Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Chơi cổ vật: Văn hóa của giới trung lưu Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.24 KB, 27 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

<b>HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ------ </b>

<b>VƯƠNG TỒN THẮNG </b>

<b>CHƠI CỔ VẬT: VĂN HĨA CỦA GIỚI TRUNG LƯU HÀ NỘI</b>

<b>Ngành: Văn hóa học Mã số: 9 22 90 40 </b>

<b>LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC </b>

<b>HÀ NỘI – 2024</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Cơng trình đã được hoàn thành tại:

<b>HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI </b>

<b>Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. ĐỖ LAI THÚY 2. TS. ĐỖ LAN PHƯƠNG </b>

<b>Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Văn Cương Phản biện 2: GS.TS. Bùi Quang Thanh Phản biện 3: PGS.TS. Lâm Bá Nam </b>

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ, họp tại Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội

Vào lúc h phút, ngày tháng năm 2023

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia

Thư viện Học viện Khoa học xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài </b>

Giới trung lưu hay thường gọi là tầng lớp trung lưu- thuật ngữ chỉ một giai tầng trong xã hội, là nhóm người tạo nên khuynh hướng chủ đạo của các nước phát triển trên thế giới hiện nay. Họ được xem là những người thúc đẩy tiến trình phát triển ở mỗi quốc gia- dân tộc. Về cơ bản, giới trung lưu là tập hợp những người có cuộc sống khá giả, trình độ học vấn cao, hoặc được đào tạo nghề nghiệp thành thạo (trình độ tay nghề cao), có ý thức chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, pháp luật tốt, có tinh thần sáng tạo, chủ động học hỏi vươn lên làm chủ được bản thân, khẳng định vị thế trong xã hội.

Chơi đồ cổ có thể gọi là một loại hình trị chơi giải trí mang đậm chất trí tuệ,người tham gia cần thỏa mãn ba điều kiện: đam mê, tiền bạc và tri thức, mà để thỏa mãn ba điều kiện này phải là những người ít nhất là khá giả, hay là tầng lớp trung lưu (như các nghiên cứu xã hội học gần đây ở Việt Nam gọi tên). Cùng với sự bùng phát hiện tượng chơi cổ vật trong giới trung lưu, và văn hóa của giới trung lưu vẫn cịn ít được quan tâm trong các nghiên cứu của ngành khoa học nhân văn hiện nay. Các nghiên cứu xã hội học (của học giả cả trong và ngoài nước) gần đây cho biết, trong bối cảnh chuyển đổi sang phát triển xã hội công nghiệp hiện đại hóa và hội nhập tồn cầu, Việt Nam đang dần có tỉ lệ cơ cấu dân cư là trên dưới 30% dân số thuộc tầng lớp trung lưu. Do đó, các nhà xã hội học khuyến nghị, Việt Nam cần được trung lưu hóa xã hội để nâng cao đời sống người dân cả ở mức sống và chất lượng sống, cũng như xây dựng xã hội trung lưu theo mơ hình của xã hội hậu cơng nghiệp hóa và cơng nghệ hiện đại, thơng tin kỹ thuật số, được xem là một xu hướng tất yếu và ngày càng trở nên phổ biến. Như vậy, việc nghiên cứu về giới trung lưu hiện nay cần sự quan tâm hơn nữa của các ngành khoa học nhân văn, trong đó có Văn hóa học, mà tiếp cận chơi cổ vật có thể được xem như một trong các hướng tìm hiểu về văn hóa của giới trung lưu nói chung và giới trung lưu ở Hà Nội nói riêng. Hơn nữa, chơi cổ vật hiện đang là một hiện tượng văn hóa- xã hội được nhiều người quan tâm, khơng chỉ giới nghiên cứu, do đó, nó rất cần được nghiên cứu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Trong luận án này, việc xem xét thú chơi cổ vật là một sở thích hay cịn là một thực hành văn hóa, một thực hành xã hội cũng cần được giải đáp. Thực tế cho thấy, trong quá trình tham gia chơi cổ vật, các “bước” chơi làm nảy sinh nhu cầu liên kết giữa những người tham gia, hình thành các nhóm, các CLB, Hội cổ vật và Hội chơi cổ vật. Mối quan hệ giữa các thành viên trong và ngoài hội/CLB, cũng như các mối quan hệ “liên” hội, đã tạo ra những mạng lưới xã hội đan chéo. Ở đó, thành viên có thể sử dụng các mối quan hệ này để theo đuổi thú chơi cổ vật, vậy họ được gì ở đó. Hoạt động của các Hội/CLB có vai trị như thế nào đối với hội viên và có phải là một hình thức biểu hiện của “tiểu văn hóa” trung lưu, vai trị của nó đối với tổng thể văn hóa- xã hội của Hà Nội như thế nào?. Tất cả đều cần làm rõ từ kết quả nghiên cứu thực tiễn…

