Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.68 MB, 53 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>BỘ NGOẠI GIAOHỌC VIỆN NGOẠI GIAO</b>
<b>ĐỀ TÀI: LÝ THUYẾT ĐĨNG KHUNG VÀ LIÊN HỆ ĐẾN CÁCH TRUYỀNTHƠNG MỸ ĐÓNG KHUNG CHIẾN TRANH IRAQ</b>
<b>Giảng viên hướng dẫn:ThS. Nguyễn Huyền TrangThS. Trần Bảo Châu</b>
<b>Sinh viên thực hiện: Trần Bảo Ngọc - LQT47A1-0338Lê Văn Nam - LQT47A1-0337Nguyễn Phương Thảo - LQT47A1-0351Vũ Minh Huệ - LQT47A1-0324</b>
<i>Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2022</i>
<b>MỤC LỤC</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><i><b>1.5.2. Khung mạnh (strong frames) và khung yếu (weak frames)...8</b></i>
<i><b>1.5.3. Khung chung (generic frames) và khung về các vấn đề cụ thể (specificframes)...9</b></i>
<b>1.6. Mối quan hệ giữa thuyết đóng khung và thuyết thiết lập chương trìnhnghị sự...11</b>
<b>Chương II. Cách truyền thơng nước Mỹ đóng khung chiến tranh Iraq...15</b>
<b>2.1. Khái quát chung về Chiến tranh Iraq năm 2003...15</b>
<i><b>2.1.1. Khởi nguồn của Chiến tranh Iraq...15</b></i>
<i><b>2.1.2. Cuộc xung đột năm 2003...17</b></i>
<i><b>2.1.3. Phản ứng của công chúng về cuộc giao tranh...19</b></i>
<b>2.2. Phân tích sự đóng khung của truyền thông nước Mỹ lên chiến tranhIraq...20</b>
<i><b>2.2.1. Cách các trang tin tức của nước Mỹ đưa tin về chiến tranh Iraq...20</b></i>
<i><b>2.2.2. Đóng khung bằng hình ảnh trong chiến tranh Iraq...27</b></i>
<i><b>2.2.3. Đóng khung về chiến tranh Iraq thơng qua phim điện ảnh...31</b></i>
<b>Chương III. Đánh giá sức ảnh hưởng của truyền thông đối với chiến tranhIraq...38</b>
<small>KẾẾT LU NẬ44</small>
<small>DANH M C TÀI LI U THAM KH OỤỆẢ46</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>MỞ ĐẦU</b>
Song hành cùng sự phát triển của xã hội và công nghệ, truyền thơng ngày càng giữ vai trị cốt yếu trong đời sống, gia tăng sức ảnh hưởng trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là chính trị và xã hội. Được coi là “quyền lực mềm” hay “quyền lực thứ tư” bên cạnh với ba nhánh quyền lực Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp, truyền thơng ngồi việc cung cấp thông tin, cập nhật cho công chúng về các sự kiện quốc tế mà cịn có vai trị định hướng quan điểm của dư luận về sự kiện. Chính lý do này mà truyền thông là một công cụ hữu hiệu để làm bùng lên hoặc cũng có thể làm dịu đi căng thẳng của một vấn đề tranh cãi nào đó.
Có thể thấy, khi nghiên cứu truyền thơng, dư luận xã hội là một trong những thành tố góp phần quan trọng vào việc đánh giá hiệu quả truyền thông. Bởi vậy, từ trước đến nay trong ngành truyền thông, các lý thuyết liên quan đến dư luận xã hội cũng như ý kiến của công chúng luôn được quan tâm hàng đầu. Một trong số những lý thuyết truyền thơng tiêu biểu có vai trị dẫn dắt, định hướng quan điểm dư luận đó là “Lý thuyết đóng khung”. Khái niệm “đóng khung” lần đầu tiên được thừa nhận bởi Gregory Bateson vào năm 1972. Đến năm 1974, Erving Goffman được cho là người đầu tiên hoàn thiện khái niệm này. Theo đó, lý thuyết đóng khung được hiểu là cách các phóng viên, biên tập viên lựa chọn những sự kiện nhất định hay những chi tiết cụ thể để đưa vào trong sản phẩm truyền thơng, từ đó thuyết phục, định hướng cho cơng chúng cách tiếp cận và đánh giá về đối tượng được đưa tin. Như vậy, thông tin được đưa tới công chúng ln được “lọc” qua lăng kính theo cách mà các đơn vị truyền thơng mong muốn.
Một ví dụ điển hình cho lý thuyết này đó là Chiến tranh Iraq năm 2003, hay còn được biết đến với cái tên “Chiến dịch tự do Iraq”. Vào ngày 20 tháng 3 năm 2003, liên minh do Hoa Kỳ đứng đầu đã khơi mào cuộc xung đột tại Iraq với mục tiêu giải giáp kho vũ khí hạt nhân mà được cho là Iraq đang sở hữu cũng như làm “suy giảm” chế độ độc tài Saddam Hussein. Hơn nữa, chính quyền George W.Bush cho rằng Tổng thống Iraq Saddam Hussein có mối liên hệ mật thiết với Al – Queda – thủ phạm của vụ tấn công 11/9 khiến cuộc can thiệp quân sự này là mục tiêu hàng
1
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">đầu của Hoa Kỳ. Sự kiện này ngay lập tức tạo ra nhiều luồng ý kiến trái chiều ở các nước trong khu vực và trên thế giới, đồng thời nhận được sự quan tâm đặc biệt của các hãng truyền thông lớn. Vậy, cụ thể truyền thông Mỹ đã nói những gì về sự kiện này thơng qua các phương tiện truyền thông? Những thông tin này có phản ánh chính xác diễn biến, tính chất của sự kiện hay không? Quan điểm của đơn vị báo chí về sự kiện này như thế nào? Vai trị, tác động của truyền thơng và báo chí đối với sự kiện này ra sao?
Với mục đích làm rõ các vấn đề trên để thấy được tương quan giữa truyền thơng với chính trị, cũng như vai trị của truyền thơng trong việc định hướng thơng tin, đóng khung sự kiện và dẫn dắt dư luận trong các sự kiện chính trị nói chung và
<i><b>Chiến tranh Iraq nói riêng, nhóm nghiên cứu quyết định lựa chọn đề tài “Lý thuyết</b></i>
<i><b>Đóng khung và liên hệ đến cách truyền thơng Mỹ đóng khung Chiến tranhIraq” cho bài tiểu luận cuối kỳ. </b></i>
2
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>NỘI DUNG</b>
<b>Chương I. Lý thuyết về thuyết đóng khung1.1. Lịch sử ra đời</b>
Thuật ngữ “khung” lần đầu tiên được sử dụng bởi Gregory Bateson vào năm 1955 trong một bài viết về tâm lý học tri giác. Ông đã chỉ ra rằng “khung” là một khái niệm liên quan tới tâm lý nhưng đề cập đến tầm quan trọng của các yếu tố ảnh hưởng tới cách xây dựng và định nghĩa chúng: “Bất kỳ thông điệp nào mà xác định rõ ràng hoặc ngầm định một khung, theo thực tế cung cấp cho người nhận các hướng dẫn hoặc sự hỗ trợ để hiểu các thông điệp được bao hàm trong khung”. Đối với Bateson, khung như là một biểu đồ bao gồm các phần tử<small>1</small>
của một tập hợp tốn học, có một chức năng kép: bao gồm các phần tử bên trong đường viền của nó và loại trừ những phần tử nằm ngồi nó. Giống như một khung ảnh, “khung” tổ chức nhận thức của mọi người, bằng cách làm cho mọi người chú ý đến những gì bên trong nó và bỏ qua những gì bên ngồi nó. <small>2</small>
Bateson đã đưa ra định nghĩa khung tâm lý là một “giới hạn về không gian và thời gian của một tập hợp các thông điệp tương tác”.<small>3</small>
Năm 1974, Erving Goffman được cho là người đầu tiên hoàn thiện khái
<i>niệm “đóng khung” trong cuốn sách Frame analysis: An essay on theorganization of experience. Theo ông, “khung” là những giản đổ của sự diễn giải</i>
cho phép con người “xác định, tiếp nhận, định dạng và dán nhãn cho vô số những sự biến diễn ra trong cuộc sống của họ.” Ông cho rằng mọi người giải<small>4</small>
thích những gì đang xảy ra xung quanh thế giới của họ thơng qua bộ khung chính của họ, nó được gọi là khung chính vì nó được người sử dụng coi là điểu hiển nhiên.
