Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Tiểu luận học phần lịch sử nhà nước và pháp luật cải cách chính quyền địa phương của hoàng đế lêthánh tông thế xv

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.16 KB, 13 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG - XÃ HỘI

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ TRƯỚC CẢI CÁCH CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG CỦA VUA LÊ THÁNH TÔNG THẾ KỈ XV VÀ MỘT VÀI NÉT TIÊU BIỂU VỀ CON NGƯỜI LÊ THÁNH TÔNG...</b>

1.1.Bối cảnh lịch sử trước cải cách chính quyền địa phương của vua Lê Thánh Tông thế kỉ XV...

1.2.Một vài nét tiêu biểu về con người Lê Thánh Tông...

<b>CHƯƠNG 2: CẢI CÁCH CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNGTHỜI VUA LÊ THÁNH TƠNG THẾ KỈ XV...</b>

2.1. Cấp đạo – xứ...

2.2. Cấp phủ...

2.3. Cấp huyện – châu...

2.4. Cấp xã...

<b>CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ VỀ CẢI CÁCH CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG THỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>LỜI NÓI MỞ ĐẦULý do chọn đề tài</b>

Nhiều năm trở lại đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nước ta đã và đang tiến hành sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm mục đích sớm đưa nước ta trở thành một nước cơng nghiệp hiện đại, có nền kinh tế phát triển cao và bền vững… Để đạt được mục tiêu ấy, chúng ta cần phát triển và hoàn thiện từng bộ phận trong bộ máy nhà nước.

Một trong những vấn đề then chốt của mọi chế độ chính trị trong lịch sử là vấn đề tổ chức hành chính quốc gia. Xã hội ln ln vận động, vì vậy, nền hành chính cũng phải ln ln có sự điều chỉnh, cách tân để đáp ứng sự biến đổi của xã hội. Do đó, trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, cùng với sự biến đổi của thể chế chính trị - xã hội, thường dẫn đến những cải cách từng phần hoặc toàn diện nền hành chính trên phạm vi tồn quốc.

Năm 1460, Bình nguyên vương Lê Tư Thành lên ngôi vua, tức Lê Thánh Tông. Với mong muốn khẳng định một thời thịnh trị của triều đại mình, Lê Thánh Tơng đã dựa vào những điều kiện mới của đất nước để tiến hành hàng loạt chính sách lớn, quan trọng về kinh tế, xã hội, quân sự và đặc biệt là thực hiện cuộc cải cách hành chính toàn diện từ trung ương xuống địa phương. Cuộc cải tổ bộ máy nhà nước của Lê Thánh Tông, nếu khơng nói là cuộc cải tổ đầu tiên thì cũng là cuộc cải tổ lớn nhất và thành công nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Cách tổ chức chính quyền hợp lý, hiệu quả của vua Lê Thánh Tông đã được xem như khuôn vàng thước ngọc, được các triều vua kế tiếp noi theo, duy trì suốt hơn ba trăm năm đến tận cuối thế kỉ XVIII.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>Mục đích nghiên cứu</b>

<i><b>Về mặt khoa học: Trên cơ sở những tư liệu lịch sử phục dựng bức tranh </b></i>

tồn cảnh về cơng cuộc cải cách chính quyền địa phương dưới triều vua Lê Thánh Tơng, qua đó làm rõ nguyên nhân dẫn đến cải cách, nội dung và kết quả của nó đối với xã hội nước ta nửa sau thế kỉ XV.

<i><b>Về mặt thực tiễn: Hiện nay, vấn đề cải cách nền hành chính quốc gia đang </b></i>

được đặt ra rất cấp thiết. Khảo sát và đánh giá một cách hệ thống công cuộc cải cách chính quyền địa phương dưới triều Lê Thánh Tơng không chỉ là đáp ứng nhu cầu hiểu biết mà cũng giúp chúng ta tìm hiểu để kế thừa, phát huy và phát triển những kinh nghiệm của quá khứ để phục vụ cho sự

nghiệp xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.

<b>Kết cấu đề tài</b>

Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung đề tài gồm 3 chương sau:

<i><b>Chương 1: Bối cảnh lịch sử trước cải cách chính quyền địa phương của </b></i>

vua Lê Thánh Tơng thế kỉ XV và một vài nét tiêu biểu về con người Lê

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ TRƯỚC CẢI CÁCHCHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG CỦA VUA LÊ THÁNHTÔNG THẾ KỈ XV VÀ MỘT VÀI NÉT TIÊU BIỂU VỀCON NGƯỜI LÊ THÁNH TÔNG</b>

<b>1.1. Bối cảnh lịch sử trước cải cách chính quyền địa phương của vua Lê Thánh Tơng thế kỉ XV</b>

Để tìm hiểu về cải cách chính quyền địa phương của vua Lê Thánh Tông thế kỉ XV một cách tường tận, chúng ta cần xem xét đến bối cảnh của cuộc cải cách. Qua đó mới nhìn nhận được hết các khía cạnh của nó.