Là giảng viên văn hóa tại một Trường đào tạo cán bộ Đảng cho thành phố Hà Nội, và cũng là một người chơi cổ vật lâu năm, có một số trải nghiệm khi tham gia vào quá trình thành lập và hoạt động của các CLB, Hội chơi cổ vật của Hà Nội, NCS muốn nghiên cứu về thú chơi này nhằm góp phần làm dầy thêm những nghiên cứu về văn hóa Hà Nội, đặc biệt, chơi cổ vật hiện đang rất phát triển trong bối cảnh mới của Hà Nội hiện đại hóa. NCS cũng biết được nghề nghiệp, mức sống, ứng xử xã hội của nhiều người chơi cổ vật, nhận thấy chơi cổ vật không đơn thuần chỉ là một thực hành trị chơi giải trí theo sở thích,q trình tham gia chơi nói lên văn hóa của người

<i><b>chơi. Do đó, NCS đã chọn đề tài nghiên cứu Chơi cổ vật: văn hóa của giới </b></i>

<i><b>trung lưu Hà Nội làm luận án Tiến sĩ Văn hóa học. </b></i>

Luận án này chọn nghiên cứu vai trò của chơi cổ vật trong đời sống văn hóa của một bộ phận giới trung lưu ở Hà Nội, xem nó như một lăng kính để quan sát và nhận biết đời sống văn hóa đa dạng, phong phú của tầng lớp trung lưu Hà Nội hiện nay. Thông qua nghiên cứu này, tác giả mong muốn tìm hiểu giới trung lưu Hà Nội như một nhóm xã hội có đời sống văn hóa độc đáo, có chất lượng cao, có những phương thức thích ứng với cuộc sống cũng như thể hiện nét riêng khác, vị thế và sự đóng góp của mình trong đời sống văn hóa chung ở một đô thị lớn như Hà Nội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu </b>

<i><b>2.1. Mục đích nghiên cứu </b></i>

Thơng qua nghiên cứu các cách thức/lối chơi cổ vật và các hoạt động xung quanh chơi cổ vật của một nhóm trung lưu ở Hà Nội hiện nay, luận án chỉ ra: chơi cổ vật là một phần văn hóa của giới trung lưu tại đây và đưa ra một số bàn luận xung quanh vai trò của chơi cổ vật đối với đời sống văn hóa của giới trung lưu ở Hà Nội.

<i><b>2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu </b></i>

Từ mục đích nghiên cứu đã nêu ở trên, NCS đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:

(1) Tìm hiểu sự hình thành tầng lớp trung lưu, sự xuất hiện và phát triển chơi cổ vật ở Hà Nội;

(2) Trình bày về các lối/phong cách chơi cổ vật thịnh hành, làm rõ đặc điểm của những người trung lưu chơi cổ vật ở Hà Nội hiện nay;

(3) Phân tích làm rõ vai trò của các hội/CLB chơi cổ vật đối với người chơi cổ vật ở Hà Nội và các mối quan hệ liên quan; (4) Phân tích làm rõ vai trò của chơi cổ vật đối với lối sống cá

nhân và đối với văn hóa của giới trung lưu Hà Nội.