<small>1</small><i><small> Gregory Bateson (1972), “A theory of play and fantasy”, trong cuốn Gregory Bateson, Steps to an ecology ofmind. </small></i>
<small>2 A Ardèvol-Abreu (2015), “Framing theory in communication research in Spain. Origins, development andcurrentsituation”,</small> <i><small> RevistaLatinadeComunicaciónSocial,</small></i>
<small> tham khảo ngày 11/05/2022.3</small><i><small>Tlđd </small></i><small>tại chú thích số 1.</small>
<small>4</small><i><small> Erving Goffman (1974), Frame analysis: An essay on the organization of experience, Northeastern University</small></i>
<small>Press. </small>
3
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Bên cạnh đó, Goffman cho rằng có hai sự khác biệt trong bộ khung chính đó là: tự nhiên và xã hội. Các bộ khung tự nhiên xác định các sự kiện là sự xuất hiện vật lý lấy trích dẫn tự nhiên theo nghĩa đen và khơng quy bất kỳ lực lượng xã hội nào cho nguyên nhân của các sự kiện. Các bộ khung xã hội xem các sự kiện là sự xuất hiện theo định hướng xã hội, do ý thích, mục tiêu và sự thao túng từ phía những người khác. Các bộ khung xã hội được xây dựng trên các bộ khung tự nhiên. Những bộ khung này ảnh hưởng rất lớn đến cách dữ liệu được giải thích, xử lý và truyền đạt.<small>5</small>
<b>1.2. Định nghĩa về thuyết đóng khung</b>
Lý thuyết đóng "Khung" được coi là phép ẩn dụ trừu tượng để nêu bật ý nghĩa của một thông điệp, giúp người nhận dễ dàng xử lí tin tức một cách cấu trúc hóa, trong đó bao gồm kĩ thuật mơ tả và giải thích bối cảnh của vấn đề giúp thuyết phục công chúng và giành lấy sự ủng hộ tối đa của công chúng. Đây là kĩ thuật cần thiết không chỉ trong tranh luận mà các nhà hoạt động xã hội cũng cần kiểm soát tốt. Trong tâm lý học, khung còn được gọi là kịch bản <i>(script)</i> hoặc lược đồ <i>(schemata)</i>. Lý thuyết đóng khung cũng có nét tương đồng với "quy tắc ngón tay cái" khi chúng khơng hướng đến sự xác đáng, uy tín, mà chỉ chú trọng về tính ứng dụng cao trên thực tiễn, dễ áp dụng và tiếp cận thông tin được truyền tải.
Khung như sự tổng hợp lại từ các ý niệm sẵn có, được phát triển lên thành hệ thống các ý tưởng để tổ chức và diễn giải thông tin mới. Một trong những tiền đề của khung là xã hội học diễn giải. "Việc đóng khung" <i>(framing) </i>sẽ cung cấp cho người đọc mọi thông tịn cốt lõi được tóm gọn trong khung.
Định nghĩa về đóng khung của truyền thông đại chúng được đưa ra bởi Robert Entman có lẽ là cụ thể và dễ hiểu nhất: “Q trình đóng khung chủ yếu liên quan tới việc lựa chọn <i>(selection) </i>và làm nổi bật <i>(salience). </i>Đóng khung có nghĩa là lựa chọn một số khía cạnh trong cách hiểu về hiện thực, rồi làm cho nó <small>5</small><i><small> Davie, G (2017), “Framing Theory”, Mass Communication Theory </small></i><small> tham khảo ngày 11/05/2022.</small></i>
4
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">nổi bật lên trên văn bản truyền thông bằng cách nhấn mạnh vào một cách đặt vấn đề, một cách lý giải, một cách đánh giá đạo đức, và/ hoặc một kiến nghị giải pháp nào đó”<small>6</small>
<b>1.3. Cách đóng khung</b>
Entman đã xác định năm cách thức phổ biến để đóng khung các tin tức:<small>7</small>
<i>Thứ nhất, tạo sự xung đột. Các xung đột giữa các bên có thể được ưu tiên,</i>
như là trái ngược với quyết định thực tế được đưa ra.
<i>Thứ hai, tập trung vào mối quan tâm của con người (cá nhân hóa dữ liệu)</i>
thơng qua những câu chuyện về những con người thật, trong đó đề cao tính cá nhân, tập trung vào con người đó hơn cả.
<i>Thứ ba, tập trung vào các hệ quả. Các hệ quả có thể ở phạm vi rộng. Việc</i>
theo đuổi một chính sách có thể là khơng khơn ngoan nếu xét đến sự thống nhất trong một đảng hoặc liên minh hoặc vị thế của một quốc gia trên trường quốc tế.
<i>Thứ tư, tập trung vào mặt đạo đức. Sự đưa tin của các phương tiện truyền</i>
thơng có thể thường mang tính đạo đức, đơi khi bởi hành động bất cẩn của các chủ thể chính trị; hoặc nói cách khác, các chính sách có thể được coi là có vấn
<small>7 Entman, R. M (1991), “Framing US Coverage of international News: Contrast in Narratives of KAL and Iran</small>
<i><small>Air Incidents”, Journal of Communication. </small></i>
5
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><b>1.4. Mô hình quy trình đóng khung</b>
<b>Mơ hình quy trình đóng khung tích hợp<small>8</small></b>
<i>Mơ hình quy trình đóng khung gồm 3 phần: xây dựng khung (framebuilding), thiết lập khung (frame setting), </i>ảnh hưởng của việc đóng khung ở
<i>mức độ cá nhân và mức độ cộng đồng (individual and societal levelconsequences of framing). </i>
Việc xây dựng khung <i>(frame building) </i>đề cập tới các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng về mặt cấu trúc của khung tin tức. Các yếu tố bên trong của báo chí xác định cách các nhà báo và cơ quan thơng báo chí đóng khung các vấn đề.<small>9</small>
Tuy nhiên, các yếu tố bên ngồi của báo chí cũng quan trọng khơng kém. Mơ hình quy trình lựa chọn tin tức của Gans vào năm 1979, cũng như cơng trình về sự ảnh hưởng tới nội dung truyền thông của Shoemaker và Reese năm 1996 đã chỉ ra rằng có 3 tác nhân gây ảnh hưởng chính. Đầu tiên là ảnh hưởng tập trung
<i>vào nhà báo (journalist-centered influences). Các nhà báo chủ động xây dựng</i>
các khung để sắp xếp và làm cho thông tin đến trở nên dễ hiểu. Việc hình thành các khung được kiểm sốt bởi các biến số như hệ tư tưởng, thái độ và các chuẩn mực nghề nghiệp và được phản ánh trong cách các nhà báo đóng khung việc đưa tin. Yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến việc đóng khung tin tức là việc lựa chọn các khung dựa trên các yếu tố như loại khung hoặc định hướng chính trị của phương tiện truyền thông. Nguồn ảnh hưởng thứ ba là các nguồn ảnh hưởng từ bên ngoài (các tác nhân chính trị, chính quyền, nhóm lợi ích và giới tinh hoa khác). <small>10</small>
<small>8 Claes H. de Vreese (2005), “News framing: Theory and typology”, </small><i><small>Information Design Journal, </small></i><small>13(1), pp. 51-62.</small>
<small>9 Shoemaker, P. & Reese, S. D (1996), </small><i><small>Mediating the Message</small></i><small>, New York: Longman Publishers.10 Scheufele, D. A (1999), “Theory of Media Effects”, </small><i><small>Journal of Communication, </small></i><small>49(1), pp. 103-122.</small>
6
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Việc thiết lập khung <i>(frame setting) </i>đề cập tới sự tương tác giữa khung truyền thông với kiến thức nền và các khuynh hướng của các cá nhân. Các khung trong tin tức có thể ảnh hưởng đến việc học hỏi, giải thích và đánh giá các vấn đề và sự kiện. Hệ quả của việc định khung có thể ở trên cấp độ cá nhân và cấp độ xã hội. Ở cấp độ cá nhân, có thể làm thay đổi hành vi, thái độ về một vấn đề dựa trên việc tiếp xúc với một số khung nhất định<small>11</small>. Ở cấp độ xã hội, khung có thể góp phần định hình các q trình ở cấp độ xã hội như xã hội hóa chính trị, ra quyết định và hành động tập thể.<small>12</small>
<b>1.5. Các loại khung</b>
<i><b>1.5.1. Khung truyền thông (media frames) và khung cá nhân (individualframes)</b></i>
Vào năm 2007, Scheufele và Tewksbury đã mô tả các khung được giới truyền thông sử dụng như các cấu trúc vĩ mô, cần thiết để giảm độ phức tạp của các vấn đề và để điều chỉnh nó cho phù hợp với nhu cầu và sự ràng buộc của giới truyền thông và khán giả, cũng như các lược đồ diễn giải đã được sử dụng.<small>13</small>
