Ý thức, tư tưởng với tính năng
động, sáng tạo của nó có vai trị to lớn do đó cần phát huy yếu tố tích cực của ý thức, tư
tưởng hay phát huy vai trò của nhân tố con người trong xử lý tình huống thực tiễn. Cần
nâng cao không ngừng khả năng nhận thức và vận dụng quy luật của con người bằng tinh
thần chủ động học hỏi, làm chủ các tri thức khoa học, vận dụng các tri thức trong hoạt động
thực tiễn.

Phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con
người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo,

7

lOMoARcPSD|9242611

phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng, coi trọng

giáo dục lý luận của chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, phải giáo
dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố, bồi dưỡng nhiệt tình ý chí cách mạng
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung, nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ,
kinh tế tri thức, tồn cầu hóa hiện nay; coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức
cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa
học.
Để thực hiện ngun tắc tơn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ
quan, cịn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích, phải biết kết hợp hài
hịa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; phải có thái độ khách quan, không vụ lợi
trong nhận thức và hành động của mình.

III. Liên hệ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào thực tiễn

1. Vận dụng trong cuộc sống học tập của bản thân:

Người Việt Nam ngoài việc lừng lẫy năm châu với những chiến công vẻ vang khi thành

công đánh đuổi quân xâm lược Pháp và Mĩ thì cịn để lại ấn tượng trong mắt bạn bè quốc tế

là sự thông minh, hiếu học. Tuy nền giáo dục Việt Nam cịn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn

về cơ sở vật chất nhưng ta cũng đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào trong nhiều lĩnh

vực chuyên môn. Tuy nhiên phần lớn sinh viên vẫn thụ động, ỷ lại và thiếu tính sáng tạo.

Đây là một điều đáng buồn vì tính sáng tạo, năng động, tích cực đóng vai trị rất lớn trong

nền kinh tế của bất cứ quốc gia nào. Vì vậy để xã hội ngày càng phát triển thì cần phát huy

vai trị tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và vai trò nhân tố con người để tác động, cải


tổ thế giới.

Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn đòi hỏi

phải xuất phát từ thực tế khách quan, tức là phải tự xác định được các điều kiện vật chất

khách quan ảnh hưởng đến chất lượng học tập của bản thân. Bản thân em là sinh viên năm

nhất của trường Đại học Kinh tế Quốc dân nói chung và sinh viên thuộc viện AEP nói riêng,

em rất vinh dự khi được Nhà trường sắp xếp thời khóa biểu cho và khơng cần phải vất vả

đăng kí tín như các bạn hệ tiêu chuẩn. Hơn nữa chúng em còn được học tập tại tịa A2, nơi

có cơ sở vật chất có thể được coi là xịn sò nhất trong trường, được tạo cơ hội tham gia

những dịp trọng đại của trường như được đón Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, có thư

viện Phạm Văn Đồng với cơ sở vật chất hiện đại, tất cả những nhu cầu của bản thân em về

cơ sở vật chất đã được đáp ứng và đây cũng là những điều kiện tốt nhất để em có thể tập

trung học tập, rèn luyện trong suốt 4 năm học sắp tới.

Thứ hai, vì ý thức có tác động trở lại vật chất nên cần phát huy tính năng động chủ quan,

tức là phát huy tính tích cực, năng động và sáng tạo của ý thức. Bản thân cần tham gia đầy

đủ và hăng hái, năng nổ trong từng tiết học. Trong kết cấu của ý thức thì tri thức là yếu tố


