Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Công tác xã hội với các cá nhân và gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.16 KB, 49 trang )

CÔNG TÁC XÃ HỘI

VỚI
CÁC CÁ NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Người biên soạn
Tôn-Nữ Ái-Phương
Thạc sỹ Giáo dục học - Khoa học Xã hội Ứng dụng

1

MỤC LỤC

MỤC LỤC 2

CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI CÁC CÁ

NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 4

1. Giới thiệu chung 4

2. Sơ lược lịch sử công tác xã hội với cá nhân và gia đình 4

2.1. Lịch sử của CTXH 5

2.2. Những ý tưởng khởi đầu cho hoạt động CTXH giúp đỡ cá nhân 6

2.3. Sự ra đời của các tổ chức tiền thân của Công tác Xã hội và phương pháp thực hành CTXH với cá

nhân và gia đình 7


CHƯƠNG II: MỘT SỐ ĐỊNH NGHĨA VÀ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG

TÁC XÃ HỘI VỚI CÁC CÁ NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 13

1. Các định nghĩa và khái niệm 13

2. CTXH với các cá nhân 15

3. CTXH với các gia đình 15

CHƯƠNG III: MỤC ĐÍCH VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CTXH VỚI CÁC CÁ NHÂN VÀ

GIA ĐÌNH 17

1. Mục đích của thực hành CTXH với cá nhân và gia đình 17

2. Những đặc điểm của thực hành CTXH với các cá nhân và gia đình 17

3. Các nguyên tắc và ý nghĩa của CTXH với các cá nhân và gia đình 18

3.1. Các giá trị và ý nghĩa của chúng trong CTXH với các cá nhân và gia đình 18

3.2. Những nguyên tắc thực hành trong CTXH với các cá nhân và gia đình 19

4. Các thành phần và mối quan hệ trong CTXH với các cá nhân và gia đình 22

4.1. Các thành phần (hay còn gọi là các nhân tố) trong CTXH với các cá nhân và gia đình 22

4.2. Mối quan hệ giữa nhân viên xã hội với khách hàng 24


CHƯƠNG IV: QUY TRÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TRONG CTXH VỚI CÁC CÁ

NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 25

1. Xác định vấn đề ban đầu 25

2. Thu thập thông tin 25

3. Đánh giá tầm quan trọng hoặc mức độ nguy hiểm của vấn đề 25

4. Lên kế hoạch can thiệp / giúp đỡ 25

5. Thực hiện kế hoạch can thiệp/ giúp đỡ 25

6. Giám sát và lượng giá 26

2

7. Chấm dứt/ kết thúc sự giúp đỡ 26

CHƯƠNG V: NHỮNG LÝ THUYẾT VÀ CÔNG CỤ CƠ BẢN CẦN THIẾT CHO

THỰC HÀNH CTXH VỚI CÁC CÁ NHÂN VÀ GIA ĐÌNH ( PHẦN THAM KHẢO

THÊM) 27

1. Các lý thuyết về hệ thống xã hội và môi trường sinh thái 27

1.1 – Lý thuyết gia đình 28


1.2 - Lý thuyết về hệ thống sinh thái 31

1.3 - Lý thuyết về Con người-trong-môi trường 33

2. Các quan điểm về “Tâm lý năng động” (hay còn gọi là tâm năng động)” 37

2.1 Lý thuyết về sự gắn bó (attachment theory) 38

2.2 Lý thuyết về sự phát triển của nhân cách và cái tôi (ego and personality development perspectives)

40

3. Các lý thuyết về sức mạnh và khả năng phục hồi 43

3.1 Lý thuyết về thế mạnh 43

3.2. Lý thuyết về khả năng phục hồi 44

3

CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT VỀ CÔNG TÁC XÃ
HỘI VỚI CÁC CÁ NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

1. Giới thiệu chung

Trong cuộc sống, con người chúng ta ai cũng đã từng hoặc sẽ trải qua những giai đoạn
khó khăn nhất trong cuộc đời của mình. Có người trong chúng ta may mắn vượt qua
được những thời điểm khó khăn đó nhờ vào nghị lực của bản thân, cá tính mạnh mẽ của
họ hoặc có được những sự trợ giúp đắc lực và kịp thời từ người thân hoặc từ một nguồn
nào khác. Những người này đã học được những kinh nghiệm sống q báu từ q trình

vượt khó đó và tự vươn lên để có được một cuộc sống tốt, ổn định và một sự nghiệp
thành cơng. Tuy nhiên, có một số người khác lại không thể nào vượt qua được do khơng
có được những điều kiện hỗ trợ như nhóm người kia để giúp họ vượt qua những khó
khăn đó. Cuộc sống của những người này sẽ trở nên ngày càng khó khăn hơn, và nếu
khơng có một sự giúp đỡ kịp thời thì có thể dẫn đến những hậu quả bất lợi cho bản thân
và gia đình của họ nhóm người này. Hoạt động cơng tác xã hội với cá nhân và gia đình
được tổ chức thực hiện là nhằm vào mục đích giúp đỡ các nhóm đối tượng này.

Công tác xã hội, từ thời điểm khởi đầu của nó, chỉ đơn thuần là những hoạt động từ
thiện như cứu tế xã hội và hướng đến việc giúp đỡ các cá nhân sống trong hồn cảnh
nghèo đói. N nhưng sau một thời gian dài hoạt động, việc tổ chức các hoạt đông cứu tế
và từ thiện này đã dần đần được cải thiện và cần có người được đào tạo để làm việc một
cách chuyên nghiệp nhằm làm cho để các hoạt động giúp đỡ người nghèo có được hiệu
quả tốt hơn. Nghề công tác xã hội được ra đời từ đó với mục đích đào tạo nhân viên xã
hội làm việc với các cá nhân và gia đình để đáp ứng nhu cầu của người nghèo, của
những người đang gặp hồn cảnh khó khăn được tốt hơn và phù hợp hơn với nhu cầu
thực tế của họ. Đó là những con người thuộc nhóm dễ bị tổn thương do hoàn cảnh sống,
hoặc do những nguyên nhân và điều kiện khác mà môi trường sống đã ảnh hưởng đến
họ và khi gặp phải những hồn cảnh khó khăn bản thân của họ cảm thấy bất lực và khó
vượt qua được.

Cơng tác xã hội kể từ đó được là được xem như là một “nghề để giúp đỡ người khác”
(a helping professional) bởi vì hoạt động này là hoạt động giúp đỡ những người đang
gặp khó khăn trong cuộc sống.

2. Sơ lược lịch sử công tác xã hội với cá nhân và gia đình

Bà Oanh là người đã đem những kiến thức và kỹ năng chuyên môn của nghề công tác
xã hội vào Việt Nam từ những hiểu biết của bà về sự thực hiện công tác xã hội từ Mỹ.


Khi nói đến lịch sử cơng tác xã hội, các tác giả và sách báo về chủ đề này đều cho rằng
nghề Công tác Xã hội và Công tác Xã hội với cá nhân hoặc với gia đình có nguồn gốc
xuất xứ từ các nước phương Tây mà cụ thể là Anh và Mỹ. Các khái niệm, thuật ngữ và
lý thuyết, thực hành do vậy đều chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Tuy nhiên,
những người đi tiên phong trong ngành CTXH ở Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong
việc vận dụng các lý thuyết và khái niệm này vào Việt Nam và Việt hóa chúng để có thể
phù hợp và dễ áp dụng vào quá trình thực hành CTXH ở Việt Nam.

4

Công tác xã hội, mặc dù mới được công nhận là một nghề mới chính thức ở Việt Nam
trong năm 2010, nhưng khái niệm về công tác xã hội là thì khơng mới đối với những
người hoạt động xã hội ở phía Nam, là nơi mà việc đào tạo nhân viên xã hội đã được
thực hiện từ những năm 60 của thập kỷ trước. Người có cơng trong việc giới thiệu và
xây dựng chương trình đào tạo nhân viên xã hội ở Việt Nam từ đầu (vào những năm
1960) và tiếp tục hồi sinh ngành này sau một thời gian dài bị gián đoạn (từ năm 1975
đến 1990) là Thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh.