Ở địa phương, đất nước rộng lớn đã thống nhất, nhưng Lê Thái Tổ mới chia làm ba đạo, rồi Lê Thái Tông chia làm 5 đạo. Lê Thái Tổ đã xác định xã là cấp cơ sở và đặt xã quan. Nhưng các cấp trung gian lại còn quá nhiều và hỗn độn như: Phủ, huyện, lỵ, trấn… ở thời Lê Thái Tổ. Đến thời Lê Thái Tông lại vẫn thấy: Phủ, lộ, trấn, huyện…

Thiết chế chính trị như trên rõ ràng chưa chặt chẽ, chưa hồn chỉnh, mang tính phân tán. Nhược điểm này đã bộc lộ ngay từ nửa sau thế kỷ XIV và từ đó đã đặt ra yêu cầu cải cách. Giờ đây, trong hoàn cảnh mới nhưng vẫn duy trì thiết chế chính trị đó rõ ràng khơng cịn phù hợp với u cầu phát triển của đất nước, của xu thế thời đại. Yêu cầu đặt ra cần thiết lập một bộ máy hành chính mới phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước.

Mặt khác, sau khi Lê Thái Tổ qua đời, các vua kế vị thường cịn ít tuổi (10 tuổi và 2 tuổi). Mọi việc quyết đốn trong triều đình đều nằm trong

<i>tay các đại thần. Nhưng mặc dù đã có với nhau gần 10 năm “nằm gai nếm </i>

<i>mật”, họ vẫn khơng thốt khỏi sự đố kị khi trở thành người nắm giữ vận </i>

<i>mệnh quốc gia. Hàng loạt “cơng thần khai quốc” như: Nguyễn Trói, Lưu </i>

Nhân Chú, Lê Sát, Lê Ngõn… lần lượt bị giết. Tình trạng quan lại lộng quyền, tham nhũng, ăn chơi sa đoạ khá phổ biến, đến nỗi Lê Thái Tông

<i>phải ra lệnh chỉ, nêu: “Nay các khanh khơng kính giữ phép công, người </i>

<i>giữ tiền bạc, sổ sách nhà nước thì chậm trễ hoặc gây khó dễ. Thuế đáng thu hay đáng miễn thì khơng chịu phê tâu dứt khốt để làm khổ dân. Người</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i>coi quan thì khơng thương dân đau khổ, mượn đồ của dân vứt bỏ bừa bãi đến nỗi hỏng, mất, đến khi có việc lại đến hạch sách. Cịn kẻ coi dân thì chỉvụ lợi riêng, khơng lo ni dưỡng dân, hoặc tha cho người giàu, bắt tội người nghèo mua gỗ làm nhà làm cửa, xử kiện không công bằng, chỉgây bèphái, lo hối lộ…”. Ngay trong bản Trung hưng kí, được viết sau khi Lê </i>

<i>Thánh Tông lên ngôi cũng cho thấy tình hình rối ren giai đoạn này: “Nhân </i>

<i>Tông mới lên hai tuổi, sớm lên ngôi vua, kẻ thân yêu giữ việc tự hối lộ công hành… phường dốt đặc nổi dậy như ong…Văn giai như Đào Công Soạn tuổi gần 80, tế thần như Lê Ê không biết một chữ. Người trẻ không biết nghĩ, tự ý làm càn; người già không chết đi, thành ra tai hại. Bán quan, mua ngục, ưa giàu, ghét nghốo…kẻ xiểm nịnh được nghe theo, bọn dạn sát thì được bổ dụng”.</i>

Thực trạng đó cũng làm cho nhà nước tập quyền thêm suy yếu. Để xây dựng một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền mạnh, đòi hỏi phải chấn chỉnh lại kỉ cương phép nước, phải cải cách cả thiết chế chính trị, cả về cơ chế vận hành của bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương, khắc phục tình trạng bất cập giữa tập trung và phân tán. Tình hình trên đặt ra yêu cầu cần tiến hành một công cuộc cải cách, đặc biệt là mặt hành chính nhằm chấn chỉnh bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng một nhà nước tập quyền có đủ khả năng ổn định lại tình hình, đưa đất nước phát triển đi lên. Lê Thánh Tông - Vị vua hiền trong triều đại nhà Lê lên ngôi đã đảm đương công việc này.