<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu </b>

<i><b>3.1. Đối tượng nghiên cứu </b></i>

Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là các phong cách/lối chơi cổ vật được thực hành bởi một số nhóm chơi cổ vật (với các nhà sưu tập thành danh được chọn làm đối tượng khảo sát của luận án), thông qua các hoạt động của họ như sưu tầm, trao đổi, mua bán cổ vật, xây dựng bộ sưu tập, trưng bày, cùng với hoạt động của các CLB, Hội chơi cổ vật.

<i><b>3.2. Phạm vi nghiên cứu </b></i>

<i>* Về nội dung: Để hiểu rõ về chơi cổ vật ở Hà Nội, NCS thực hiện </i>

việc tìm hiểu tất cả các yếu tố liên quan như sự hình thành chơi cổ vật (với các yếu tố lịch sử, quá trình lưu truyền, sở hữu, bối cảnh chính trị- xã hội...), đến phong cách/lối chơi cổ vật định hình và thay đổi. Đi cùng đó là

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

những tìm hiểu về sự hiểu biết cổ vật của người chơi, cách thức họ sưu tầm, xây dựng bộ sưu tập cổ vật, thị trường và điều kiện đối với chơi cổ vật, các hoạt động triển lãm, trưng bày, cách thưởng ngoạn, cách bày cổ vật trong tư gia để thưởng lãm của thành viên các Hội, CLB chơi cổ vật,... Tất cả là để làm rõ vấn đề nghiên cứu.

<i>* Về thời gian: NCS tập trung vào giai đoạn từ đầu thế kỷ XXI đến </i>

nay (hiện nay), từ sau khi Nghị quyết lần thứ 5 của BCH TW Đảng khóa VIII ra đời (năm 1998) và bắt đầu vận dụng trong thực tiễn đời sống văn hóa cả nước. Trong đó có chủ trương “Xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa dân tộc” là tiền đề để phát triển rộng rãi thú chơi cổ vật ở Việt Nam, ra đời các Hội và CLB cổ vật, đặc biệt nổi lên các nhóm chơi cổ vật ở Hà Nội. Cùng với sự tập trung mơ tả, phân tích làm rõ các khía cạnh văn hóa của chơi cổ vật từ đầu thế kỷ XXI đến nay, NCS cũng quan tâm tới chơi cổ vật giai đoạn trước và sau năm 1975 cho đến cuối thế kỷ XX để có cái nhìn so sánh và liên tục đối với chơi cổ vật ở Hà Nội.

<b>4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu </b>

* Tác giả sử dụng cách tiếp cận nghiên cứu văn hóa có tính liên ngành, được thể hiện ở các khía cạnh như: Khía cạnh lịch sử - khảo cổ - bảo tàng để nghiên cứu sự tồn tại của cổ vật ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử (trước năm 1975 đến nay) với các hình thức lưu truyền, sưu tập, sở hữu khác nhau; khía cạnh thị hiếu/sự yêu thích là để xem xét những tính năng đặc biệt (về thẩm mỹ) của cổ vật có gì thu hút đối với giới trung lưu, cùng ảnh hưởng của môi trường xã hội, để họ lựa chọn chơi cổ vật; Khía cạnh kinh tế là để thấy, ngoài thị hiếu thẩm mỹ, giá trị kinh tế của cổ vật có tác dụng như thế nào đối với người chơi cổ vật; Khía cạnh nhân học- dân tộc học là để có cái nhìn của người trong cuộc về suy nghĩ, lối sống, các ứng xử văn hóa của một bộ phận giới trung lưu Hà Nội trong thực hành các hình thức chơi cổ vật, cùng hoàn cảnh/điều kiện tham gia chơi cổ vật của họ.

* Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng gồm:

(1) Nghiên cứu tài liệu thứ cấp: NCS thực hiện việc thu thập và phân tích các tài liệu trong lịch sử Việt Nam (chính sử), sách, truyện văn

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

học, sách chuyên khảo liên quan đến chơi cổ vật và người chơi cổ vật (chú trọng tới các nhà sưu tập tiêu biểu như: H.N, Ng. N, Ng. Tr B.V.Ch, Th.Ch v.v... ).