2.1. Lịch sử của CTXH

Phần lớn các sách báo viết về lịch sử của Công tác xã hội đều cho rằng nước Mỹ là nơi
khởi nguồn của các phương pháp thực hành công tác xã hội, kể từ khi Mary Richmond
xuất bản những cuốn sách đầu tiên về Công tác xã hội là Friendly Visiting Among the
Poor (Những cuộc viếng thăm thân thiện đến người nghèo, 1899), “Social Diagnosis”
(Chẩn đoán xã hội, 1917), The Good Neighbor in the Modem City (Láng giềng tốt trong
các thành phố hiện đại, 1907) and What is Social Casework? An Introductory
Description (CTXH với trường hợp cá nhân là gì? Những mơ tả ban đầu, 1922)1. Đây là
những cuốn sách đầu tiên viết về các phương diện lý thuyết và cũng đã đem lại những
lời giải đáp và hướng dẫn thực hành cho hoạt động CTXH nhằm giúp đỡ những người
nghèo hoặc các cá nhân gặp khó khăn trong cuộc sống.


Nước Mỹ cũng là nơi mà ngôi trường đầu tiên đào tạo chuyên ngành công tác xã hội
được ra đời (1898) – The New York School of Philanthropy (tạm dịch là Trường Bác
Ái của New York) sau này đổi tên thành Columbia University School of Social Work
(Trường CTXH của Đại học Columbia)2. Vào thời điểm đó, trường này đã tổ chức
nhiều hội thảo và các chương trình đào tạo trong thời gian nghỉ hè cho nhiều tình
nguyện viên và những người làm cơng việc “viếng thăm thân thiện” đến với người
nghèo, và cũng tổ chức chương trình đào tạo một năm cho nghề CTXH. Đây cũng chính
là thời điểm mà Mary E. Richmond cùng các đồng nghiệp của bà chuẩn bị cho xuất bản
cuốn sách đầu tiên, “Friendly Visiting Among the Poor” (Những cuộc viếng thăm thân
thiện đến người nghèo, 1899).

Tuy nhiên, rõ ràng là phong trào CTXH phải có một q trình phát triển lâu dài trong
lịch sử của nó và người ta có quan điểm cho rằng phong trào CTXH đã bắt nguồn từ
trước đó rất lâu với các hoạt động của các những nhà cải cách thuộc các Tổ chức Từ
thiện của Thiên chúa giáo: một người là được xem là triết gia Tây Ban Nha (Juan Louis
de Vivres, 1493–1540) và người kia là một mục sư Đạo Tin lành người Scotland
(Thomas Chalmers, 1780-1847)3.
Hai quan điểm về hoạt động giúp đỡ người nghèo của Juan Louis de Vivres và Thomas
Chalmers được xem là những quan điểm khởi nguồn cho hoạt động thực hành CTXH
với cá nhân và gia đình đồng thời cũng như là nguồn gốc của nghề công tác xã hội. Khi
bàn về hoạt động CTXH với cá nhân và gia đình, Paras và các tác giả khác, đã viết:

“Sơ lược về lịch sử của thực hành công tác xã hội với các cá nhân và gia đình cho thấy
rằng không chỉ phương pháp thực hành công tác xã hội mà cả nghề cơng tác xã hội nói

1 />2 />3 Erlinda Albaracin and Dolores Rubia (2010): Social Work with Individuals and Families (CFSI-ULSA
project)

5


chung cũng đều có ng̀n gốc từ các hoạt động với cá nhân”. (Paras, Eufemio, Kay, De
Guzman, 1981)4

2.2. Những ý tưởng khởi đầu cho hoạt động CTXH giúp đỡ với cá
nhân

Hai quan điểm về hoạt động giúp đỡ người nghèo của Juan Louis de Vivres và Thomas
Chalmers được tóm tắt như sau:

2.2.1. Cá nhân hóa sự giúp đỡ cho người nghèo (tư tưởngcủa Juan Louis
de Vivres, 1493-1540)

Ý tưởng giúp đỡ người nghèo trên cơ sở tiếp cận từng cá nhân lần đầu tiên được phát
triển bởi nhà triết học Tây Ban Nha, Juan Louis de Vives. Mặc dù gốc gác là người Tây
Ban Nha, nhưng ông chuyển sang sống ở Bỉ trong phần lớn cuộc đời của mình trong
thời gian đầu của thế kỷ 16. Ông đã quan sát sự việc các tín đồ ngoan đạo cũng như các
thủ tục mà tôn giáo thực hiện khi đi làm công việc từ thiện: những người này bằng cách
phân phát những đồ vật bố thí một cách đồng đều đến người nghèo nhưng đã khơng
quan tâm nhiều đến tình hình cuộc sống của từng cá nhân người nghèo. Ông đã kêu goi
những nhà tài trợ hoặc bố thí từ thiện nên quan tâm đến những gì xảy ra sau khi những
người nghèo nhận được những sự trợ giúp đó. Ở thời điểm đó, trên khắp châu Âu,
những người nghèo này được gọi là “những người cùng khổ”, một thuật ngữ ám chỉ
cách sống phụ thuộc vào sự cứu trợ. Ông vận động mọi người nên điều tra về điều kiện
xã hội của mỗi một gia đình nghèo để xác định nhu cầu/ vấn đề cụ thể của họ. Ông đề
nghị, bên cạnh sự phân phát của bố thí, cần phải tổ chức các dịch vụ khác như dạy nghề,
tạo việc làm và các dịch vụ phục hồi chức năng khác cho những người nghèo. Tuy
nhiên, những đề nghị của ông đã không nhận được sự chú ý của những nhà hoạt động
xã hội trong thời điểm đó5.


2.2.2. Giúp đỡ cá nhân trong quan hệ láng giềng (trong cộng đồng) (tư
tưởng của Thomes Chalmers, 1780-1847)

Một ý tưởng tương tự sau đó lại được khởi xướng vào đầu thế kỷ 19 ở Scotland bởi
Thomas Chalmers, mục sư ở một giáo xứ địa phương. Triết lý của ông về sự cứu trợ là
nên tập trung vào các cá nhân, hoặc các địa phận giáo xứ nhỏ. Ông đã bắt đầu bằng cách
khởi tạo trong giáo xứ của mình một chương trình từ thiện tư nhân dựa vào những giúp
đỡ từ quan hệ láng giềng vào năm 1819. Tổ chức từ thiện tư nhân của ông đã tổ chức
được một hệ thống những người thiện nguyện thường xuyên đến viếng thăm từng cá
nhân người nghèo để khích lệ và đào tạo cho họ. Ơng chủ trương rằng mỗi một trường
hợp của những người có hồn cảnh khó khăn cần phải được giải quyết theo từng cách
riêng. Thay cho việc phân phát cứu trợ hoặc bố thí một cách đơn thuần, mỗi một trường
hợp nên được điều tra kỹ để xác định nguyên nhân của hoàn cảnh khó khăn và các giải
pháp giúp đỡ họ sẽ được thực hiện trên cơ sở đó. Ơng nhấn mạnh rằng những vấn đề mà

4 Paras, E., Eufemio, F., de Guzman, L., and Kay, K. (1981). Social Casework: An Introduction..
SSWAP. Manila trong Erlinda Albaracin and Dolores Rubia (2010): Social Work with Individuals and
Families (CFSI-ULSA project)

5 Erlinda Albaracin and Dolores Rubia (2010): Social Work with Individuals and Families (CFSI-ULSA
project)

6

mỗi cá nhân đang quan tâm trong cuộc sống của họ cần phải được chú ý đến trong quá
trình giúp người nghèo phục hồi chức năng và nâng cao đời sống của họ.