<b>1.2. Một vài nét tiêu biểu về con người Lê Thánh Tông.</b>

Lê Thánh Tông – Tên húy là Tư Thành, lại húy là Hạo, là con thứ tư của Thái Tơng. Ơng sinh vào giờ Sửu, ngày Mậu Tí, ngày hai mươi tháng bảy năm Nhâm Tuất (1442). Mẹ ơng là Quang Thục Hồng thái hậu Ngơ thị, người làng Động Bàng, huyện Yên Định, phủ Thanh Hóa. Theo Đại

<i>việt sử kí tồn thư: “Khi còn là Tiệp Dư, thái hậu đi cầu tự, mơ thấy hồng</i>

<i>đế ban cho một tiên đồng, thế rồi có thai… Vua sinh ra thiên tự tuyệt đẹp, </i>

5

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i>thần sắc khác thường, vẻ người tuấn tú, nhân hậu, rạng rỡ, nghiêm trang, thực là bậc thông minh xứng đáng làm vua, bậc trí dung đủ để giữ nước”.</i>

Đến khoảng năm Diên Ninh (1459), Nghi Dân tiếm ngôi, giết chết vua Nhân Tông và Tuyên từ thái hậu rồi tự lập làm vua. Nghi Dân ở ngôi 8 tháng nhưng đã bộc lộ bản chất thích chém giêt nên triều thần khơng phục. Bấy giờ các đại thần chiều đình là Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê Lăng cùng họp bàn lật đổ Nghi Dân, cùng nhau đem cấm binh đánh bọn Đồn – Ban, rồi phế Nghi Dân, đón Tư Thành lên ngôi vua. Bấy giờ vua 18 tuổi, vào nối đại thống, tự xưng Thiên Nam Động Chủ, niên hiệu Thánh Tông. Vua đổi niên hiệu hai lần: Quảng Thuận (1460 – 1469) và Hồng Đức (1470 – 1497). Lê Thánh Tông ở ngôi 38 năm, thọ 56 năm. Đối với hạng nguyên thủ quốc gia, 50 – 60 tuổi mới là tuổi đầy kinh nghiệm và sâu sắc. Nhưng ở Lê Thánh Tông, vào tuổi 20, con người này đã tỏ ra một bản lĩnh khác thường.

Trong suốt thời gian trị vị đất nước, Lê Thánh Tông đã sang lập chế độ, văn vật khả quan, mở mang đất đai, cõi bờ khá rộng, thực là bậc vua anh hùng tài lược, dẫu Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không thể hơn được. Chính vì vậy, ơng đã đưa triều Lê phát triển tới đỉnh cao về mọi mặt: chính trị, xã hội, kinh tế, quốc phịng, văn hóa.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>CHƯƠNG 2: CẢI CÁCH CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNGTHỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG THẾ KỈ XV</b>

Từ các tư liệu lịch sử đã có cho thấy, 1466 là năm mà cuộc cải tổ chính quyền địa phương được tiến hành ở quy mơ lớn và tồn diện. Có thể coi đây là mốc cơ bản của cuộc cải tổ, cịn các lần khác chỉ có một vài thay đổi mà thơi.

Trong cuộc cải tổ chính quyền địa phương, Lê Thánh Tông đã bỏ tên gọi đơn vị hành chính trấn và lộ; bỏ cấp hành chính trung gian châu. Qua cuộc cải tổ này, Đại Việt có những cấp chính quyền địa phương như: cấp đạo – xứ, cấp phủ, cấp huyện – châu, cấp xã.

<b>2.1. Cấp đạo – xứ</b>

<i>Thứ nhất, Lê Thánh Tông đã chia cả nước thành nhiều đạo nhỏ </i>

nhằm hạn chế tiềm lực và thế lực của những lực lượng phong kiến địa phương, ngăn ngừa sự cát cứ, chính quyền cấp đạo quản lí địa phương có

<i>hiệu lực và hiệu quả hơn, đồng thời, ông cũng không để quyền hành ở đạo </i>

<i>tập trung vào tay một người mà được tản ra cho ba cơ quan (được gọi là tam ti).</i>

<i>Từ năm 1471, tam ti được hình thành và bao gồm: Thừa ti, Đô ti và </i>

<i>Hiến ti.</i>

Thừa ti chính sứ với Hàm tịng tam phẩm, chức Phó Thừa ti sứ Hàm tong tứ phẩm.

phẩm, Phó tong binh Hàm tong tứ phẩm.

công việc trong đạo để tâu lên triều đình. Đứng đầu Hiến ti là Hiến sát Hàm chánh lục phẩm và Hiến sát Phó Hàm chánh thất phẩm.