(2) Phương pháp nghiên cứu định tính của dân tộc học – nhân học được sử dụng, với các thao tác/kỹ thuật quan sát tham gia, phỏng vấn sâu, phỏng vấn hồi cố, chụp ảnh. NCS thực hiện thâm nhập và quan sát một số hoạt động trao đổi cổ vật, tham gia các hoạt động sưu tầm, trưng bày, triển lãm cổ vật của một số người chơi cổ vật ở Hà Nội được đưa vào khảo sát. Nguồn thông tin thực địa sẽ giúp NCS có thể biết về suy nghĩ, mong muốn hay ý thích của người chơi/sưu tầm cổ vật, mối quan hệ xã hội - văn hóa giữa họ, hay các mối quan hệ giữa các thành viên trong các CLB, Hội chơi cổ vật. Từ đó, NCS có thể hiểu sâu hơn vai trị, ý nghĩa của chơi cổ vật đối với mỗi cá nhân hay nhóm, sự phản ánh của nó về đời sống văn hóa của một bộ phận giới trung lưu.

Các câu phỏng vấn được chuẩn bị theo hình thức phi cấu trúc nên mang tính tự do, như những cuộc trò chuyện giữa những người có cùng niềm đam mê chơi cổ vật. Từ những khảo sát thử nghiệm, NCS thấy những thơng tín viên của mình khơng ngại việc để lộ danh tính, họ còn muốn mọi người biết được “những điều tâm đắc” của họ khi nói về cổ vật và chơi cổ vật hiện nay. Tuy nhiên, với đạo đức khoa học, tôn trọng quyền riêng tư, và vì sự an tồn của những chủ nhân bộ sưu tập có giá trị, NCS chủ yếu sử dụng tên viết tắt của các thơng tín viên.

<b>5. Đóng góp của luận án </b>

Luận án là cơng trình đầu tiên nghiên cứu về vai trò của chơi cổ vật từ góc nhìn Văn hóa học, xem các hoạt động chơi cổ vật như một trong những thực hành văn hóa của giới trung lưu hiện nay ở Việt Nam nói chung và giới trung lưu ở Hà Nội nói riêng. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm đa dạng các nghiên cứu về văn hóa của giới trung lưu Việt Nam hiện nay, cũng như làm phong phú hơn các nghiên cứu về thực hành văn hóa giải trí của giới trung lưu ở Hà Nội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Luận án có những khái quát về lịch sử thú chơi cổ vật, mơ tả, phân tích làm rõ vai trò của chơi cổ vật trong đời sống văn hóa - xã hội ở Hà Nội hiện nay, phản ánh sự phong phú các hình thức giải trí trong bối cảnh đương đại. Luận án bước đầu lý giải về hiện tượng bùng phát thú chơi cổ vật và qua đó thấy được phần nào sự phát triển của tầng lớp trung lưu ở các thành phố lớn của Việt Nam mà Hà Nội là một trường hợp, vai trò của họ trong tổng thể đời sống văn hóa xã hội.

<b>6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án </b>

Luận án là một nghiên cứu chuyên sâu về chơi cổ vật và người chơi cổ vật ở Hà Nội hiện nay, góp thêm luận cứ để chứng minh vai trò của một loại hình giải trí kết hợp văn hóa - kinh tế (chơi cổ vật) trong việc hình thành “tiểu văn hóa” của giới trung lưu Hà Nội, qua đó thấy được phần nào lối sống và văn hóa của giới trung lưu ở Hà Nội hiện nay.

Luận án có thể làm nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên, giảng viên và các nhà nghiên cứu văn hóa và văn hóa giải trí, nghiên cứu và quản lý về trị chơi, các nhà quản lý di sản văn hóa, những người chơi cổ vật và những người quan tâm/ yêu thích cổ vật.