2.3. Sự ra đời của các tổ chức tiền thân của Công tác Xã hội và
phương pháp thực hành CTXH với cá nhân và gia đình


Phần này sẽ trình bày sơ lược một số điểm mốc thời gian có liên quan đến sự thành lập
của một số tổ chức hoạt động theo phương thức thực hành CTXH tập trung vào cá nhân
và gia đình.

2.3.1. Sự ra đời của các tổ chức tiền thân của CTXH với cá nhân và gia
đình

Năm 1843:

Hiệp hội Cải thiện các Điều kiện của Người Nghèo được ra đời ở New York (the
Association for Improving the Condition of the Poor -AICP) tìm cách giải quyết vấn đề
nghèo đói theo cách tiếp cận cá nhân. Hiệp hội này đã áp dụng nguyên mẫu các hình
thức tiếp cận với cá nhân những người nghèo của các tổ chức từ thiện ở nước Anh vào
việc giúp đỡ người nghèo trong q trình cải cách đơ thị ở New York, và đã đem lại
được nhiều thành công đáng kể trong việc nâng cao đời sống tinh thần của người nghèo
ở thành phố này. Hiệp hội này đã hoạt động trong suốt 97 năm kể từ ngày thành lập cho
đến khi nó bị Cuộc Đại Khủng hoảng buộc nó và Hiệp hội Các Tổ chức Từ thiện ở New
York phải sát nhập vào năm 1939 để thành lập nên Hiệp hội Các Tổ Chức Dịch Vụ
Cộng Đồng ở New York (Community Service Society of New York) ngày nay6.

Năm 1869:

Hiệp hội Các Tổ chức Từ thiện (Charity Organization Society -COS) đầu tiên được
thành lập ở Luân Đôn, Anh Quốc. Những ý tưởng của Thomas Chalmers, sau 50 được
bắt đầu bằng những hoạt động tiên phong của ông ở Glasgow, đã được những nhà hoạt
động từ thiện ở Anh đón nhận. Họ kết hợp cả hai ý tưởng, cá nhân hóa sự giúp đỡ và
giúp đỡ cá nhân trong quan hệ cộng đồng vào hoạt động tiếp cận mà họ áp dụng trong
việc giúp đỡ những người nghèo. Hiệp hội các tổ chức từ thiện London đã vận hành một
chương trình cứu trợ dựa trên ý tưởng của Chalmer, đặt nền móng cho sự phát triển của
CTXH cá nhân như là một phương pháp cho việc giúp đỡ người nghèo. Họ xây dựng

một chính sách trợ giúp được mở rộng trên cơ sở từng đối tượng một tùy thuộc vào từng
hoàn cảnh cá nhân. Ngay sau đó, một số các Hiệp hội tương tự đã xuất hiện tại Anh.
Các tình nguyện viên có kỹ năng được tuyển dụng để trợ giúp cho các gia đình nghèo và
giúp người nghèo phát huy những khả năng tự xoay sở để vượt khó của họ7.

Năm 1877:

Hiệp hội các Tổ chức Từ thiện (Charity Organization Society -COS) đầu tiên của Mỹ
được thành lập ở Buffalo, New York và cũng hoạt động theo mơ hình của Hiệp Hội Các

6 Barbara Levy Simon: Association for Improving the Condition of the Poor (United States) in
Encyclopedia of Social Welfare History in North America by John M. Herrick&Paul H. Stuart (2005,
2007) , SAGE Publications, Inc. , />7 Erlinda Albaracin and Dolores Rubia (2010): Social Work with Individuals and Families (CFSI-ULSA
project)

7

Tổ chức Từ Thiện ở Anh. Họ hoạt động dưới hình thức một tổ chức thiện nguyện, và
cũng thúc đẩy thêm việc tiếp cận theo cá nhân và CTXH với các trường hợp riêng biệt/
với các cá nhân8. Khoảng một thập kỷ tiếp theo sau đó, hàng loạt Các Hiệp hội Tổ chức
Từ thiện như vậy cũng được thành lập ở các thành phố lớn của Mỹ, và nhiều tổ chức
trong số này thực hiện việc hỗ trợ người nghèo bằng các trợ cấp về tài chính. Tuy nhiên,
ở New York, Hiệp hội này hoạt động theo cách hơi khác với các thành phố khác là tập
trung cung cấp những lời tư vấn cho người nghèo hơn là phân phát quà bố thí hoặc cứu
trợ9.

2.3.2. Phương pháp thực hành và quá trình phát triển của CTXH với cá
nhân và gia đình.

2.3.2.1. Phương thức hoạt động của các tổ chức tiền thân của hoạt động

CTXH

Trong thời gian đầu, nhân viên của các Tổ chức Từ thiện, phần lớn là các tình nguyện
viên làm việc từ thiện và thường đóng vai trị là những người “người khách thân thiện”
và tìm đến các cộng đồng nghèo để phân phát các món quà cứu trợ hoặc những hỗ trợ
về tài chánh, vật chất và tinh thần cho các gia đình nghèo. Các tình nguyện viên xã hội
trong thời kỳ này thường cho rằng lý do khiến người ta những người này trở nên nghèo
đói là do lười biếng, thất học, hoặc đang sống một cách trụy lạc, sa đọa, do gặp thất bại
của bản thân và do bản thân họ thiếu niềm tin. Vì vậy, mục tiêu của việc viếng thăm
thân thiện trước tiên là tập trung vào tư vấn giúp cho một cá nhân có thể thực hiện
những nỗ lực tốt nhất, để : làm việc thật chăm chỉ nhằm kiếm sống đủ cho chính bản
thân của cá nhân và nhu cầu của gia đình cá nhân họ, cũng như tư vấn để giúp nâng đỡ
cuộc sống tinh thần của họ.

Tuy nhiên, sau một thời gian dài hoạt động, những nhân viên tình nguyện viên xã hội
này đã phát hiện ra rằng, nguyên nhân nghèo đói khơng phải là chỉ xuất phát từ những
vấn đề như họ đã từng nghĩ trước đây mà là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Họ đã
tiến hành tìm hiểu và sau đó phát hiện của họ cho thấy những ngun nhân gây cảnh
khốn khó khơng nằm ở khiếm khuyết về tính cách của cá nhân người ta mà là do ở
những điều kiện xã hội trong môi trường sống của họ những cá nhân đó như bệnh tật,
đơng con, nhà ở chật chội, trình độ học vấn thấp, lương thấp, thiếu kỹ năng làm việc,
thiếu cơ hội làm việc,… Từ đó, họ rút ra kết luận rằng mơi trường có ảnh hưởng lớn đến
các vấn đề của các cá nhân10 và đã đề xuất rằng việc phân tích những ngun nhân từ
phía mơi trường xã hội cần phải được chú trọng trong quá trình giúp đỡ khách hàng
(thân chủ)

Những tình nguyện viên xã hội này cũng lo lắng rằng việc chấp nhận các khoản cứu trợ
cộng đồng sẽ là suy giảm lòng tự trọng của những người cần sự trợ giúp và làm cho họ
trở nên phụ thuộc vào sự trợ giúp. Vì vậy, các tình nguyên viên xã hội cho rằng những
người nghèo cần phải nỗ lực để tự giải quyết vấn đề của mình và họ đã có những kế

hoạch điều tra hồn cảnh từng cá nhân riêng lẻ để xác định nhu cầu và có biệp pháp hỗ
trợ hợp lý. Ngồi ra, các tình nguyện viên đã được yêu cầu là phải tạo được những ảnh
hưởng tốt về phương diện đạo đức đối với người nghèo, do vậy người nghèo cũng được
tư vấn để thay đổi thái độ và hành vi. Các Tổ chức Từ thiện ngày càng trở nên phổ biến

8 Social Work Practice with Individuals: www.csub.edu/...
9 />10 Social Work Practice with Individuals: www.csub.edu/...

8

ở Anh và đã hoạt động hiệu quả thông qua việc sử dụng những khách thăm viếng thân
thiện này và để điều tra hoàn cảnh, xác định nhu cầu. Những hoạt động theo phương
pháp này đã đặt nền móng cho công tác xã hội với cá nhân (làm việc với trường hợp cá
nhân).