Khi đã đi vào tâm trí của các cá nhân, khung trở thành cấu trúc vi mô cho phép khán giả sử dụng thơng tin nhận được để hình thành những ấn tượng và hình ảnh của riêng họ về thế giới. <small>14</small>
<i>Về khung truyền thông, Gamson và Modigliani đã định nghĩa đó là: “một ý</i>
tưởng tổ chức trung tâm hoặc dịng câu chuyện cung cấp ý nghĩa cho một chuỗi sự kiện đang diễn ra. . . Khung đề xuất về vấn đề của cuộc tranh luận là gì, và về tính chất của vấn đề.” Với việc coi khung truyền thông hay khung tin tức là sự<small>15</small>
cần thiết để biến những sự việc vô nghĩa và không thể nhận biết thành một sự kiện có thể nhận thức rõ, Tuchman đã đưa ra một định nghĩa tương tự cho khung <small>11</small><i><small>Tlđd </small></i><small>tại chú thích số 8.</small>
<small>12</small><i><small>Như trên</small></i><small>.</small>
<small>13 Scheufele, D. A. & Tewksbury, D (2007), “Framing, agenda-setting and priming: the evolution of three mediaeffects models”, </small><i><small>Journal of Communication</small></i><small>, 57, pp. 9-20.</small>
<small>14</small><i><small>Tlđd </small></i><small>tại chú thích số 2. </small>
<small>15 Gamson, W. A., & Modigliani, A. (1987), “The changing culture of affirmative action”, trong cuốn R. G.</small>
<i><small>Braungart & M. M. Braungart (Eds.), Research in political sociology (Vol. 3, pp. 137–177), Greenwich, CT:</small></i>
7
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">truyền thông: “Khung tin tức tổ chức các thực tế hàng ngày và khung tin tức là một phần thiết yếu của thực tế hàng ngày. . . nó là một đặc điểm thiết yếu của tin tức. ” . Khung truyền thơng đóng vai trị như công việc thường ngày của các<small>16</small>
nhà báo, cho phép các nhà báo nhanh chóng xác định và phân loại thơng tin và “đóng gói nó để chuyển tiếp hiệu quả đến khán giả của họ”. <small>17</small>
Entman đưa ra lời giải thích chi tiết hơn về cách phương tiện truyền thông cung cấp cho khán giả các lược đồ để diễn giải các sự kiện. Đối với ông, các yếu tố cần thiết là sự lựa chọn và sự nổi bật: “Đóng khung có nghĩa là lựa chọn một số khía cạnh trong cách hiểu về hiện thực, rồi làm cho nó nổi bật lên trên văn bản truyền thông bằng cách nhấn mạnh vào một cách đặt vấn đề, một cách lý giải, một cách đánh giá đạo đức, và/ hoặc một kiến nghị giải pháp nào đó” . Do<small>18</small>
đó, việc đóng khung và trình bày các sự kiện và tin tức trên các phương tiện thông tin đại chúng có thể ảnh hưởng một cách có hệ thống đến cách người nhận tin tức hiểu được những sự kiện này.<small>19</small>
<i>Về khung cá nhân, nó được định nghĩa là “các cụm ý tưởng được lưu trữ</i>
trong trí óc nhằm định hướng q trình xử lý thơng tin của các cá nhân” .<small>20</small>
Khung của các cá nhân là khung diễn giải thực tế và các lược đồ trong đó thơng tin mới được tích hợp, vì vậy chúng khơng có biểu hiện vật chất (giống như khung truyền thơng), nhưng có thể có ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của các cá nhân. Đây là những quá trình tâm lý chịu ảnh hưởng của các yếu tố xã hội học như văn hóa.<small>21</small>
<i><b>1.5.2. Khung mạnh (strong frames) và khung yếu </b></i><b>(weak frames)</b>
Để đáp ứng sức thuyết phục của khung, sự khác biệt giữa khung mạnh và khung yếu đã được chỉ ra. Vào năm 2007, Chong và Druckman lập luận rằng <small>16</small><i><small> Tuchman, G. (1978), Making news: A study in the construction of reality, New York: Free Press.</small></i>
<small>17 Gitlin, T. (1980), </small><i><small>The whole world is watching: Mass media in the making & unmaking of the new left</small></i><small>,Berkeley: University of California Press.</small>
<small>18</small><i><small>Tlđd </small></i><small>tại chú thích số 7.</small>
<small>19 Price, V., Tewksbury, D., & Powers, E. (1995, November), “Switching trains of thought: The impact of newsframes on readers’ cognitive responses”, Paper presented at the annual conference of the Mid-west Associationfor Public Opinion Research, Chicago, IL.</small>
<small>20</small><i><small>Tlđd </small></i><small>tại chú thích số 6.21</small><i><small> Như trên.</small></i>
8
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">nếu chấp nhận rằng có nhiều loại khung khác nhau, thì người ta khơng thể từ chối ý kiến rằng khơng phải tất cả các khung đều có sức mạnh như nhau. Sức mạnh của khung có thể được đánh đồng với sự hấp dẫn của khung đối với cá nhân hoặc công chúng và khả năng thuyết phục của nó so với một khung thay thế. Tuy nhiên, như Chong và Druckman đã công nhận, sức mạnh của khung rất khó để đo lường. Bảng câu hỏi về nhận thức và thang đo chủ quan là những công cụ thường được sử dụng để định lượng sức mạnh này, mặc dù chúng không thể đảm bảo độ chính xác của phép đo.
Sức mạnh tương đối của khung phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau như tần suất, khả năng tiếp cận và mức độ liên quan của chúng. Tần suất được định nghĩa là số lần và số lượng công ty sử dụng lặp lại một khung. Nếu tần số càng lớn thì sức mạnh càng lớn. Bên cạnh đó, sức mạnh của khung có xu hướng lớn hơn khi nó tập trung vào những sự cân nhắc mà dễ dàng tiếp cận đối với các cá nhân - những người đã tiếp xúc với khung và đã hiểu nó từ trước. Một yếu tố khác liên quan đến sức mạnh của khung là tính liên quan của nó: khung nói về cốt lõi của vấn đề sẽ mạnh hơn những khung nói về các vấn đề ngoại vi.<small>22</small>
<i><b>1.5.3. Khung chung (generic frames) và khung về các vấn đề cụ thể(specific frames)</b></i>
Các khung cụ thể được áp dụng cho một chủ đề hoặc sự kiện cụ thể, trong khi đó, các khung chung được áp dụng linh hoạt hơn cho các sự kiện khác nhau và thậm chí trong các khơng gian vật lý, thời gian và văn hóa khác nhau.
<i>Về khung chung, vào năm 1992, Neuman, Just và Crigler đã xác định các</i>
khung chung nhất được cả truyền thông và công chúng sử dụng đó là: “tác động của con người”, “sự bất lực”, “kinh tế”, “giá trị đạo đức” và “xung đột”.<small>23</small>
Khung tác động của con người tập trung vào việc mô tả các nhóm và các cá nhân bị ảnh hưởng bởi một vấn đề. Bên cạnh đó, khung về sự bất lực đề cập đến
<small>22 Chong, D. & Druckman, J. N. (2007), “A theory of framing and opinion formation in competitive eliteenvironments”, </small><i><small>Journal of Communication</small></i><small>, 57, pp. 99-118.</small>
<small>23 Neuman, W. R., Just, M. R. & Crigler, A. N (1992), </small><i><small>Common knowledge</small></i><small>, Chicago: University of ChicagoPress.</small>
9
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">“sự thống trị của các thế lực trước các nhóm và các cá nhân yếu kém”. Khung về kinh tế phản ánh “sự bận tâm với kết quả kinh doanh, lợi nhuận và khoản lỗ”.<small>25</small> Khung về các giá trị đạo đức đề cập đến các quy định về đạo và xã hội bằng cách đưa ra các suy luận hoặc các trích dẫn. Khung về xung đột phản ánh<small>26</small>
sự bất đồng giữa các cá nhân, tổ chức hoặc các quốc gia. Hướng nghiên cứu<small>27</small>
này đã tiếp tục được phát triển bởi Semetko và Valkenburg vào năm 2000. Họ đã xác định năm loại khung đó là: “quy trách nhiệm”, “xung đột”, “khía cạnh tâm lý”, “đạo đức” và “hậu quả kinh tế”.