8

lOMoARcPSD|9242611

quan trọng nhất. Chính vì vậy sinh viên cần chủ động khai thác, tìm hiểu vấn đề, trong q
trình học khơng nên q phụ thuộc vào giảng viên mà thay vào đó nên nêu lên những suy
nghĩ, thắc mắc của mình về bài giảng, từ đó sẽ giúp bản thân hiểu bài hơn. Điển hình như ở
bộ mơn Triết học, cần có sự thảo luận giữa cả giảng viên và sinh viên, sinh viên cần tự đưa
ra quan điểm riêng và tiếp nhận những góp ý, nhận xét của giáo viên bộ môn. Hơn nữa, suy
rộng ra đối với sinh viên nói chung, để đạt thành tích tốt trong học tập cũng như phát triển
tương lai thì cần có niềm đam mê và tâm huyết đối với mỗi môn học, bất kể là môn đại
cương hay chuyên ngành. Cần phải có niềm tin ở bản thân và rèn luyện ý chí, sức mạnh tinh
thần giúp ta vượt qua những khó khăn để đạt được mục tiêu đề ra. Có ý thức học tập sẽ giúp
ta đạt được thành tích cao và nhận được những phần thưởng đáng tự hào như học bổng
khuyến khích học tập, học bổng doanh nghiệp. Điều này không chỉ tạo động lực để mỗi sinh
viên cố gắng trong các học kỳ tới mà cịn một phần nào đó giảm bớt gánh nặng kinh tế hàng
tháng cho mỗi sinh viên.

Thứ ba, cần chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ trì trệ. Là một
sinh viên của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, một trong những ngôi trường hàng đầu cả
nước về đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực kinh tế, hơn ai hết chúng ta đều phải có nhận
thức rõ rang, cần biết tiếp thu và chọn lọc những ý kiến, quan điểm mới, phải biết lắng nghe
và tiếp thu góp ý của mọi người. Cần phải nghiêm túc khắc phục tính trì hỗn bởi có kỷ luật
thì mới có thành cơng. Ví dụ như sau mỗi lần thuyết trình, sau mỗi bài kiểm tra, cần lắng
nghe ý kiến đóng góp, chỉnh sửa từ giảng viên và các bạn, tránh lặp lỗi tương tự trong
những lần tới.

Thứ tư, khi giải thích các hiện tượng xã hội cần phải suy xét toàn diện cả về điều kiện vật
chất lẫn yếu tố tinh thần, điều kiện khách quan lẫn yếu tố chủ quan. Chẳng hạn khi đăng kí

học phần, ta khơng chỉ tính tốn đến điều kiện tài chính, quỹ thời gian mà còn phải cân nhắc
cả năng lực học tập và phải đảm bảo sức khỏe của bản thân. Khơng nên vì cố gắng tốt
nghiệp sớm hoặc học theo các bạn dẫn đến hao phí tiền của, thời gian, cơng sức mà không
thu được kết quả như ý.

2. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện
nay:

Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác – Lê nin. Vì vậy,
qua hơn 30 năm đổi mới và phát triển, Đảng và nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to
lớn mang tính lịch sử. Điều này thể hiện đường lối chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng,
đồng thời góp phần bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin trong điều kiện mới.

9

lOMoARcPSD|9242611

C.Mác, Ph.Ăngghen đã có đóng góp lớn trong việc cung cấp những luận cứ thuyết phục
để biến chủ nghĩa xã hội không tưởng thành chủ nghĩa xã hội khoa học. Với chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã cung cấp cho giai
cấp công nhân “vũ khí” lý luận, chỉ rõ vị thế và vai trị của họ trong sự phát triển của lịch sử.
Đặc biệt là trong bộ “Tư bản”, các ơng đã phân tích, chứng minh một cách minh bạch, cụ
thể rằng hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa sẽ không thể trụ vững nếu những mâu
thuẫn cố hữu, mang tính nội bộ tiếp tục diễn ra và dần dần nó sẽ bị thay thế bởi hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Ngoài ra, trong lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học,
các ông cũng chỉ ra con đường dẫn dắt giai cấp công nhân đấu tranh thốt khỏi sự nơ dịch và
bóc lột tư bản chủ nghĩa, tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chính vì
vậy, mà sau này, không phải ngẫu nhiên V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh rằng: “Điều quan
trọng nhất trong học thuyết Mác là việc làm sáng tỏ vai trị lịch sử tồn thế giới của giai cấp

vô sản với tư cách là người xây dựng, kiến tạo xã hội mới.”