2.3.2.2. Sự ra đời của lý thuyết về CTXH với cá nhân và q trình phát
triển của cơng tác xã hội với cá nhân và gia đình ở Mỹ qua các thời kỳ 11

Trước năm 1920

“Người khách viếng thăm thân thiện”, theo cách gọi trước đây khi đề cập đến nhân viên
xã hội, đã giúp những người mới đến định cư ở Mỹ trong thời gian đầu, họ giúp những
người đã khơng thể thích nghi với nền văn hóa mới hay đang sống trong hồn cảnh
nghèo đói.

Trong giai đoạn này, Mary Richmond, tác giả của tác phẩm Chẩn đoán Xã Hội (1917)
đã cung cấp cho các nhà hoạt động tình nguyện này một mơ hình lý thuyết cơng tác xã
hội. Lý thuyết này cho rằng việc thu thập thơng tin cẩn thận sẽ giúp những người tình
nguyện viên xã hội hiểu rõ được các nguyên nhân của vấn đề và từ đó có thể đưa ra biện
pháp khắc phục. Vào thời điểm đó, xã hội học đã có những ảnh hưởng lớn đối với các

kiến thức công tác xã hội. Những giải thích của tâm lý học vào thời điểm này chưa xuất
hiện. Sự ra đời của của trường đào tạo nhân viên xã hội đầu tiên ở Mỹ vào năm 1898 –
Trường New York School of Philanthropy (tạm dịch là Trường Bác Ái của New
York) sau này đổi tên thành Columbia University School of Social Work (Trường
CTXH của Đại học Columbia) – đã đánh đấu một sự tiến bộ của CTXH trong việc đào
tạo nhân viên xã hội và việc áp dụng một cách chuyên nghiệp những kiến thức và kỹ
năng CTXH một cách chuyên nghiệp vào các hoạt động giúp đỡ khách hàng (thân chủ).

1921-1930

Giai đoạn này đánh dấu một sự phát triển mới trong hoạt động CTXH với sự ra đời của
lý thuyết phân tâm học do Sigmund Freud phát triển sau những nghiên cứu về phân tích
tâm lý của ơng. Các hoạt động CTXH với các cá nhân đã có sự thay đổi đáng kể và tập
trung vào việc phân tích những vấn đề tâm lý của khách hàng (thân chủ). Những khách
hàng mà gặp khó khăn trong việc điều chỉnh bản thân họ được nghiên cứu theo những
quan điểm phân tâm học của Freud. “Những hiểu biết về cảm xúc, thái độ, những sự
mâu thuẫn bị dồn nén, và sự đấu tranh trong vô thức của khách hàng (thân chủ) đã trở
thành một phần không thể thiếu được trong yêu cầu về kiến thức và phương pháp làm
việc của nhân viên CTXH với các trường hợp cá nhân. Hoạt đông CTXH với cá nhân
thời kỳ này tập trung vào các vấn đề tâm lý và cảm xúc do những ảnh hưởng bởi các
khám phá của S. Freud (phân tâm học và tâm lý học năng động), và các cơng trình
nghiên cứu của Otto Rank, Carl Jung, Alfred Adler, v.v..”12. Phương pháp xử lý vấn đề
tâm lý của khách được thực hiện thông qua các biện pháp tương tự trong y khoa là can
thiệp giúp đỡ và xử lý theo cách điều trị (hay còn được gọi là trị liệu).

11 Phần lớn nội dung của đoạn này được trích dẫn từ Danao, I. (2000). Working with individuals.
Philippine Encyclopedia of Social Work. Q.C., Phil.: Megabook Co. ; phần trích dẫn trong tài liệu tập
huấn được biên soạn bởi Erlinda Albaracin and Dolores Rubia (2010): Social Work with Individuals and
Families (CFSI-ULSA project)
12 Social Work Practice with Individuals: www.csub.edu/...


9

Chiến tranh Thế giới lần thứ I cũng đã tạo ra những tác động đối với sư phát triển lý
thuyết về CTXH với cá nhân. Trong quá trình làm việc để giúp các các cựu chiến binh
hoặc nạn nhân bị thương vong và gia đình của họ, ngồi sự làm việc liên hệ trực tiếp với
khách hàng (thân chủ), CTXH với cá nhân còn phải làm việc với những người khác,
CTXH với gia đình đã bắt đầu được phát triển trên cơ sở này. 13

Các đặc điểm Sự khác biệt của thực hành CTXH cá nhân trong giai đoạn này so với giai
đoạn trước bao gồm có:

1) xử lý (trị liệu) nhằm giúp cho thân chủ tự “điều chỉnh”;
2) các quy trình cơ bản được sử dụng là: sử dụng các nguồn tài nguyên; giúp cho
thân chủ tự hiểu biết về bản thân và phát triển khả năng “tự giải quyết các vấn
đề xã hội của mình”;
3) tập trung vào các cá nhân và nghiên cứu chi tiết về các hành vi cá nhân, thái
độ và các mối quan hệ, chủ yếu là tập trung vào những kinh nghiệm thời thơ ấu;
4) chủ yếu là dựa vào các cá nhân để thu thập thông tin trong quá trình tìm hiểu
ý nghĩa của những điều đã xảy ra đối với họ; và
5) chú trọng đến việc giáo dục và phát triển lý thuyết.

1930-1945

Do tác động của suy thoái kinh tế, vấn đề nghèo đói và lệch lạc xã hội đã được nhìn
nhận theo nhiều cách thức khác nhau. Những vấn đề xã hội khơng cịn được xem chỉ là
sản phẩm của những khiếm khuyết của cá nhân mà còn là do ảnh hưởng của hồn cảnh
xã hội của mơi trường mà họ sống.

Cách tiếp cận theo chức năng được phát triển trong những năm 1930 bởi các giảng viên

của Trường đào tạo Công tác Xã hội ở Pennsylvania. Khái niệm này đã được giới thiệu
bởi Jessie Taft, trong khi đó Virginia Robinson xác định các kỹ năng cần thiết cho các
phương pháp tiếp cận. Theo cách tiếp cận này, nhân viên xã hội và khách hàng (thân
chủ) cùng quyết định nếu xem thử họ có thể phối hợp làm việc với nhau trên cơ sở
những vấn đề/nhu cầu/vấn đề của khách hàng (thân chủ) và các chương trình hoặc dịch
vụ có sẵn tại cơ sở xã hội hay khơng. Sự sử dụng những chức năng của cơ sở xã hội
cũng là một phần không thể tách rời của những kỹ năng công tác xã hội.

Năm 1937, Gordon Hamilton đã công bố một báo cáo về cách tiếp cận chẩn đoán và chủ
yếu là dựa vào lý thuyết của Freud trong tìm hiểu các vấn đề trong những mối quan hệ
tương tác giữa các cá nhân. Báo cáo chẩn đoán này thường mang tính diễn giải và dự
kiến. Nó có thể bao gồm cách thức giải quyết những sự khiếm khuyết/ thiếu hụt bằng
các nguồn lực xã hội, bằng việc sửa đổi chương trình, điều chỉnh nguồn lực cũng như
việc tư vấn hoặc điều trị.