Một loại khung chung chung khác được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu về truyền thơng chính trị là khung “chiến lược”, được đề xuất bởi Rhee vào năm 1997 và đối lập với khung “vấn đề”. Khung chiến lược sẽ tập trung vào các<small>28</small>
khía cạnh như phong cách của các ứng cử viên chính trị, tính cách của họ, chiến thuật và sự phát triển của chiến dịch bầu cử,... Trong loại khung này, ngôn ngữ chiến tranh và cuộc chơi thường được sử dụng là: tấn công, chiến đấu, chiến thắng, thất bại,…
<i>Về khung về các vấn đề cụ thể, các nghiên cứu đã xem xét khung của</i>
Intifada (Cohen & Wolfsfeld, 1993), mạng Internet (Roessler, 2001), phong trào phụ nữ (Terkild sen & Schnell, 1997), và tranh chấp lao động (Simon & Xenos, 2001)<small>29</small>. Dựa trên phân tích nội dung của một số tờ báo lớn của Hoa Kỳ, bốn khung đã được xác định đó là: “nói chuyện”, “chiến đấu”, “bế tắc” và “khủng hoảng”. Bốn khung này phản ánh thời gian phát triển của vấn đề trong tin tức và là các vấn đề nhạy cảm. Vào năm 2002, về lĩnh vực bầu cử, Shah và những người khác đã xác định ba khung lặp lại trong tin tức trong giai đoạn cuối cùng của nhiệm kỳ tổng thống Clinton là “vụ bê bối về hành vi của Clinton”, “vụ bê bối về sự tấn công Đảng Bảo thủ” và “vụ bê bối về phản ứng của Đảng Tự do”.
<small>24</small><i><small> Như trên.</small></i>
<small>25</small><i><small> Như trên.</small></i>
<small>26</small><i><small>Tlđd </small></i><small>tại chú thích số 8.</small>
<small>27</small><i><small> Cappella, Joseph N., and Kathleen H. Jamieson (1997), Spiral of Cynicism: The Press and the Public Good,</small></i>
<small>Oxford University Press.28</small><i><small>Tlđd </small></i><small>tại chú thích số 2.29</small><i><small>Tlđd </small></i><small>tại chú thích số 8.</small>
10
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Tương tự như vậy, các nghiên cứu khác về khung trong tin tức đã điều tra sự hiện diện của các khung liên quan đến vấn đề cụ thể đáng nghi ngờ.
<b>1.6. Mối quan hệ giữa thuyết đóng khung và thuyết thiết lập chươngtrình nghị sự</b>
Đóng khung là một nguồn của giao tiếp và nó sẽ xây dựng một phần bất kỳ của thơng tin được giao tiếp. Đóng khung thơng tin là không thể tránh khỏi trong giao tiếp của con người bởi vì tất cả chúng ta đều mang khung của riêng mình vào giao tiếp hàng ngày.<small>30</small>
Lý thuyết đóng khung là việc tập trung sự chú ý vào các sự kiện nhất định, rồi đặt các sự kiện đó vào một lĩnh vực ý nghĩa cụ thể. Lý thuyết đóng khung cũng có vai trị vơ cùng quan trọng trong lĩnh vực quan hệ công chúng. Những người làm trong ngành này có thể sử dụng việc đóng khung để hướng khán giả đến một niềm tin nhất định. Để một chiến dịch truyền thông thành công với mục tiêu thiết lập sự kết nối với khách hàng, thì thái độ và hành vi của khách hàng cần phải được phản ánh hiệu quả qua thông điệp. Khi tạo ra một thơng điệp truyền thơng thì các nhà truyền thông bắt buộc phải ý thức được cách người nhận hiểu và tiếp nhận thơng điệp đó.<small>31</small>
Thuyết thiết lập chương trình nghị sự cho rằng các cơ quan báo chí và truyền thông sẽ căn cứ vào những thông tin thực tế đang có để lựa chọn ra các vấn đề và nội dung mà họ coi là quan trọng để cung cấp cho công chúng chứ không phải là cung cấp các thơng tin mà cơng chúng cần. Nói cách khác, lý thuyết “thiết lập chương trình nghị sự” chỉ quan tâm cơng chúng suy nghĩ gì (What to think about) chứ không phải “nghĩ như thế nào” (How to think). Tuy nhiên sau đó một số chuyên gia đã thay đổi quan điểm và nhận định rằng “Thiết lập chương trình nghị sự là một q trình, nó vừa có thể ảnh hưởng đến việc người ta đang suy nghĩ gì, đồng thời cũng ảnh hưởng đến việc người ta suy nghĩ như thế nào”.
<small>30</small><i><small>Tlđd </small></i><small>tại chú thích số 5.</small>
<small> tham khảo ngày 13/05/2022. </small> 11
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Thiết lập chương trình nghị sự chính là sản phẩm từ nhận thức của công chúng và sự quan tâm của những vấn đề nổi bật được đưa ra bởi các hãng truyền
<i>thông. Hai giả thiết cơ bản nằm trong mỗi nghiên cứu về thiết lập chương trìnhnghị sự đó là : (1) Các cơ quan báo chí và nền truyền thông không phản ánhhiện thực; họ chọn lọc và định dạng nó; (2) nền truyền thơng tập trung vào mộtsố ít các vấn đề và chủ đề khiến cho cơng chúng nhận thức rằng các vấn đề đóquan trọng hơn các vấn đề khác. Trong quá trình truyền thông, nếu những tintức được nhắc tới thường xuyên, liên tục và nổi bật, công chúng sẽ nhớ tới vàcoi nó quan trọng hơn những thơng tin khác.</i>
Khoảng thời gian thiết lập kết hợp với các loại hình truyền thơng đa dạng sẽ tạo nên các chương trình nghị sự khác nhau, giúp ta hiểu về vai trò của truyền thông. Bernard Cohen đã từng đưa ra một kết luận vào năm 1963 như sau : “Báo chí có thể không thành công trong việc định hướng cho độc giả suy nghĩ, nhưng nó thành cơng một cách đáng kinh ngạc trong việc định hướng độc giả của mình nên nghĩ về điều gì.”
Các thơng tin trong thuyết chương trình nghị sự được truyền đạt theo trình tự : Chương trình nghị sự truyền thơng ; chương trình nghị sự cơng cộng ; chương trình nghị sự chính sách. Trong đó chương trình nghị sự truyền thơng và chương trình nghị sự chính sách có mối quan hệ tương hỗ với nhau, cịn chương trình nghị sự cơng cộng truyền tải thông tin lẻ tẻ, không liên kết bởi quần chúng. Thu hút ý kiến dư luận: Cơ sở tâm lý cho vấn đề thu hút ý kiến dư luận chính là sự chú ý chọn lọc của cơ quan truyền thơng. Cơng chúng có xu hướng bị hấp dẫn bởi các luồng thông tin gay cấn, gây xôn xao, dấy lên tranh luận cũng như đặc điểm của đối tượng đã bị tác động trong tâm trí của họ hơn là tham gia vào những nhận xét tường tận về ý kiến, từ đó tự mình đưa ra các đánh giá. Đó chính là khi các chương trình nghị sự đã được định hình một cách đáng kể bởi các phương tiện thông tin đại chúng.