<b>7. Cơ cấu của luận án </b>

Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục các cơng trình của tác giả liên quan đến đề tài và Phụ lục, luận án có 4 chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận Chương 2: Sự hình thành giới trung lưu và thú chơi cổ vật ở Hà Nội Chương 3: Chơi cổ vật ở Hà Nội qua các giai đoạn ở thế kỷ XX và hiện nay Chương 4: Chơi cổ vật: Văn hóa của giới trung lưu Hà Nội - Một số

bàn luận

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>Chương 1 </b>

<b>TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu </b>

<i><b>1.1.1. Về tầng lớp trung lưu ở Việt Nam </b></i>

Từ phía các học giả nước ngoài, có thể nhắc đến cơng trình “The middle class inSoutheast Asia: diversities,identities, comparisons an

<i>d the Vietnamese case” (Tầng lớp trung lưu ở Đông Nam Á: sự đa dạng, </i>

<i>bản sắc, so sánh và trường hợp Việt Nam) của Victor T. King (2008a). </i>

Tầng lớp trung lưu Việt Nam được đề cập trong cơng trình trên và trong một bài viết biến thể khác với 2 tác giả Việt Nam (King và cộng sự, 2008): "Professional middle class youth in post-reform Vietnam: identity,

<i>continuity and change" (Giới chuyên môn trẻ trong TLTL ở Việt Nam sau </i>

<i>Đổi mới: bản sắc, sự liên tục và biến đổi) được phân tích trên mẫu gồm 226 </i>

người (cả nam và nữ thuộc nhóm tuổi từ 19-25) tại 4 đô thị lớn của Việt Nam là Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Hải Phòng.

Cuốn sách “The Reinvention of Distinction: Modernity and the

<i>Middle Class in Urban Vietnam” (Phát hiện lại nét độc đáo: Hiện đại và </i>

<i>tầng lớp trung lưu ở các đô thị Việt Nam) là các bài viết khá lý thú của </i>

nhóm học giả quốc tế (Nguyen-Marshall, Drummond, Bélanger 2012) Về TLTL ở Hà Nội hiện nay, bài viết của Lisa Drummond: "Middle class Landscapes in a Transforming City: Hanoi in the 21st

<i>Century" (Cảnh quan về tầng lớp trung lưu ở thành phố đang chuyển đổi: </i>

<i>Hà Nội thế kỷ XXI) </i>

Năm 2014, Viện Nghiên cứu Châu Á của Bắc Âu (Nordic Institute of Asian Studies - NIAS) ở Copenhagen, Đan Mạch đã xuất bản cuốn sách của Catherine Earl (2014) dưới tiêu đề “Vietnam’s New Middle Classes:

<i>Gender, Career, City” (Tầng lớp trung lưu mới ở Việt Nam: Giới, Công </i>

<i>việc, Thành phố). </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Ở trong nước, những năm gần đây, đã có một số cơng trình nghiên cứu trực tiếp về TLTL Việt Nam. Chẳng hạn, đề tài NCKH cấp nhà nước

<i>Tầng lớp trung lưu trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam (Mã số KX.02.16/11-15) do Đoàn Minh Huấn và Trần Thị Minh </i>

Ngọc làm chủ nhiệm (2015)

Bùi Đại Dũng (2014) trong bài viết "Quy mô tầng lớp trung lưu tại Việt Nam theo tiêu chí thu nhập"

Bùi Thế Cường, Phạm Thị Dung và Tô Đức Tú (2015) với bài viết “Tầng lớp trung lưu ở thành phố Hồ Chí Minh: Cơ cấu và đặc điểm nhân khẩu” đã trình bày một nghiên cứu đáng chú ý cả về nội dung và phương pháp.

Lê Kim Sa (2015) có cơng bố bài “Tầng lớp trung lưu ở Việt Nam: quan điểm tiếp cận, thực tiễn phát triển và các kiến nghị chính sách”, có lẽ là nghiên cứu định lượng đầu tiên về TLTL ở Việt Nam dựa trên bộ số liệu

<i>của 5 cuộc Điều tra Mức sống Dân cư Việt Nam (VLSS) trong các năm </i>

2004, 2006, 2008, 2010 và 2012.

Một tổng quan sơ bộ trên đây cho thấy hình ảnh của TLTL đang xuất hiện ở Việt Nam và nhu cầu nghiên cứu về tầng lớp này đang khá sôi nổi, với những yêu cầu khắt khe về cơ sở lý luận, phương pháp luận và phương pháp hệ một cách chặt chẽ.