Những nhân vật hàng đầu đã có nhiều đóng góp vào sự phát triển của trường phái tư
tưởng tâm lý xã hội bao gồm Richmond, Charlotte Towle, Annette Garrett và một số
người khác. Cách tiếp cận tâm lý xã hội là xem xét các cá nhân trong hoàn cảnh của họ,
tức là, xem xét các cá nhân trong sự tương tác với những người khác trong các gia đình,
cộng đồng, nhà thờ, trường học và các hồn cảnh xã hội khác. Phương pháp này cố
gắng huy động nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài của khách hàng (thân chủ) để

13 Maria Lyre del Castillo (August 2011): Lecture Slides for Social Work with Individuals: Historical
Background of Case Work in US, University of Philippines

10

giúp họ thực hiện những chức năng của cá nhân và tương tác với người khác có hiệu
quả hơn. Các hoạt động giúp đỡ khách hàng (thân chủ) trong giai đoạn này đã có những
thay đổi đáng kể và đã có sự chuyển hướng từ việc chỉ tập trung vào giải quyết các vấn

đề của từng khách hàng sang việc mở rộng các hoạt động giải quyết vấn đề bao gồm
ln cả các thành viên trong gia đình, giúp đỡ các thành viên này thay đổi hoặc điều
chỉnh hành vi hoặc lối sống của họ. Công tác xã hội với gia đình được phát triển và
được cơng nhận từ giai đoạn này và gia đình đã bắt đầu được các nhân viên xã hội xem
xét đến như là một hệ thống khách hàng (thân chủ) 14.

1945-1960

Trong thời kỳ này, nhóm khách hàng (thân chủ) của công tác xã hội không cịn giới hạn
trong những người nghèo nữa mà cịn có cả những người thuộc tầng lớp trung lưu đang
gặp các vấn đề rắc rối trong gia đình hoặc trong việc tự điều chỉnh bản thân. Chính
trong giai đoạn này, những vấn đề liên quan đến sự thực hiện chức năng xã hội đã trở
thành mối quan tâm chính của cơng tác xã hội.

Thời kỳ này ngành công tác xã hội cũng chứng khiến những sự thay đổi trong các vấn
đề mà cá nhân gặp phải. Trước đây, các vấn đề của khách hàng thường là những vấn đề
liên quan đến kinh tế, thu nhập và những vấn đề liên quan đến các lĩnh vực xã hội học,
tuy nhiên trong giai đoạn này các sự kiện của Chiến tranh Thế giới lần thứ II đã làm gia
tăng các vấn đề cá nhân, vì vậy hoạt động CTXH đã tập trung vào các dịch vụ dành cho
các cá nhân có vấn đề về nhân cách, và do đó đã làm tăng nhu cầu về nhân viên CTXH
được đào tạo chuyên nghiệp về tâm thần học và y khoa15.

Năm 1957, Felix Bestek đã viết cuốn sách “Mối quan hệ trong CTXH cá nhân” trong
đó ơng định nghĩa mối quan hệ CTXH cá nhân là “sự tương tác năng động giữa thái độ
và cảm xúc của các nhân viên xã hội (người quản lý ca) và khách hàng (thân chủ) để
đạt được sự thích nghi giữa các cá nhân đó với mơi trường sống của họ”. Ông cũng
xác định bảy nguyên tắc trong mối quan hệ nói trên.

Gần cuối thời kỳ này, Helen Harris Perlman đã phát hành cuốn “CTXH với cá nhân:
Quy trình giải quyết vấn đề”. Cuốn sách này đã đánh dấu sự kết thúc những cuộc tranh

luận giữa hai cách tiếp cận chẩn đốn - chức năng, bởi vì các khái niệm quan trọng của
cả hai cách tiếp cận đã hợp nhất vào quá trình giải quyết vấn đề. Trong phương pháp
tiếp cận này, các yếu tố chính của CTXH với cá nhân là: một cá nhân có vấn đề tìm đến
một địa điểm mà ở đó có người đại diện giúp họ thơng qua một q trình trợ giúp.
Perlman đã sử dụng thuật ngữ chẩn đoán đồng nghĩa với việc đánh giá. Quá trình này
được xem như là cách suy nghĩ mới về việc giải quyết vấn đề bằng cách xem xét vấn đề
một cách xuyên suốt từ những nguồn lực tương tác bên trong những tình huống vấn đề
của khách hàng; mối quan hệ chuyên nghiệp được xem là một yếu tố quan trọng trong
quá trình này và khái niệm về vấn đề rắc rối, đã chuyển từ khái niệm bệnh lý sang khái
niệm là một phần của những sự kiện rất bình thường trong cuộc sống.

1961-1975

14 Janzen, Curtis và Harris, Oliver” (1980) Family Treatment in Social Work Practice, F.E. Peacock
Publishers, Inc., Itasca, Illinois 60143 (p.3)
15 Maria Lyre del Castillo (August 2011): Lecture Slides for Social Work with Individuals: Historical
Background of Case Work in US, University of Philippines

11

Trong giai đoạn này, lý thuyết CTXH tập trung vào việc tiếp tục phát triển các phương
pháp truyền thống, phát triển các cách tiếp cận tổng quát hoặc tích hợp và các cách tiếp
cận mới trong thực hành và phát triển trong thực hành để sử dụng trong các dịch vụ hỗ
trợ cho các nhóm khách hàng (thân chủ) cụ thể như phân tích sự cách giải quyết vấn đề,
sự điều chỉnh hành vi, sự trị liệu thực tế, sự giải quyết khủng hoảng và cách làm việc
với các cá nhân thông qua cách giao nhiệm vụ. Trong những năm 1960, cả hai cách tiếp
cận chẩn đoán (giờ đây được gọi là cách tiếp cận tâm lý xã hội bởi Florence Hollis) và
cách tiếp cận chức năng đã được tiếp tục mở rộng và cập nhật. Các hệ thống xã hội và lý
thuyết giao tiếp đã được áp dụng trong thực hành công tác xã hội.


Trong những năm 1970, các phương pháp tích hợp hoặc thực hành tổng quát được phát
triển cho một nghề nghiệp công tác xã hội đồng nhất và để đáp ứng các vấn đề / nhu cầu
phức tạp của khách hàng (thân chủ). Các tác giả sau đây đã có những đóng góp vào sự
phát triển của thực hành tổng quát: 1) Carol Meyer với cuốn sách “Thực hành Công
tác Xã hội, Sự phản ứng trước khủng hoảng đơ thị”: Bà đã coi q trình chẩn đốn là
một cơng cụ đánh giá và can thiệp, có nhiều khả năng được biết đến như là hành động
can thiệp. 2) Harriet Bartlett và cuốn sách “Cơ sở chung của thực hành công tác xã
hội”, cùng với những nỗ lực của Hamilton bà đã đưa ra một khuôn khổ thống nhất về
khái niệm (bao gồm mục đích, các giá trị, sự thừa nhận, kiến thức và các kỹ năng thông
thường) để giúp phát triển những quan điểm tổng quát về công tác xã hội.3) Allen
Pincus vào Anne Minahan với cuốn “Thực hành cơng tác xã hội: Mơ hình và phương
pháp” coi công tác xã hội như là phương pháp tạo sự thay đổi theo kế hoạch với kế
hoạch can thiệp giúp đỡ được xây dựng trên cơ sở đánh giá vấn đề.

1976-1990

Trong thời kỳ này, khách hàng (thân chủ) có thể là bất kỳ cá nhân hoặc gia đình nào cần
được giúp đỡ trong việc thực hiện chức năng xã hội. Khách hàng (thân chủ) tham gia
trong các bước giải quyết vấn đề: từ đánh giá , đến xác định và lựa chọn giải pháp hỗ
trợ. Việc đào tạo về CTXH trong thời gian này đã quan tâm đến các vai trò khác nhau
của những nhân viên CTXH được đào tạo ở cấp Cử nhân và cấp Thạc sỹ, đào tạo theo
các chuyên ngành tại thời điểm tốt nghiệp, và xây dựng các khái niệm để phục vụ cho
sự thực hành CTXH tổng quát. Đây cũng là thời kỳ mà ngành CTXH đang gặp phải
nhiều thách đố thức với những vấn đề xã hội như tình trạng vơ gia cư, AIDS, lạm dụng
các chất gây nghiện, hịa bình và công lý cũng như các vấn đề phân biệt đối xử trong xã
hội, phụ nữ và các nhóm dân tộc thiểu số.