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vơ cùng sáng suốt khi vận dụng những tư tưởng của
C.Mác và Ph. Ăngghen vào thực tế cách mạng Việt Nam. Hơn nữa, trong thời kỳ đổi mới,
Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin cho phù hợp với điều kiện
mới của Việt Nam, từ đó đã đúc kết những luận điểm lý luận phù hợp với mô hình chủ
nghĩa xã hội của Việt Nam. Đó là những luận điểm lý luận về mục tiêu và đặc trưng của xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Vào mùa xuân năm 1921, trong bước chuyển đổi từ “Chính sách cộng sản thời chiến”
sang “Chính sách kinh tế mới”, V.I.Lênin đã tự phê phán về những sai lầm nghiêm trọng khi
coi thường quy luật khách quan và yêu cầu cần thay đổi căn bản những quan niệm, tư duy
trước đây về chủ nghĩa xã hội. Lĩnh hội tinh thần đó, Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI
của Đảng (tháng 12-1986) đã tạo ra bước ngoặt trong đổi mới tư duy về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan, phương
châm “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” là khởi nguồn cho
những sáng tạo của Đảng khi xác định mơ hình và bước đi trong q trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội thừa nhận sự tồn tại khách quan của nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần trong buổi đầu thời kỳ quá độ. Những quan điểm đổi mới về tư duy kinh tế
nêu trên Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3-1989) khẳng định và bổ sung những bước tiến
mới. Từ kinh nghiệm của 5 năm đổi mới, Đại hội VII của Đảng (6-1991) đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã xác
định sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

10

lOMoARcPSD|9242611

So với sáu đặc trưng của xã hội chủ nghĩa mà “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (năm 1991) đã nêu ra, Đại hội X đã bổ sung hai đặc trưng là

“xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” và “có nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 1-2011) tiếp tục bổ
sung và phát triển “Cương lĩnh” cho phù hợp với thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, trong đó có những đặc trưng của xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

“Cương lĩnh” năm 1991 đã vạch ra bảy phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng xã
hội mới theo những đặc trưng được xác định. Sau 20 năm thực hiện “Cương lĩnh” năm
1991, từ việc tổng kết thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, “Cương lĩnh” (được
bổ sung và phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển nhận thức về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội, thể hiện ở tám phương hướng cơ bản nhằm thực hiện thành công mục tiêu tổng
quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa
xã hội và kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để đưa
Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, Đảng ta đã nhận thức lại, thấm nhuần quan
điểm thực tiễn, lịch sử cụ thể và phát triển nhắm khắc phục những cách hiểu, cách nghĩ,
cách làm giản đơn, siêu hình, giáo điều, duy ý chí, trái quy luật khách quan về thời kỳ trước
đổi mới, theo đúng tinh thần của V.I.Lênin. Tuy nhiên, đổi mới không phải là xa rời hay từ
bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, phủ nhận chủ nghĩa xã hội khoa học mà trái lại, là sự nhận thức
đúng đắn và đầy đủ hơn, là sự phát triển sáng tạo hơn nữa bản chất khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác- Lênin, của chủ nghĩa xã hội khoa học để tiến hành xây dựng chủ nghĩa
xã hội một cách có căn cứ khoa học và thực tiễn.

Tóm lại, việc áp dụng và thấm nhuần tư tưởng của V.I.Lênin về Chính sách kinh tế mới là
cơ sở nền tảng để Đảng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đây
chính là minh chứng cho sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào thực tiễn Việt
Nam trong bối cảnh mới. Theo tinh thần Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin, Đại hội VI
đã đề ra đường lối đổi mới, trong đó có đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nhằm tạo ra động lực
thúc đẩy các đơn vị kinh tế và quần chúng lao động hăng hái phát triển sản xuất, nâng cao

năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, khái niệm “kinh tế thị trường định
hướng xã hội” mới chính thức được xác định sau 15 năm kể từ Đại hội IX của Đảng (năm
2001). Đến Đại hội XII (năm 2016), Đảng Cộng sản Việt Nam đã có bước phát triển tư duy
rất rõ nét về kinh tế thị trường khi xác định đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội XII xác định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