7

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Chính bởi sự phân lập quyền hành ở địa phương như vậy, Lê Thánh Tông đã ngăn ngừa được khuynh hướng cát cứ và tăng cường quyền lực của trung ương.

<i>Thứ hai, ông tổ chức giám sát chặt chẽ ở cấp đạo bằng việc đặt 6 ti ngự </i>

sử tại các đạo ở Ngự sử đài nơi triều đình. Mỗi ti ngự sử đài giám sát hai hoặc ba đạo. Ti ngự sử không phải là cơ quan địa phương mà là cơ quan của ngự sử đài trung ương. Đứng đầu ti ngự sử là chức quan giám sát ngự sử mang hàm chánh thất phẩm.

Riêng Trung Đô phủ (phủ Phụng Thiên), quan đứng đầu phủ là phủ

<i>dỗn mang hàm chánh ngũ phẩm, chức phó là thiếu doãn với hàm chánh </i>

<i>lục phẩm. Như vậy, tuy phủ Trung Đơ là đơn vị hành chính trung ương </i>

tương đương cấp đạo nhưng có hình thức tổ chức chính quyền khác hẳn cấp đạo. Quan lại thời Lê Thánh Tông chỉ được tại chức đến năm 65 tuổi, bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các cơng thần, điều này cũng góp phần hạn chế quyền hành của các đại thần, tránh xa tình trạng cát cứ.

<b>2.2. Cấp phủ</b>

 Phủ là cấp hành chính dưới đạo. Đứng đầu phủ là tri phủ hàm tòng lục phẩm, chức phó là đồng tri phủ hàm chánh thất phẩm.

 Chức năng chủ yếu của quan lại ở cấp phủ là truyền lệnh từ trên xuống cho các huyện – châu, đốc thúc và kiểm tra việc thi hành, thu nộp thuế khóa, lao dịch và binh dịch.

 <i><b>Đặc biệt, ở cấp phủ có chức hà đê sứ và khuyến khích nơng sứ đều </b></i>

<i>hàm tịng cửu phẩm.</i>

<b>2.3. Cấp huyện – châu</b>

Dưới đạo là cấp huyện – châu, ở một số vùng núi huyện được gọi là châu, đứng đầu là tri huyện và tri châu, đều hàm tòng thất phẩm. Chức năng của các quan ở huyện châu, theo sắc dụ năm 1471 là “đi xét trong hạt, bờ biển, chỗ nào có thể làm ruộng được, các đê bồi ngòi cừ, chỗ nào có thể

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

đào đắp được, cùng là chỗ có giống hổ lang làm hại, có kẻ cường hào xui giục kiện tụng, phong tục điêu bạc, nhân dân đau khổ, hết thảy các việc tiện lợi nên làm, những mối tệ hại nên bỏ”.

Các quan phủ huyện, châu phải chăm nom đê điều và khuyến nông, đốc thúc dân bồi đắp ruộng chứa nước để làm mùa chiêm, không nên bỏ phứa chức trách của mình.

Riêng đối với các châu, để nắm và quản lí được những địa phương xa xơi này, chính sách của nhà Lê, về cơ bản cũng như các triều đại trước đây là tìm cách tranh thủ các tù trưởng địa phương. Các tù trưởng mang chức tước của triều đình tất nhiên phải phục tùng chính quyền trung ương về mặt chính trị và hang năm phải nộp một số phú công về mặt kinh tế. Tuy vậy, nhà Lê vẫn dành cho các tù trưởng những quyền hạn rộng lớn ở địa phương, được cai quản dân địa phương theo phong tục tập quán, xét xử theo tục lệ.

Cuối thời Hồng Đức, cả nước có 178 huyện và 50 châu, cộng tất cả có 228 huyện – châu.

<b>2.4. Cấp xã</b>

Xã là cấp hành chính cơ sở. Khơng chỉ điều chỉnh lại bộ máy ở Đạo,

<i>Lê Thánh Tông cịn phân định lại các làng xã. Ơng chia địa phương thành ba loại xã, gồm đại xã có từ 500 hộ trở lên, trung xã có từ 300 hộ trở lên và</i>

<i>tiểu xã có trên dưới 100 hộ. Các xã khơng phải cố định bất biến mà có sự </i>

tách lập xã cũ, xã mới nhằm đảm bảo sự hài hịa giữa làng và nước, có thể kiểm sốt nhưng vẫn tơn trọng sự tự trị của làng xã.