Việc đưa tin truyền thông và thái độ: Những thông tin nổi bật và các chủ đề được đăng tải trên truyền thông nghị sự cũng ảnh hưởng tới thái độ của công chúng. Truyền thơng đại chúng có chức năng sắp đặt “chương trình nghị sự” cho
12
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">cơng chúng, các bản tin và hoạt động đưa tin của cơ quan báo chí - truyền thơng có thể gây ảnh hưởng đến sự phán đốn của cơng chúng tới những “chuyện đại sự” của thế giới xung quanh và tầm quan trọng của chúng bằng cách cho các “chương trình” những nét nổi bật khác nhau, từ đó có thể tác động và tạo ra sự dẫn đường, định hướng trong tâm trí khán giả trong tương lai. <small>32</small>
Lý thuyết “thiết lập chương trình nghị sự” khơng đánh giá hiệu quả truyền thông trong thời gian ngắn của một hãng truyền thơng nào đó đối với một sự kiện cụ thể, mà nó đánh giá về hiệu quả xã hội lâu dài, tổng hợp ở tầm vĩ mô của cả ngành truyền thông sau khi đưa ra hàng loạt bản tin trong một quãng thời gian đủ lớn. Việc đưa tin về thế giới bên ngoài của các cơ quan truyền thông không phải là sự phản ánh thực tế theo kiểu “soi gương”, mà là một hành động lựa chọn, chắt lọc có chủ đích. Các cơ quan báo chí truyền thơng sẽ dựa vào giá trị quan và mục đích tơn chỉ của mình, đồng thời căn cứ vào mơi trường thực tế rằng vấn đề gì đang được xã hội quan tâm để “lựa chọn” vấn đề hoặc nội dung mà họ coi là quan trọng nhất để sản xuất và cung cấp cho công chúng những thơng tin “đúng sự thật”. <small>33</small>
Lý thuyết đóng khung và thuyết thiết lập chương trình nghị sự có mối quan hệ chặt chẽ và có nhiều điểm tương đồng với nhau. Lý thuyết khung đã được nhiều người coi là gần giống với lý thuyết thiết lập chương trình nghị sự và hồn tồn có khả năng tích hợp giữa hai mơ hình. Lý thuyết thiết lập chương trình nghị sự sẽ cho biết cách “Các bản tin được ra đời theo cách mà khi một bản tin cụ thể được quan tâm và chú ý hơn các tin tức khác, khán giả sẽ tự động coi đó là tin tức và thông tin quan trọng nhất được cung cấp cho họ” (McCombs, Shaw).
Lý thuyết thiết lập chương trình nghị sự có thể nói là bước đầu tiên trong lý thuyết đóng khung. Cả hai đều tập trung vào cách các phương tiện truyền thông thu hút ánh nhìn của cơng chúng đến các chủ đề cụ thể, và bằng cách này mà họ <small>32</small><i><small> Vũ Minh Dương (2018), “Lý thuyết thiết lập chương trình nghị sự”, Another Heaven, tham khảo</small></i>
<small>ngày 13/05/2022.</small>
<small>33</small><i><small> Basuki Agus Suparno, Sigit Tripambudi (2004), “The Convergence of Agenda Setting and Framing”, JurnalIlmu Komunikasi, 2(2). </small></i>
13
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">sẽ thiết lập chương trình nghị sự. Nhưng lý thuyết đóng khung cịn gây ảnh hưởng mạnh mẽ hơn, bởi cách thức mà một tin tức được trình bày sẽ vơ hình chung đóng khung trong suy nghĩ của cơng chúng về thơng tin đó. Đây thường là một việc làm có chủ đích của cánh báo chí, nó được thể hiện qua cách những người kiểm sốt thơng tin và các phương tiện truyền thơng có tầm ảnh hưởng lớn sẽ truyền đạt thông tin, tổ chức và trình bày các ý tưởng, sự kiện và chủ đề theo cách của riêng họ.<small>34</small>
Khung là một “trường hợp rất đặc biệt của các thuộc tính”, vì nó sẽ được tạo thành từ một tập hợp các thuộc tính vi mơ kết hợp với nhau tạo thành một thuộc tính vĩ mơ. Chính thuộc tính vĩ mơ này, hoặc một nhóm trong số chúng sẽ tạo thành một quan điểm chi phối về một đối tượng, ảnh hưởng đến nhận thức của công chúng về đối tượng này và sự hiểu biết của xã hội nói chung.
Ngày nay, có một trường phái tư tưởng thống trị trong các nhà nghiên cứu về truyền thơng, đó là cả hai lý thuyết (đóng khung và thiết lập chương trình nghị sự) đều bổ sung cho nhau nhưng vẫn có tính độc lập. Trong khi các nhà nghiên cứu về thiết lập chương trình nghị sự so sánh mức độ liên quan giữa các chủ đề nhất định trên phương tiện truyền thông với sự cảm nhận của cơng chúng, thì các nhà nghiên cứu về lý thuyết đóng khung lại so sánh cách các phương tiện truyền thơng đóng khung một chủ đề với những khung mà cơng chúng sử dụng để giải thích chủ đề này.
Việc thiết lập chương trình nghị sự sẽ gây ảnh hưởng đến công chúng bằng sự lặp lại tin tức (trên các phương tiện truyền thông) và khả năng tiếp cận (đến tâm lý của người nhận). Chủ đề càng được lặp lại nhiều trên các phương tiện truyền thơng thì nó sẽ càng chiếm sự quan tâm lớn hơn trong tâm trí người nhận, từ đó khả năng để mọi người tiếp cận đến chủ đề đó càng lớn. Trái lại, việc đóng khung khơng gây ảnh hưởng bằng cách tiếp cận tới công chúng mà là theo khả năng áp dụng vào thực tế, tức là khả năng tạo ra các khung diễn giải có thể áp dụng cho nhiều trường hợp khác nhau, đến mức các khái niệm được kết nối trong một thơng điệp cũng sẽ có xu hướng kết nối với nhau trong tâm trí của <small>34</small><i><small>Tlđd</small></i><small> tại chú thích số 5.</small>
14
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">khán giả trong q trình hình thành ý kiến, sau đó sẽ ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của cơng chúng.
Đối với lý thuyết thiết lập chương trình nghị sự, vấn đề được đặt trọng tâm không phải là cách một sự kiện cụ thể được ghi nhận và đưa tin, mà là mức độ quan tâm của công chúng đến sự kiện và thời gian mà một cá nhân đã được tiếp xúc với độ phủ sóng của sự kiện. Mặt khác, đối với lý thuyết đóng khung thì quan trọng là cách một chủ đề hoặc một sự kiện tin tức được mô tả, cũng như lược đồ diễn giải đã được kích hoạt để xử lý nó. Bất chấp sự khác biệt về mặt lý thuyết này, khả năng ứng dụng và khả năng tiếp cận của hai lý thuyết vẫn có sự liên quan và khơng thể tách rời nhau hồn tồn.<small>35</small>
<b>Chương II. Cách truyền thơng nước Mỹ đóng khung chiến tranh Iraq2.1. Khái qt chung về Chiến tranh Iraq năm 2003</b>
Chiến tranh Iraq, hay còn được biết đến với cái tên “Chiến tranh vùng Vịnh thứ 3”, bắt đầu diễn ra vào ngày 20 tháng 3 năm 2003 với các cuộc xâm lược được gọi là “Chiến dịch Tự do Iraq” (Iraqi Freedom Operation), được tiến hành bởi Hoa Kỳ đứng đầu và các nước đồng minh nhằm chống lại Đảng Baath của Saddam Hussein.<small>36</small>
<i><b>2.1.1. Khởi nguồn của Chiến tranh Iraq </b></i>
Mối quan hệ giữa Mỹ và Iraq chuyển sang quan hệ thù địch kể từ khi Iraq đem quân xâm lược Kuwait (một đồng minh của Mỹ) vào năm 1990, dẫn đến Chiến tranh vùng Vịnh (1990-1991). Sau chiến tranh vùng Vịnh, Mỹ và các đồng minh đã thực hiện nhiều biện pháp để làm suy yếu chế độ Hussein. Những biện pháp này bao gồm việc thực thi các khu vực cấm bay tại Iraq mà Mỹ và các nước đồng Minh tuyên bố là để bảo vệ cộng đồng người Kurd và người Hồi giáo Shia; các lệnh trừng phạt kinh tế của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhằm cản trở tiến độ của các chương trình phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt; cùng với đó <small>35</small><i><small>Tlđd </small></i><small>tại chú thích số 2. </small>
<small>36</small><i><small> Youssef Bassil (2012), “The 2003 Iraq War: Operations, Causes, and Consequences”, IOSR Journal ofHumanities and Social Science (JHSS), 2279-0837, ISBN: 2279-0845. Volume 4, Issue 5, pp. 29-47.</small></i>
15
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">là các cuộc thành tra nhằm đảm bảo sự tuân thủ của Iraq liên quan đến vấn đề giải giáp vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, nhiều quốc gia cáo buộc rằng Iraq đã liên<small>37</small>
tục cản trở các cuộc thanh tra do Liên Hợp Quốc tiến hành, cũng như không thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ giải giáp vũ khí hủy diệt hàng loạt. Chính điều này đã khiến cộng đồng quốc tế bày tỏ sự thất vọng và khiến Tổng thống Hoa Kỳ lúc bấy giờ - Bill Clinton vô cùng bức xúc.