11

Downloaded by tran quang ()

lOMoARcPSD|9242611

nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với giai đoạn phát triển
của đất nước, là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lí của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Như vậy, từ sự thúc bách của cuộc sống, từ nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong
quá trình đổi mới cũng như nghiên cứu kế thừa tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác- Lênin, Đảng ta đã thực hiện đổi mới, sáng tạo thừa nhận kinh tế nhiều thành
phần, chấp nhận cơ chế thị trường và khẳng định nó khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội,
thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin cũng được Đảng ta vận dụng, phát triển vào xây
dựng, củng cố liên minh giai cấp và đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh của nhân
dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong giai đoạn lãnh đạo Cách mạng tháng Mười, V.I.Lênin đã vận dụng sáng tạo những
quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về liên minh giai cấp vào thực tiễn cách mạng nước
Nga và xây dựng được liên minh giai cấp cơng-nơng bền vững, góp phần to lớn vào thắng

lợi của Cách mạng Tháng Mười và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kế thừa và phát
triển tinh thần đó trong bối cảnh mới, các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI
và XII đều tiếp tục khẳng định vai trị, tính tất yếu của liên minh giữa giai cấp công nhân,
nông dân và đội ngũ trí thức đối với việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đối với
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, có bổ sung những quan điểm, định hướng
và giải pháp mới.

Đảng ta đã vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về Đảng Cộng sản kiểu mới một cách sáng
tạo để đem lại những thành tựu trong xây dựng và củng cố vai trò Đảng Cộng sản cầm
quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội ở Việt Nam- nhân tố quan trọng hàng đầu đảm bảo cho
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đi đến thắng lợi.
Nhận thức của Đảng ta về công tác xây dựng Đảng ngày càng đầy đủ, khách quan và khoa
học; thể hiện sự vận dụng sáng tạo những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác- Lênin về xây
dựng Đảng- đội tiền phong của giai cấp công nhân, phù hợp với nhu cầu thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Đảng ta đã thực hiện lời di huấn của V.I.Lênin là phải dựa vào nhân dân để
xây dựng Đảng và các đồn thể chính trị- xã hội; đó phải là những tổ chức bộ máy phục vụ
chính trị chứ chính trị khơng phục vụ bộ máy. Theo V.I.Lênin, chính trị được đề cập ở đây
chính là cuộc sống của nhân dân, lợi ích của nhân dân, là số phận của hàng triệu triệu con
người.

Trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng
sản Việt Nam không ngừng bổ sung, phát triển lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng

12

Downloaded by tran quang ()

lOMoARcPSD|9242611

Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì

dân, tăng cường phát huy và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa để phát triển đất nước
trong điều kiện mới, sớm đưa Việt Nam sánh vai các cường quốc năm châu như tâm nguyện
của Bác Hồ.

13

Downloaded by tran quang ()

lOMoARcPSD|9242611

IV. PHẦN KẾT LUẬN

Qua việc tìm hiểu và phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ với thực tiễn,
chúng ta thấy rằng thế giới về bản chất là vật chất, vật chất thì tồn tại khách quan có trước
và quyết định ý thức, cịn ý nghĩa thì chính là cái có sau và là sự phản ánh vật chất, cũng là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Trong hoạt động thực tiễn thì nhân tố vật chất là
cơ sở quy định, các nhân tố tinh thần chỉ có thể phát huy tác dụng nếu nó bảo đảm sự thống
nhất gắn bó với các nhân tố vật chất. Do vậy, để phát huy hiệu quả hoạt động học tập của
bản thân thì em phải xuất phát từ thực tế khách quan, phải phản ánh đúng thế giới khách
quan không thêm bớt và từ những kiến thức đó áp dụng vào thực tế cuộc sống cũng như
trong trải nghiệm để bản thân mình hoạt động học tập dễ dàng, đóng góp một phần nhỏ bé
vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

14

Downloaded by tran quang ()

lOMoARcPSD|9242611


V. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. C.Mác và Ph.Ăngghen(1995), Toàn tập, t.1, Sđd, tr.580.
2. PGS.TS.Bùi Thị Thanh Hương - PGS.TS.Nguyễn Minh Hoàn (Đồng chủ

biên), 2018, Giáo trình Triết học Mác- Lênin, Nhà xuất bản khoa học xã
hội.
3. GS.TS.Phạm Văn Đức (Chủ biên), 2019, Giáo trình Triết học Mác- Lênin,
Bộ Giáo dục và Đào tạo.

15

Downloaded by tran quang ()


×