<i>Ngồi ra, Lê Thánh Tơng cịn bãi bỏ các xã quan và đổi là xã trưởng</i>

<i>do dân bầu ra. Trong hệ thống xã trưởng gồm có các chức nhỏ xã chính, xã sử và xã tư. Các xã trưởng được bầu theo các tiêu chuẩn do nhà vua đặt </i>

ra: nam giới từ 30 tuổi trở lên, biết chữ, có hạnh kiểm tốt, là con em nhà hiền lành, …Ơng cũng khơng cho phép anh em thân thích có hai người

9

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

cùng làm xã trưởng nhằm loại bỏ tệ nạn đồng đảng, bè cánh và thải loại những xã trưởng gian tham, già lão ốm yếu hoặc những người kém năng lực, không thể kham nổi công việc.

Bằng việc thay đổi hệ thống chính quyền ở xã, vua Lê Thánh Tơng đã hạn chế được tối đa chính quyền tự trị của làng xã, góp phần củng cố nền quân chủ quan liêu chuyên chế do ông đứng đầu.

<b>CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ VỀ CẢI CÁCH CHÍNH </b>

<b>QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG THỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG THẾ KỈ XV</b>

<b>3.1. Ý nghĩa</b>

Những biện pháp cải cách chính quyền địa phương thời vua Lê Thánh Tông được coi là những biện pháp tân tiến, hiện đại, thay đổi được rõ rệt sự thối nát, lạc hậu từ chính quyền địa phương cũ. Ơng đã thanh lọc một số chức quan, cơ quan và các cấp chính quyền trung gian nhằm bãi bỏ đi những thừa thãi, không cần thiết và yêu cầu các cơ quan nhà nước kiểm tra, giám sát lẫn nhau để hạn chế sự lạm quyền và nâng cao trách nhiệm.

Ngoài ra, để giúp cho người dân được bảo đảm quyền lợi thì Lê Thánh Tơng khơng để quyền lực tập trung quá nhiều vào một cơ quan, mà được tản ra nhằm loại bỏ sự tiềm quyền trong tiềm thức và hành động của quan liêu chính quyền địa phương.

<b>3.Ưu điểm và phần hạn chế</b>

<i>Về ưu điểm, thông qua những biện pháp cải tổ đối với chính quyền địa </i>

phương, Lê Thánh Tơng khơng chỉ tăng cường hiệu lực của chính quyền cấp cơ sở mà quan trọng hơn là tìm cách can thiệp sâu vào làng xã nhằm tăng cường sự chi phối của triều đình và hạn chế tối đa tính tự trị của làng xã, qua đó góp phần củng cố nền qn chủ chun chế. Nhìn chung, thơng qua cải cách, Lê Thánh Tông đã tạo được hệ thống hành chính thống nhất trong phạm vi cả nước. Hệ thống khá gọn gàng với chức trách phân minh,

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

bảo đảm sự chỉ đạo và tập trung quyền lực của trung ương. Đây là mơ hình tiên tiến nhất của chế độ quân chủ phong kiến đương thời, trong đó, trung ương và địa phương gắn liền nhau, quyềnlực được bảo đảm từ trên xuống dưới.

<i>Mặc dù đạt được nhiều thành tựu, song cuộc cải cách của Lê Thánh Tông vẫn gặp phải những hạn chế. Chính sách cải cách hành chính cấp xã của Lê</i>

Thánh Tơng trên thực tế đã khơng triệt tiêu được “sự tha hóa quyền lực” của bộ máy quản lý địa phương dẫn đến tình trạng hào nhũng nhiễu, tạo vấn đề nhức nhối trong xã hội. Mặt khác, do nhà nước trung ương khơng cịn nắm được bộ máy quản lý địa phương như trước nữa nên những biện pháp quản lý không phát huy tác dụng và hiệu quả.

<b>KẾT LUẬN</b>

Qua những biện pháp cải cách ở chính quyền địa phương thời vua Lê Thánh Tơng, ta có thể nhận định được rằng: Tuy cuộc cải cách này vẫn còn có những hạn chế nhất định, nhưng có thể nói đây là cuộc cải cách thành công nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, đem lại sự phát triển cho đất nước, đem lại cho người dân cuộc sống ấm no hạnh phúc. Những giá trị nổi bật và hạn chế của cả hai cuộc cả cách không chỉ ảnh hưởng, tác động đến nhiều lĩnh vực của chế độ phong kiến Việt Nam mà qua nghiên cứu nội dung cải cách bộ máy chính quyền địa phương của vua Lê Thánh Tông thế kỉ XV, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học kinh nghiệm nhằm khai thác, vận dụng một cách sáng tạo vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước hiện nay.

11

</div>

×