Sau đây là một số các khái niệm chính được sử dụng trong q trình giúp đỡ của cơng
tác xã hội:


1) Đánh giá, được coi như là một quá trình phát triển sự hiểu biết về cá nhân
con người trong hoàn cảnh/ môi trường làm cơ sở cho kế hoạch trợ giúp;
2) Con người-trong hồn cảnh/ mơi trường: sử dụng các mạng lưới hỗ trợ xã
hội như là một phần của quá trình giúp đỡ và của cách tiếp cận hệ thống xã hội.
3) Mối quan hệ: mà thơng qua đó có thể xác định các mối quan hệ với các hệ
thống xã hội quan trọng và với những người có ảnh hưởng trong các hệ thống
đó.
4) Quá trình đề cập đến các bước giải quyết vấn đề theo định kỳ để tạo sự thay
đổi theo thời gian.

12

5) Hoạt động giúp đỡ khơng phải chỉ có một giải pháp can thiệp duy nhất, mà
nên sử dụng giải pháp nào có thể phù hợp với mọi tình huống.

13

CHƯƠNG II: MỘT SỐ ĐỊNH NGHĨA VÀ KHÁI NIỆM LIÊN
QUAN ĐẾN CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI CÁC CÁ NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH

1. Các định nghĩa và khái niệm

Do đặc điểm lịch sử của ngành cơng tác xã hội là có nguồn gốc xuất phát từ các hoạt
động từ thiện ở Anh và Mỹ và dần dần được tổ chức khoa học hơn, đào tạo chun mơn
có bài bản hơn để trở thành một nghề chuyên môn nghiệp, phần lớn các khái niệm, định
nghĩa, thuật ngữ và lý thuyết của ngành đều có nguồn gốc từ tiếng Anh và chịu nhiều
ảnh hưởng của văn hóa Anh-Mỹ. Phần sau đây sẽ đề cập đến là một số khái niệm liên
quan đến CTXH với cá nhân và gia đình.


CTXH với trường hợp (Social Casework): là phương pháp hoạt động CTXH để giúp
đỡ các trường hợp cụ thể. Các trường hợp đó có thể là các cá nhân riêng lẻ hoặc các gia
đình cần được giúp đỡ.

Từ thời kỳ sơ khai của ngành công tác xã hội, khái niệm CTXH với trường hợp (social
casework) được dùng để nói về phương pháp giúp đỡ khách hàng theo cách tiếp cận với
từng cá nhân riêng lẻ. Tùy theo các cách tiếp cận và giúp đỡ với các đối tượng khách
hàng khác nhau, các tác giả viết về CTXH với cá nhân và gia đình đã đưa ra nhiều cách
định nghĩa khác nhau về CTXH với trường hợp (đôi khi được một số người dịch là
CTXH với cá nhân). Sau đây là một vài định nghĩa được chọn lọc16 để giới thiệu đến
người học từ một số tác giả đã được áp dụng và có nhiều ảnh hưởng trong bối cảnh hoạt
động của CTXH ở Việt Nam

Mary Ellen RICHMOND (1915, 1917 và 1920): Các định nghĩa của Mary Richmond
theo từng thời điểm đã có thay đổi theo những kinh nghiệm mà bà và các đồng nghiệp
đã tích lũy từ quá trình hoạt động CTXH. Các yếu tố liên quan đến quan hệ xã hội và
môi trường xã hội đã được thêm vào trong định nghĩa về hoạt động này tương ứng với
những thay đổi và phát triển trong hoạt động CTXH theo thời gian.

- CTXH với trường hợp có thể được định nghĩa là nghệ thuật thực hiện những
công việc khác nhau với những con người khác nhau, cùng phối hợp với họ để
đạt đến việc làm cho bản thân họ và xã hội trở nên tốt đẹp hơn (Richmond,
1915)

- CTXH với trường hợp là một nghệ thuật nhằm đem đến một sự điều chỉnh để
thích nghi trong mối quan hệ xã hội của các cá nhân bao gồm, nam giới, phụ nữ
và trẻ em. (Richmond,1917), và

- CTXH với trường hợp có nghĩa là những q trình hoạt động giúp phát triển tính
cách cá nhân (nhân cách) thông qua việc điều chỉnh một cách có ý thức những

cá nhân có vấn đề trong quan hệ giữa từng cá nhân đó với những người xung
quanh và môi trường xã hội mà họ đang sống (Richmond, 1922).

16 Rengasamy, S. (2011): Social Case Work – Working with Individuals , Bài giảng.

14

Jessie TAFT (1920) đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn:

Công tác xã hội với trường hợp có nghĩa là sự hỗ trợ điều trị về mặt xã hội cho
một cá nhân gặp khó khăn trong việc điều chỉnh để thích nghi bao gồm những cố
gắng để hiểu về cá tính, hành vi và các quan hệ xã hội của người đó và để giúp
đỡ cho họ thực hiện việc điều chỉnh cá nhân và xã hội tốt hơn.

Bertha REYNOLDS (1935) cung cấp một định nghĩa khác:

CTXH với trường hợp là một hình thức CTXH giúp đỡ cá nhân khi người đó
gặp khó khăn trong việc tạo lập quan hệ với người trong gia đình của họ, với
những nhóm người chung quanh hoặc với cộng đồng của họ.

Florence HOLLIS (1956) giải thích:

CTXH với trường hợp là một phương pháp được các nhân viên xã hội thực hiện
để giúp các cá nhân tìm kiếm những giải pháp cho các vấn đề về việc thích nghi
với xã hội mà họ không thể nào tự giải quyết được một cách thỏa đáng bằng
những cố gắng tự thân của họ.

Gordon HAMILTON (1956) thì quan tâm đến sự tham gia của khách hàng và những
nguồn lực hỗ trợ:


Trong CTXH với trường hợp, khách hàng được khuyến khích tham gia vào việc
nghiên cứu về hoàn cảnh của họ, chia sẻ các kế hoạch, và thực hiện những cố
gắng tích cực để giải quyết những vấn đề của họ, bằng cách sử dụng những tiềm
lực của bản thân họ
, và những nguồn lực có sẵn và phù hợp trong cộng đồng.

Helen Harris PERLMAN (1957) là người có ảnh hưởng lớn nhất đối với CTXH hiện
nay, đưa ra định nghĩa như sau:

CTXH với trường hợp là một tiến trình được sử dụng bởi bất kỳ các cơ quan
phúc lợi của con người nào trong việc nhằm giúp đỡ các cá nhân đối phó với
một cách có hiệu quả hơn với các vấn đề mà họ gặp phải trong sự việc thực hiện
chức năng xã hội của họ.

Cho dù các định nghĩa này có những điểm khác nhau tùy theo cách nhìn của mỗi một
chun gia, chúng ta có thể thấy rõ được điểm chung của các định nghĩa này là như
sau17:

- CTXH với trường hợp cụ thể/ với cá nhân (hoặc Social Casework – hoặc Social
work with individuals) là một phương pháp giúp mọi người giải quyết vấn đề.
Đây là một cơng việc mang tính khoa học, nghệ thuật và hướng đến những cá
nhân/ hoặc trường hợp riêng biệt.

- Nó giúp các cá nhân đang gặp các vấn đề về bản thân cá nhân họ cũng như điều
chỉnh để thích nghi với những rắc rối bên ngồi và trong mơi trường xung
quanh.

17 Social Work Practice with Individuals: www.csub.edu/...

15


- Đây là một phương pháp giúp các cá nhân giải quyết vấn đề trong các mối quan
hệ giữa các cá nhân với môi trường sống và những người xung quanh họ, thông
qua một mối quan hệ mà có thể giúp tận dụng các nguồn tài nguyên từ cá nhân
và các nguồn khác để đối phó với những vấn đề rắc rối.