<i><b>1.1.2. Về cổ vật, chơi cổ vật và người chơi cổ vật </b></i>

<i>1.1.2.1. Về cổ vật </i>

Từ lâu các học giả nước ngoài đã rất quan tâm tới cổ vật Việt

<i>Nam,thể hiện ở sự xuất hiện tập sách Triển lãm cổ tích Việt Nam của Viện </i>

Viễn đông Bác Cổ Hà Nội (1948).

(1) Dưới góc độ tiếp cận liên ngành lịch sử, khảo cổ, mỹ thuật,... trước hết phải kể đến sự ra đời từ thập niên 60 của thế kỷ trước đến nay, với

<i>hàng trăm số tạp chí, Nghiên cứu lịch sử, được sự tham gia của những </i>

chuyên gia hàng đầu ở Việt Nam và nước ngoài, đã lấy "cổ vật" làm tư liệu

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

để nghiên cứu, giới thiệu và phát hiện mọi khía cạnh của lịch sử Việt Nam và các nước có nhiều tương liên như: Trung Quốc, các nước Đông Nam Á v.v...

Sau đó là hàng loạt cơng trình về các nền văn hóa cổ của Việt Nam

<i>như Văn hóa óc Eo và các văn hóa cổ ở đồng bằng sơng Cửu Long (1984) Một loạt các cuốn sách do Hà Văn Tấn viết hoặc chủ biên như: Văn </i>

<i>hóa Đơng Sơn ở Việt Nam (1994) cho biết văn hóa Tiền Đông Sơn thuộc </i>

thời đại đồng thau, nguồn gốc trực tiếp của văn hóa Đơng Sơn...

<i>Cổ vật trong cuốn Nghiên cứu nguồn sử liệu hiện vật bảo tàng của </i>

Nguyễn Thị Huệ (2002) được xem xét như một nguồn sử liệu. Hay, cổ vật được tiếp cận là hiện vật được bài trí ở các di tích (chùa, đình, đền, quán, nhà thờ, nhà thờ họ, lăng, mộ...) như là những tư liệu khảo cổ học, tôn giáo

<i>học, mỹ thuật học, lịch sử và văn hóa học được trình bày trong sách Đồ thờ </i>

<i>trong di tích của người Việt của Trần Lâm Biền (2003). Với cuốn Các nền văn hóa cổ Việt Nam của Hoàng Xuân Chinh (2005), cổ vật được sử dụng </i>

như những căn cứ để tác giả xác định và trình bày về các nền văn hóa cổ trên đất nước Việt Nam từ khi có con người xuất hiện cho đến thế kỷ XIX.

Một loạt các cơng trình cung cấp dịng kiến thức về khảo cổ, về

<i>trưng bày mà người chơi cổ vật cần có như Những nền văn hóa khảo cổ tiêu </i>

<i>biểu ở Việt Nam của Phan Văn Đắc và Phạm Võ Thanh Hà (2006), Thông báo khoa học nhân dịp 45 năm Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (2003); Hay </i>

<i>những thông tin về cổ vật ở Nam bộ qua Một số vấn đề khảo cổ học ở miền </i>

<i>Nam Việt Nam (Kỷ yếu năm 2008); công trình khơi gợi đam mê cổ vật từ </i>

<i>văn hóa biển qua Tiếp cận văn hóa biển tiền sử Việt Nam của Nguyễn </i>

Trung Chiến (2015), hay cổ vũ phong trào sưu tầm cổ vật đá, như các cơng

<i>trình: Thần Sa, những di tích của con người thời đại đồ đá (1981),Hàng </i>

<i>Gòn kỳ quan cự thạch Việt Nam (2015), Di sản vô giá của Kinh thành Thăng Long do Nhật Minh chủ biên(2015) giới thiệu về các loại hình hiện </i>

vật- cổ vật tiêu biểu đã khai quật được từ lòng đất Thăng Long và những

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

nhận định quan trọng về giá trị nhiều mặt của chúng. Có nghiên cứu lại

<i>quan tâm tới nghệ nhân chế tác như bài viết về Đặng Huyền Thông nghệ </i>

<i>nhân gốm mỹ thuật Phật giáo thời Mạc (1527 - 1592) của tác giả Trần Đình </i>

<i>Sơn trên tập văn Thành Đạo... </i>

<i>1.1.2.2.Về chơi cổ vật và người chơi cổ vật </i>

Trong các nhà chơi cổ vật, vừa chơi vừa viết sách, có lẽ Vương Hồng Sển là tác giả có nhiều sách, truyện, bài báo nhất và trong một loạt