Năm 1998, Bill Clinton đã phát động một chiến dịch ném bom lãnh thổ Iraq, có tên là “Chiến dịch Cáo sa mạc” (code-named Operation Desert Fox) với mục tiêu cản trở khả năng sản xuất vũ khí hóa học, sinh học và hạt nhân của chính quyền Saddam Hussein, đồng thời Hoa Kỳ cũng hy vọng chiến dịch này sẽ làm giảm dần mối đe dọa của Iraq đối với các nước láng giềng cũng như “suy giảm” sức mạnh của Saddam. Để đáp trả, sau chiến dịch này, Saddam Hussein<small>38</small>
đã đình chỉ hồn tồn việc hợp tác với các thanh tra viên Liên Hợp Quốc và trục xuất họ về nước.
Năm 2002, Tổng thống mới của Hoa Kỳ, George W.Bush, bắt đầu công khai ý định về một cuộc can thiệp quân sự vào Iraq trong Bản Thông điệp Liên bang, gọi Iraq là 1 thành viên của Trục ma quỷ (Axis of Evil) và tuyên bố rằng “Hoa Kỳ không cho phép các chế độ nguy hiểm bậc nhất thế giới đe dọa chúng ta với những vũ khí hủy diệt hàng loạt” . Ơng cũng lập luận rằng tình trạng dễ<small>39</small>
bị tấn cơng của nước Mỹ sau sự kiện 11/9 , kết hợp với việc Iraq sở hữu và sản xuất vũ khí hủy diệt hàng loạt (một cáo buộc mà sau đó đã được chứng minh là sai lầm), và sự ủng hộ của nước này đối với các nhóm khủng bố, mà theo chính quyền Bush, bao gồm cả Al-Qaeda – thủ phạm của vụ tấn công 11/9, đã khiến cho việc giải giáp Iraq là một mục tiêu hàng đầu của Hoa Kỳ. Ngày 8 tháng 11 năm 2002, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết 1441, yêu cầu Iraq tái hợp tác với các thanh tra viên và phải tuân thủ tất cả các nghị quyết <small>37 Britannica, T. Editors of Encyclopedia (2021), “Iraq War”, </small><i><small>Encyclopedia Britannica</small></i><small>,</small>
<small> tham khảo ngày 10/05/2022.</small>
<small>38</small><i><small> William M. Arkin (1999), “Analysis: The Difference Was in the Details”, Special to The Washington Post, pp.</small></i>
<small>39 President George W.Bush (2002), “President Delivers State of the Union Address”, </small><i><small>The White House</small></i><small>,</small>
<small> tham khảo ngày11/05/2022</small>
16
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">trước đó. Iraq dường như đã có động thái tuân thủ nghị quyết, song, Tổng thống Bush và Thủ tướng Anh – Tony Blair cáo buộc rằng nước này đang tiếp tục cản trở các cuộc thanh tra của Liên Hợp Quốc và vẫn sở hữu các vũ khí cấm. Các<small>40</small>
nhà lãnh đạo khác trên thế giới, chẳng hạn như Tổng thống Pháp - Jacques Chirac và Thủ tướng Đức - Gerhard Schröder, viện dẫn rằng sự hợp tác của Iraq đang có chiều hướng tăng lên và cần cho Iraq thêm thời gian để tuân thủ các biện pháp đó. Tuy nhiên, vào ngày 17 tháng 3, Bush cho rằng nỗ lực ngoại giao của Hội đồng Bảo an là vô ích và tuyên bố cắt đứt quan hệ ngoại giao với Iraq. Đồng thời, George W.Bush gửi tối hậu thư tới Saddam Hussein, yêu cầu đầu hàng và rời khỏi Iraq trong vòng 48 giờ.<small>41</small>
<i><b>2.1.2. Cuộc xung đột năm 2003</b></i>
Bất chấp yêu cầu của Bush, Saddam Hussein từ chối rời khỏi Iraq. Vào ngày 20 tháng 3 năm 2003, Hoa Kỳ, cùng các lực lượng liên minh chủ yếu đến từ Vương quốc Anh, đã khơi mào cuộc chiến tại Iraq. Ngay sau khi những vụ nổ bắt đầu lay chuyển Baghdad, thủ đơ Iraq, Tổng thống Mỹ khi đó là George W. Bush đã lên phát biểu trên truyền hình: “Vào giờ này, các lực lượng của Hoa Kỳ và đồng minh đang ở trong giai đoạn đầu của những hoạt động quân sự nhằm giải giáp Iraq, giải phóng người dân của họ, và bảo vệ thế giới khỏi hiểm nguy.”<small>42</small>
Liên quân do Mỹ dẫn đầu lên kế hoạch mở đầu chiến dịch từ phía nam Iraq và tiến lên thủ đơ Iraq. Iraq có lợi thế hơn khi là bên phịng thủ, do đó các nhà hoạch định chiến lược của Mỹ tìm cách phân tán lực lượng Iraq bằng cách gây sức ép từ phía Bắc. Để thực hiện được chiến lược này, Mỹ phải thuyết phục được lực lượng dân quân người Kurd ở miền bắc Iraq để hợp tác với họ. Ở miền nam Iraq, lực lượng kháng chiến lớn nhất đối với quân đội Hoa Kỳ khi họ tiến lên phía bắc được biết đến với cái tên Fedayeen Saddam. Tương tự, quân đội <small>40</small><i><small>Tlđd </small></i><small>tại chú thích số 37.</small>
<small>41 George W.Bush (2003), “President says Saddam Hussein must leave Iraq within 48 hours”, </small><i><small>The White House</small></i><small>,</small>
<small> tham khảo ngày12/05/2022.</small>
<small>42</small><i><small> History.com Editors (2009), “War in Iraq begins”, A&E Television Networks, </small></i><small> tham khảo ngày 11/05/2022.</small>
17
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">Anh cũng đối đầu với nhóm chiến binh này khi triển khai các chiến dịch xung quanh thành phố Barsa ở phía nam. “Chúng tơi khơng ngờ người Iraq có thể<small>43</small>
chiến đấu đến vậy. Chúng tơi khơng tin điều đó”, một cực đặc nhiệm SBS của Anh cho biết. “Đó là cú sốc cho chúng tơi khi đối mặt với sự kháng cự như vậy”.<small>44</small>
Tại miền trung Iraq, các lực lượng Vệ binh Cộng hịa – một nhóm bán qn sự được trang bị vũ khí có liên hệ với đảng cầm quyền – đã được triển khai để bảo vệ thủ đô Baghdad. Mặc dù sự kháng cự của Iraq đôi khi rất mạnh mẽ, nhưng lực lượng quân đội và thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã nhanh chóng giành quyền kiểm sốt sân bay quốc tế của Baghdad vào ngày 4 tháng 4 và tiếp tục tổ chức các cuộc đột kích vào trung tâm thành phố. Vào ngày 9 tháng 4, Baghdad thất thủ, binh lính Hoa Kỳ đã giành quyền kiểm sốt thành phố, đồng thời trong cùng ngày, lực lượng quân đội Anh cuối cùng cũng bảo vệ được Barsa. Mọi chuyện dường như êm đẹp cho đến khi Thổ Nhĩ Kỳ quyết định cấm các lực lượng mặt đất Mỹ dùng lãnh thổ của mình để tấn cơng phía bắc Iraq và đình chỉ việc cho phép các phi cơ quân sự Mỹ bay qua khơng phận. Bất chấp<small>45</small>
điều đó, một trung đồn lính dù Mỹ đã thả xuống khu vực này và các binh sĩ Lực lượng đặc biệt của Mỹ cùng với các chiến binh Peshmerga của người Kurd đánh chiếm các thành phố phía bắc trong hai ngày 10 và 11 tháng 4. Quê hương của Saddam ở Tikrīt, thành trì lớn cuối cùng của chế độ, đã chính thức sụp đổ với sự kháng cự ít ỏi vào ngày 13 tháng 4.