- Đây là một quá trình kết hợp các phương diện sinh lý –tâm lý- xã hội.
- Những công cụ chính trong hoạt động CTXH với cá nhân là phỏng vấn và đánh

giá.

Khái niệm CTXH với trường hợp sau đó đã được mở rộng để bao gồm luôn cả
trường hợp của các gia đình gặp khó khăn và cần sự giúp đỡ. Các gia đình được
xem xét với tư cách là một hệ thống khách hàng. Phương pháp CTXH với các gia
đình cũng áp dụng những lý thuyết tương tự như với việc giúp đỡ các cá nhân, mặc dù
có đơi chút khác biệt nhưng không đáng kể. Sự khác nhau giữa CTXH với cá nhân và
với gia đình trong định nghĩa của các hoạt động đã được Pearson18 làm rõ như sau:

2. CTXH với các cá nhân

Tùy theo bối cảnh, nhiều nhân viên xã hội cung cấp dịch vụ chủ yếu là phục vụ cho các
cá nhân con người. Các nhân viên xã hội làm việc với các cá nhân có thể cung cấp các
dịch vụ quản lý trường hợp, trị liệu tâm lý, và bênh vực/ bảo vệ - thông thường là kết
hợp cả ba dịch vụ.

CTXH với các cá nhân trong lịch sử được đề cập đến như là làm việc với “trường hợp
cụ thể” hoặc là “CTXH với trường hợp cụ thể”.

CTXH với trường hợp cụ thể, theo định nghĩa của nó, là bao gồm việc sử dụng kiến
thức CTXH, các giá trị, và các kỹ năng trong các mối quan hệ trực diện (face-to-face

relationship) để giúp giải quyết hoặc giảm thiểu những khó khăn “phát sinh so sự mất
cân bằng giữa con người và môi trường của họ”. Q trình hỗ trợ này gồm có việc giúp
cho con người điều chỉnh cho phù hợp với môi trường của họ, cũng như hỗ trợ trong
việc thay đổi các yếu tố trong môi trường của từng cá nhân. CTXH với các cá nhân là
công việc giúp đỡ được thực hiện với những con người đang gặp phải những vấn đề
thực tế cụ thể, những thiếu hụt và áp lực của mơi trường, và những sự khó khăn trong
tương tác với người khác và trong chính bản thân họ.

3. CTXH với các gia đình

CTXH với gia đình trở nên là một lĩnh vực nổi bật trong thực hành CTXH trong thời
gian cuối của thập kỷ 50 và thời gian đầu của thập kỷ 60 của thế kỷ trước. Các nhân
viên xã hội làm việc với các gia đình giúp cho các thành viên của gia đình cải thiện
những cách thức tương tác với nhau để đáp ứng các nhu cầu của mọi thành viên trong
gia đình. Nói theo cách khác, các nhân viên xã hội hoạt động để giúp cho các gia đình
có vấn đề về hành vi, tình cảm, và tương tác với nhau.

Quá trình giúp đỡ thường được xem là một cách giải quyết vấn đề trong bối cảnh của
một hệ thống – hệ thống trong trường hợp này chính là gia đình. Theo thời gian, trong
nội bộ các gia đình có thể phát triển những sự liên minh hoặc liên kết khơng bình

18 Social Work as a profession: />
16

thường bên trong hệ thống gia đình. Những nhân viên xã hội, đôi khi là những người
được các cơ sở xã hội thuê làm việc như là những “người trị liệu gia đình” (hoặc
“người xử lý các vấn đề gia đình”), sẽ giúp các gia đình thay đổi những cấu trúc gia
đình có vấn đề. Những cơng việc này sẽ khơng những đem lại những sự chuyến biến
tích cực cho gia đình mà cịn đem lại những thay đổi tích cực trong các thành viên của
gia đình.

Những nhân viên xã hội làm việc với các gia đình đã học hỏi được từ các lý thuyết về
cách các gia đình vận hành như thế nào và làm sao để thay đổi các gia đình. Để làm
được điều đó, các nhân viên xã hội phải sử dụng nhiều kỹ thuật và thực hiện nhiều vai
trò khác nhau. Một số người sẽ tập trung vào những mối quan hệ cụ thể như những quan
hệ giữa cha mẹ và con cái, hoặc cũng có thể mở rộng phạm vi tiếp cận ra tới những
thành viên trong gia đình mở rộng.
Đơi lúc nhân viên xã hội có thể quay phim video về những tương tác giữa các thành
viên trong gia đình trong quá trình trị liệu/ xử lý vấn đề. Cũng có thể họ sẽ áp dụng
phương pháp phản chiếu theo một chiều để cho các thành viên trong cũng một gia đình
có thể quan sát những phương thức tương tác trong gia đình. Ngồi ra, việc sắm vai
cũng có thể được áp dụng với các gia đình khi muốn các thành viên diễn lại tình huống
trước khi có mâu thuẫn. Nhiều khi, một người trị liệu (người xử lý) cũng phải thực hiện
công việc tạo ra những khn mẫu ứng xử có hiệu quả hơn khi giải quyết mâu thuẫn
cho các gia đình.

17

CHƯƠNG III: MỤC ĐÍCH VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CTXH VỚI
CÁC CÁ NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

1. Mục đích của thực hành CTXH với cá nhân và gia đình

Căn cứ vào cách định nghĩa nêu trên về CTXH với các cá nhân và gia đình, chúng ta có
thể thấy được rằng đó là những phương pháp can thiệp CTXH đầu tiên do các nhà tiên
phong về CTXH phát triển nên nhằm các mục đích như sau:

- Giúp cho các cá nhân và gia đình ngăn ngừa hoặc cải thiện những vấn đề khó
khăn của họ. Những khó khăn này có thể do họ khơng thể tự thích nghi được với
những thay đổi trong môi trường sống của họ hoặc trong quan hệ của họ với môi
trường xã hội xung quanh. Do vậy việc ngăn ngừa hoặc cải thiện những vấn đề

khó khăn có nghĩa là nhân viên xã hội phải xem xét kỹ đến các nguyên nhân
chính gây ra những khó khăn đó, các nguyên nhân liên quan mà có thể gây ra
những mâu thuẫn hoặc phá vỡ những mối quan hệ xã hội đang lành mạnh đang
có để có hướng giải quyết phù hợp.

- Giúp cho các cá nhân và các gia đình xác định và giải quyết các vấn đề trong
mối quan hệ của họ hoặc giúp giảm thiểu các tác động tiêu cực đến cuộc sống
hoặc đến những mối quan hệ xã hội của họ với môi trường xung quanh bằng
cách tự điều chỉnh những suy nghĩ của bản thân họ và những hành vi ứng xử của
họ sao cho thích nghi với môi trường.

- Giúp cho các cá nhân và các gia đình trở nên mạnh mẽ hơn, thông qua việc hỗ
trợ họ xác định và phát huy được những tiềm năng của cá nhân, của gia đình và
tận dụng được những nguồn lực hỗ trợ từ các nhóm phù hợp và từ cộng đồng để
phát triển cuộc sống của họ và giải quyết những khó khăn của họ một cách bền
vững.

2. Những đặc điểm của thực hành CTXH với các cá nhân và gia
đình

CTXH với các cá nhân và gia đình là một trong những phần chính của một phương
pháp tiếp cận tổng quát để thực hành CTXH hay còn được gọi là phương pháp thực
hành CTXH tổng quát. Theo các định nghĩa đã nêu trên, chúng ta có thể thấy được hoạt
động CTXH với các cá nhân và gia đình có những đặc điểm chính như sau:

- Tập trung vào xem xét các khả năng của cá nhân và gia đình trong việc xử lý
thích đáng tình huống cá nhân của họ do tác động bởi nhiều nhân tố về tâm lý,
gia đình, và xã hội trong mơi trường sống của họ. Cơng việc này địi hỏi phải có
sự đánh giá cẩn thận về các khía cạnh tâm lý-sinh lý- và các quan hệ xã hội,
quan hệ tinh thần của các khách hàng là cá nhân và các thành viên trong gia

đình.