Ngày 1 tháng 5 năm 2003, Tổng thống Bush tuyên bố “sứ mệnh hoàn thành” và chấm dứt các cuộc tác chiến lớn ở Iraq. Các nhà lãnh đạo Iraq đã bỏ trốn và là đối tượng bị lực lượng Hoa Kỳ truy lùng gắt gao. Sau các cuộc truy lùng này, lính Mỹ tìm thấy Saddam Hussein trốn trong một cái hố sâu sâu khoảng 1,8 đến 2,4 mét, cách thành phố quê nhà Tikrīt khoảng 14,5km. Một người lính có mặt tại hiện trường mơ tả ơng ta là “người đàn ông đầu hàng trước <small>43</small><i><small>Tlđd </small></i><small>tại chú thích số 37.</small>
<small>44</small><i><small> Nguyễn Tiến (2021), “Chiến dịch Mỹ “nở hoa trong lòng địch’ tại Iraq năm 2003”, VnExpress,</small></i>
<small> tham khảo ngày12/05/2022.</small>
<small>45</small><i><small> Như trên.</small></i>
18
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">số phận”. Saddam Hussein bị bắt giữ và chuyển giao quyền lực cho Chính phủ lâm thời Iraq. Sau đó, ơng bị cáo buộc phạm các tội ác chống lại loài người và bị kết án tử hình bằng cách treo cổ. Sau khi kháng cáo bất thành, ông bị hành quyết vào ngày 30 tháng 12 năm 2006.
<i><b>2.1.3. Phản ứng của công chúng về cuộc giao tranh</b></i>
<b>2.1.3.1. Phản ứng của cộng đồng quốc tế</b>
Trong bài phát biểu của tổng thống Bush vào tối ngày 17 tháng 3 đã thu hút sự quan tâm lớn của công chúng Mỹ về cuộc giao tranh. Theo một cuộc thăm dò của Washington Post – ABC News, 71% người dân Mỹ ủng hộ chiến tranh và 66% ủng hộ quyết định của tổng thống Bush mà khơng cần tìm kiếm thêm sự tán thành của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Với cuộc chiến đang diễn ra,<small>47</small>
các cuộc thăm dò cho thấy hơn 70% người Mỹ tiếp tục ủng hộ cuộc chiến, theo số liệu của Washington Post – ABC News thì 69% người dân thấy rằng quyết định này là đúng đắn ngay cả khi không tìm thấy vũ khí hủy diệt hàng loạt nào ở Iraq.<small>48</small> Theo một cuộc thăm dò khác diễn ra ở Anh được tiến hành bởi YouGov vào tháng 3 năm 2003, khoảng 54% người Anh ủng hộ cho hành động quân sự chống lại Iraq.
Ngược lại, nhiều báo cáo lưu ý rằng chính sách của Hoa Kỳ đối với Iraq đã dẫn đến sự gia tăng chủ nghĩa chống Mỹ (antiAmericanism) đặc biệt ở các nước Tây Âu và Trung Đơng, nơi các cuộc thăm dị dư luận cho thấy sự phản đối mạnh mẽ đối với cuộc chiến. Có thể thấy, sau 4 năm cuộc xâm lược Iraq nổ ra,<small>49</small>
các quốc gia ở Trung Đông như Ả Rập Saudi, Jordan, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Liban,… vẫn mang cái nhìn tiêu cực về vai trị của Mỹ ở Iraq.<small>50</small>
Tương tự, đa số các quốc gia khác như Pháp, Đức, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Thổ
<small>46</small><i><small> Như trên.</small></i>
<small>47</small><i><small> “Washington Post-ABC News Poll: Bush’s Speech,”, The Washington Post, </small></i><small> , tham khảo ngày 13/05/2022.</small>
<small>48</small><i><small> Raymond W.Copson (2003), “Iraq War: Background and Issues Overview”, CRS Report for Congress,RL31715, Congressional Research Service Library of Congress.</small></i>
<small>49</small><i><small> Như trên.</small></i>
<small>50</small><i><small> Zogby, James (2007), Four Years Later: Arab Opinion Troubled by Consequences of Iraq War, Arab</small></i>
<small>American Institute. </small>
19
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">Nhĩ Kỳ,… tin rằng thế giới an toàn hơn trước chiến tranh Iraq và sự lật đổ Saddam Hussein, trong khi Hoa Kỳ có quan điểm ngược lại.
<b>2.1.3.2. Phản ứng của người dân Iraq</b>
Khi Saddam Hussein bị lật đổ, nhiều người dân Iraq đã đổ ra đường ăn mừng và cùng nhau lật đổ bức tượng Hussein. Thêm vào đó, ngay sau cuộc<small>51</small>
xâm lược, cuộc thăm dò ý kiến chỉ ra rằng đa số người dân Iraq ủng hộ sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ. Cuộc thăm dò được tiến hành từ năm 2005 đến 2007 cho thấy 31-37% người Iraq muốn Hoa Kỳ và lực lượng đồng minh rút quân ngay sau khi an ninh được khôi phục và 26-35% muốn rút quân ngay lập tức.<small>52</small>
Người dân Iraq cho rằng họ đang đi đúng hướng và việc lật đổ chế độ độc tài Saddam Hussein là hoàn toàn đúng đắn.
<b>2.2. Phân tích sự đóng khung của truyền thơng nước Mỹ lên chiếntranh Iraq</b>
<i><b>2.2.1. Cách các trang tin tức của nước Mỹ đưa tin về chiến tranh Iraq</b></i>
Trong bất cứ một cuộc xung đột nào thì phương tiện truyền thơng đều đóng một vai trị quan trọng như một nguồn cung cấp thông tin tới công chúng, bao gồm cả kiểm sốt quan điểm của cơng chúng và tác động tới chính trị. Bằng việc sử dụng ngơn từ, hình ảnh và các video ghi nhận tại hiện trường cuộc chiến, họ có thể truyền đi các thơng điệp và thơng tin tới thế giới bên ngoài về mọi thứ xảy ra trong chiến tranh. Tuy nhiên, cũng chính vì vậy mà phương tiện truyền thông cũng bị lợi dụng để tuyên truyền cho chiến tranh. Truyền thông doanh nghiệp Hoa Kỳ chủ yếu bị chi phối bởi sáu tập đoàn toàn cầu: Comcast, Viacom, Time Warner, CBS, The News Corporation và Disney. Hoa Kỳ đã từng sử dụng truyền thông để thao túng các thông tin trong chiến tranh Việt Nam, tuy nhiên việc đưa tin chiến tranh của các nhà báo Mỹ lại bị hạn chế hơn ở chiến tranh <small>51</small><i><small> Anton Antonowicz (2003), Toppling Saddam’s Statue Is the Final Triumph for the Oppressed People, The</small></i>
<small>Mirror. </small>
<small>52 Program on International Policy Attitudes (2006), “The Iraqi Public on the US Presence and the Future of</small>
<small> tham khảo ngày 13/05/2022.</small>
20
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Iraq do Hoa Kỳ đã nhận thức được rằng, chính sách cho phép tự do tiếp cận truyền thơng có thể khiến cơng chúng quay ra phản đối chiến tranh, giống như trong trường hợp của Việt Nam . Thuật ngữ “Embedded Journalism" lần đầu<small>53</small>
tiên được sử dụng trong việc đưa tin về chiến tranh Iraq năm 2003, thuật ngữ này mang ý nghĩa rằng cánh báo chí được đưa vào các đơn vị quân đội và đi cùng quân đội để lấy tin, bằng cách này thì chính phủ Hoa Kỳ có thể kiểm sốt được phóng viên và nhà báo nào được ra vào hiện trường và cả những thông tin mà họ được phép tiếp nhận để đem tới cho cơng chúng. Cũng chính vì vậy mà mối quan hệ này bị chỉ trích vì nó làm mất đi sự độc lập và khách quan của các phóng viên khi các phóng viên chỉ được đưa tin những gì quân đội và các nhà cầm quyền muốn, đồng thời nó cũng thể hiện rằng giữa qn đội và truyền thơng có tồn tại một mối quan hệ gắn bó mật thiết.<small>54</small>
Chiến tranh Iraq do Hoa Kỳ khởi xướng đã chiếm sự chú ý trên mọi mặt trận truyền thông kể từ đầu tháng 3 năm 2003. Các hãng truyền thông ở Hoa Kỳ đã gắn mác sự kiện Iraq bằng những cụm từ như “Chiến dịch tự do ở Iraq" hoặc “Chiến tranh Iraq". Các tờ báo nổi tiếng ở Mỹ trong giai đoạn này đã bị chỉ ra là thiếu tích cực đưa tin về hoạt động trong chiến tranh Iraq. FAIR - một tổ chức giám sát của Mỹ đã nói rằng New York Times đã phớt lờ những người phản đối chiến tranh trong nước. New York Times và Washington Post hầu như không đưa tin về những động thái phản đối chiến tranh tại Iraq ở Hoa Kỳ. Các nhà báo Mỹ không ngần ngại sử dụng những khẩu hiệu của Chính quyền Bush, chẳng hạn như "Saddam, bạo chúa và kẻ điên", liên kết Saddam Hussein với al-Qaeda và vụ tấn công khủng bố ngày 11/9, và cho rằng vũ khí hủy diệt hàng loạt của Iraq là mối đe dọa trực tiếp đến Hoa Kỳ.
<small>53</small><i><small> Noelle Forde (2019), “Agenda-Setting and Framing Effects in Both the Vietnam and Iraq Wars”, GraduateTheses, Dissertations, and Problem Report, 4205, </small></i><small> tham khảo ngày13/05/2022.</small>
<small>54</small><i><small>Aadil Amin Kak (2012), “Politician, media and words: vocabulary from the Iraq war”, Global Media Journal– Indian Edition/ISSN 2249-5835, Vol.3/No.2.</small></i>
21
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">Các mạng lưới truyền thông của Hoa Kỳ cịn cố tình kích động thái độ của cơng chúng với các phóng sự đặc biệt mang tên “Countdown Iraq” trên MSNBC hoặc “Cuộc đối đầu với Saddam” trên CBS. Giám đốc hãng tin tức nổi tiếng của Anh - BBC, Greg Dyke, đã công kích các đài truyền hình Hoa Kỳ và nói rằng họ không chỉ bộc lộ quan điểm thân Mỹ quá rõ ràng trong quá trình đưa tin về chiến tranh, mà nhiều người trong số họ cịn cơng khai thể hiện sự yêu nước và làm sôi sục ý kiến của công chúng đối với chiến tranh Iraq . <small>55</small>
Để làm rõ hơn về cách truyền thơng nước Mỹ đóng khung hình ảnh của Tổng thống Iraq Saddam Hussein và đất nước Iraq như thế nào, nhóm tác giả sẽ tập trung vào việc phân tích cách kênh tin tức lớn CNN đưa tin trong cuộc chiến tại Iraq.
Sở dĩ CNN được chọn để phân tích riêng bởi đây là một trong những nguồn tin tức truyền hình hàng đầu trên thế giới. Kênh truyền hình CNN mang tính chất quốc gia và cả quốc tế vì sự phổ biến của nó trong việc đưa tin về chiến tranh và các cuộc xung đột quốc tế. Nội dung trong các bài báo của CNN luôn thể hiện một lập trường mạnh mẽ rằng việc tham gia vào cuộc chiến với Iraq để lật đổ nhà độc tài Saddam Hussein và ngăn chặn trước mối đe dọa mà ông ta có thể gây ra đối với lợi ích của Hoa Kỳ và an ninh quốc gia là chính đáng. CNN đưa tin về cuộc chiến tranh Iraq năm 2003 trong hai tháng đầu tiên bắt đầu bằng cách lấy người Mỹ làm trung tâm như mọi khi và tập trung vào vai trò của Hoa Kỳ với tư cách là người bảo vệ nền dân chủ, có trách nhiệm chống lại những kẻ độc tài xấu xa ở mọi nơi trên thế giới cho dù đó là quốc gia nào. Trong hai tháng
<small>55</small><i><small> Dominic Timms (2003), “Dyke attacks “unquestioning” US media”, The Guardian,</small></i>
<small> tham khảo ngày 18/05/2022.</small> 22
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">đầu này, CNN sẽ dồn lực vào miêu tả những chủ đề thường thấy trong mọi cuộc xung đột, bao gồm: thiện và ác, giải phóng Iraq, Chủ nghĩa phương Đơng ,...<small>56</small>
Ngày 5/2/2003, Ngoại trưởng Mỹ ông Colin Powell - một nhà ngoại giao đầy kinh nghiệm của Mỹ đã vứt bỏ tất cả danh dự của mình bằng lời nói dối lớn nhất thế kỷ 21 tính tới thời điểm đó. Tại Liên Hiệp Quốc, ơng Colin Powell đã giơ trên tay một lọ thuốc chữa bệnh than với lời khẳng định đanh thép rằng đây là bằng chứng không thể chối cãi về việc Iraq sở hữu vũ khí huỷ diệt hàng loạt được CIA thu giữ từ quốc gia Trung Đông này .<small>57</small>
CNN đã thể hiện quan điểm ủng hộ ông ta bằng cách đưa tin về bài phát thanh hàng tuần của Tổng thống Bush, trong đó Bush “kêu gọi Hội đồng Bảo an giữ vững lập trường yêu cầu Iraq giải giáp vũ khí” vì “Tổng thống Iraq Saddam Hussein đang lừa dối chúng ta bằng cách khơng giải trình về vũ khí hủy diệt hàng loạt của quốc gia ông” . Khung đồng thuận cũng thể hiện rõ trong các bài<small>58</small>
báo đặt gánh nặng chứng minh lên Iraq. Một bài báo của CNN đã dẫn lời thanh tra Liên hợp quốc Hans Blix nói rằng "nếu vũ khí hủy diệt hàng loạt không tồn tại, mục tiêu của Iraq <small>56 "Chủ nghĩa phương Đông" là một khái niệm để chỉ những quan điểm của phương Tây khi luôn cho rằng cácquốc gia phương Đơng rất bí ẩn, bảo thủ và khơng thể phát triển nếu khơng có sự giúp đỡ từ phương Tây.57</small><i><small>Tuấn Anh (2018), “Những lần tạo cớ gây chiến tồi tệ nhất lịch sử nhân loại”, Kiến thức,</small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">đặt lên tổng thống và đất nước Iraq khi một đất nước vốn khơng có tội lại phải chứng minh rằng mình vơ tội.
Nội dung các bài báo của CNN hoàn toàn dựa vào quan điểm của các quan chức Hoa Kỳ, đồng thời làm suy yếu đi các quan điểm mâu thuẫn và những người đề xuất phản đối chiến tranh. Bản tin của CNN cũng đưa ra phân định rõ ràng cái thiện và cái ác, trong đó kiên quyết đặt Hoa Kỳ đứng về phía cái thiện trong khi kiên quyết khẳng định Saddam Hussein là cái ác. Dĩ nhiên CNN cũng có đưa tin về những quan điểm đối lập với tổng thống Bush, điển hình như một bài báo của CNN đưa ra lời chỉ trích đối với Mỹ dựa trên cuộc phỏng vấn với Giám đốc Hành động vì Hịa bình Shelagh Foreman “cơ ấy khơng tin rằng chính quyền Bush đang làm việc đủ chặt chẽ với cộng đồng quốc tế, bao gồm một số quốc gia thúc giục kiềm chế trong việc đối phó với Iraq.” Tuy nhiên, CNN đã<small>60</small>
cân bằng lại sự chỉ trích bằng những tuyên bố ủng hộ, chẳng hạn như: “Tất nhiên, chính quyền Bush nhìn nhận điều này theo cách khác, và đã nhiều lần nói rằng Iraq là mối đe dọa đối với Hoa Kỳ và phần còn lại của thế giới". Việc đưa tin cả về những quan điểm trái chiều như vậy có thể khiến cho người đọc tưởng rằng CNN đã đưa tin về chiến tranh Iraq một cách khá trung lập, và điều này khiến họ dễ dàng bị thao túng khi đọc những dòng tin ủng hộ tổng thống Bush mà CNN đã kín đáo đưa vào.
Tin tức của CNN về Saddam Hussein tập trung vào một số chủ đề liên quan đến nguyên nhân bùng nổ chiến tranh một cách trực tiếp và gián tiếp. Ví dụ, một trong những chủ đề lặp đi lặp lại trên CNN là “Non-compliance” (Tạm dịch: Không tuân thủ), sở dĩ CNN đặt trọng tâm vào vấn đề này là nhằm ngụ ý rằng Iraq có vũ khí hủy diệt hàng loạt - vốn là đối tượng giám sát của Liên hợp quốc - thế nhưng đã bị Saddam Hussein phớt lờ. Do đó, <small>60</small><i><small> Kris Osborn (2003), “Peace Action: Not everyone is spoiling for a fight", CNN,</small></i>
<small> tham khảo ngày 18/05/2022.</small> 24
</div>