- Tập trung chủ yếu vào sự điều chỉnh, sự cải thiện cách thức mà những ngoại lực,
mâu thuẫn của môi trường xung quanh đang tương tác với những cảm xúc, hành

18

vi của các cá nhân hoặc các thành viên của gia đình, mà có thể dẫn đến kết quả
có thể là giúp tăng cường hoặc làm giảm khả năng thực hiện chức năng xã hội
của các cá nhân hoặc của các gia đình. Những sự điều chỉnh này là nhằm vào
việc giúp cho khách hàng (cá nhân và gia đình) tự điều chỉnh để thích nghi tốt
hơn với môi trường xung quanh và cũng để phát huy sự thực hiện các vai trò và
chức năng xã hội của khách hàng được tốt hơn và theo hướng tich cực hơn.

- Tập trung vào cấu trúc về con người-trong-tình huống hay cịn gọi là con
người–trong-môi trường. Đây là cách làm việc hướng đến gia đình. Các vấn đề
của một cá nhân có thể là do những mâu thuẫn hoặc do khả năng thích nghi kém
giữa các cá nhân và các gia đình đối với mơi trường xung quanh họ. Những thay
đổi trong điều kiện sống và sinh hoạt do sự phát triển của xã hội (bao gồm cả sự
phát triển về kinh tế, thay đổi về chính trị, ….) cũng tạo ra những áp lực đối với
các cá nhân và gia đình và khiến họ trở nên kém thích nghi. Tập trung vào cấu
trúc con người trong tình huống sẽ giúp cho nhân viên xã hội đánh giá được
những tác động từ bên ngoài xã hội ảnh hưởng đến hành vi hoặc sự thực hiện
chức năng xã hội của các cá nhân và gia đình. Về bản chất đó là là một q trình
tổng hợp của nhiều phương pháp, kỹ năng và các lý thuyết CTXH trong quá
trình giúp khách hàng giải quyết vấn đề của họ và để tạo ra những thay đổi trong
môi trường theo hướng có lợi cho khả năng thích nghi của khách hàng.

- Tập trung vào việc tìm cách cải thiện năng lực của hệ thống khách hàng (các cá
nhân và gia đình) nhằm giúp đỡ họ cải thiện cuộc sống và tự vươn lên để vượt ra

khỏi những tình huống khó khăn mà có thể xảy ra xung quanh họ hoặc có tác
động trực tiếp đối với họ. Trọng tâm chính của CTXH với các cá nhân và gia
đình là giúp cho khách hàng tự giúp mình.

- Các phương pháp hỗ trợ truyền thống (hỗ trợ vật chất, tài chính, vv…) thường
được kết hợp sử dụng trong quá trình thực hành khi người nhân viên CTXH làm
việc với các cá nhân và gia đình để giúp khách hàng giải quyết những nhu cầu
và những vấn đề cơ bản và cùng với khách hàng đặt ra các mục tiêu và kế hoạch
để giải quyết vấn đề của họ và huy động những sự nỗ lực hỗ trợ của gia đình hay
của cộng đồng.

3. Các nguyên tắc và ý nghĩa của CTXH với các cá nhân và gia
đình

3.1. Các giá trị và ý nghĩa của chúng trong CTXH với các cá nhân và
gia đình

CTXH xem bốn giá trị nghề nghiệp sau đây là quan trọng và cần được lưu ý trong quá
trình giúp đỡ khách hàng:

 Thừa nhận những giá trị có sẵn và tầm quan trọng của cá nhân cũng như
có sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các cá nhân và xã hội:
Ý nghĩa của giá trị này là các giá trị nhân cách hoặc vấn đề của khách hàng có
thể được hình thành hoặc bị thay đổi từ những tác động của môi trường xã hội.
Do vậy, các hệ thống khách hàng phải được đặt trong những mối quan hệ tương

19

tác với các hệ thống xã hội khác trong quá trình phân tích, đánh giá và giải quyết
vấn đề.


 Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tôn trọng phẩm giá của cá nhân và
những khả năng của họ trong việc thực hiện những quyết định quan trọng:
Ý nghĩa của giá trị này là cơng nhận rằng mỗi khách hàng có những phẩm giá và
những khả năng đáng để tôn trọng. Họ phải được tôn trọng hơn các đối tượng
mục tiêu hoặc các thực thể khác và xứng đáng được chăm sóc bởi vì họ là những
cá thể có giá trị và đáng được tôn trọng. Việc tôn trọng phẩm giá và năng lực
của khách hàng cũng có nghĩa là hoạt động CTXH phải hướng đến việc tạo cơ
hội cho khách hàng thể hiện được những cá tính, và phát triển những năng lực
của họ và phải hướng đến việc bảo vệ nhân phẩm của khách hàng.

 Công nhận sự tự quyết là một quyền cơ bản của cá nhân
Ý nghĩa về giá trị này là mỗi cá nhân khách hàng đều có khả năng để hướng dẫn
hành động của họ và có khả năng tiềm tàng trong việc xác định mục tiêu và tạo
lập những sự thành công cho bản thân của họ. Khách hàng sẽ tự quyết định liệu
họ có nên tham gia vào quá trình làm việc giải quyết vấn đề hay khơng. Sự tự
quyết được khẳng định, giải thích và thực hiện ngay từ lúc bắt đầu, trong quá
trình và vào thời điểm cuối của quá trình làm việc với các khách hàng. Những sự
áp đặt trong quá trình làm việc với khách hàng sẽ dẫn đến sự việc tước mất
quyền tự do lựa chọn và tự quyết của họ và có thể phá vỡ mối quan hệ giữa nhân
viên xã hội với khách hàng cũng như có thể làm suy giảm hiêu quả giải quyết
vấn đề của khách hàng và những sự thực hiện chức năng xã hội của họ.

 Cơng nhận tính độc đáo của khách hàng:
Chính niềm tin vào tính độc đáo của cá nhân và cá tính của họ đã đem lại một
phương pháp tiếp cận mới cho CTXH với các trường hợp cá nhân. Đó là việc
chấp nhận và xem sự khác biệt là những giá trị đáng quý trọng và có ý nghĩa. Ý
nghĩa về giá trị này là chính sự khác biệt và tính độc đáo này của khách hàng sẽ
tạo ra những thế mạnh cho họ trong việc thực hiện các vai trò và chức năng xã
hội cũng như qua việc thể hiện sự khẳng định về bản thân họ trong các mối quan

hệ xã hội.

3.2. Những nguyên tắc thực hành trong CTXH với các cá nhân và
gia đình

Để bảo đảm việc tơn trọng các giá trị nghề nghiệp của CTXH nói trên, một bộ nguyên
tắc ứng xử đã được xây dựng lên để hướng dẫn việc thực hành CTXH cho các nhân viên
xã hội. Có nhiều nguyên tắc đã được đưa ra, tuy nhiên, 7 nguyên tắc sau đây được xem
là quan trọng nhất mà mỗi một nhân viên xã hội cần phải tuân thủ và thực hiện.

(1)- Chấp nhận khách hàng (thân chủ)

Khách hàng phải được chấp nhận với mọi phẩm chất tốt và xấu, những điểm
mạnh và yếu mà khơng có sự phán xét đến các hành vi của họ là đúng hay sai,
hoặc khơng có một điều kiện nào cả. Điều này thể hiện sự tôn trọng những giá
trị bản thân của các nhân khách hàng bất kể địa vị xã hội, thành phần xuất thân
hoặc hành vi của họ là như thế nào. Tuy nhiên, việc chấp nhận khách hàng

20


×