<i>các tác phẩm viết về cổ vật của ơng có cuốn Thú chơi cổ ngoạn (1990,tập 3 </i>

của “Hiếu cổ đặc san” xuất bản năm 1971).

<i>Khảo về đồ sứ cổ Trung Hoa ra đời (tập 4 của “Hiếu cổ đặc san”, </i>

1971), cũng của Vương Hồng Sển cũng cho biết vốn sống gắn liền với cổ ngoạn, như ông viết trong lời đề tựa cuốn sách: "Tơi có nghiệp với đồ xưa từ tấm bé, 5 tuổi biết nhịn ăn để dành đồng xu sắc sảo, 9 tuổi biết nhịn tiền mua truyện Tàu, 19 tuổi ra trường đậu đíp-lơm đã vọc vạch đồ cổ, 23 tuổi gặp lần đầu đĩa trà kiểu "Mai - Hạc"...

<i>Ra đời từ 1994, tạp chí Xưa nay ngay từ số "0" năm 1994 đã có chuyên </i>

mục “Kiến thức dành cho người chơi cổ vật”,mà một phần lời tòa soạn được xem như tôn chỉ:

<i>Năm 2002, Hội Cổ vật Thăng Long cho ra đời tạp chí Cổ vật tinh </i>

<i>hoa, mục đích là quảng bá hình ảnh cổ vật và hoạt động của giới cổ vật </i>

trong cả nước nhưng nó cịn cho biết những nét văn hóa riêng của giới chơi cổ vật ở Hà Nội.

<i>Năm 2005, Phạm Hy Tùng cho xuất bản cuốn sách Cổ vật gốm sứ </i>

<i>Việt Nam đặt làm tại Trung Hoa. Vốn là người Hà Nội gốc, ông là hậu duệ </i>

đời thứ 4 của danh nhân văn hóa Hà Nội Phạm Hy Lượng.

Năm 2010, nhân dịp 1000 năm Thăng Long- Hà Nội, CLB của những người yêu cổ vật Hà Nội đã cho xuất bản cuốn sách ảnh để Kỷ niệm

<i>1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Liên tiếp từ đó đến 2014, CLB đã xuất bản được 5 cuốn mang tên CLB Thú chơi cổ ngoạn của người Hà Nội(Nhiều tác </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

giả) với tôn chỉ giới thiệu, quảng bá và khuyến khích một thú chơi của người Hà Nội.

<i>Một loạt bài của Nguyễn Đức Quỳnh đăng trên tạp chí Mỹ Thuật đã có </i>

những tiếp cận vừa khá sâu sắc về mỹ thuật, vừa cụ thể, hiện thực khi gắn trực tiếp với người chơi cổ vật. Đó là các bài: “Cổ ngoạn nghề chơi đầy nỗi gian truân” (số 62); “Hồn của gốm” (số 74); “Cách thức hình thành các bộ sưu tập” (số 84); “Bày đồ” (số 88); “Chuông” (số 114); “Cổ vật kẻ khóc người cười” (số 120); “Lừa trong cổ vật” (số 148); “Thú chơi” (số 181); “Người để lại” (số 207); “Hà Nội mn mặt” (số 218)...

<i><b>1.1.3. Nhận xét về tình hình nghiên cứu và những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu </b></i>

<i>Đóng góp của các cơng trình nghiên cứu đi trước </i>

Tuy có nhiều cơng trình nghiên cứu hoặc những bài viết, chương mục báo/chí có đề cập tới cổ vật (như NCS trình bày ở phần trước), song hầu hết đều tiếp cận ở góc độ kỹ thuật- khảo cổ học, mỹ thuật, văn hóa- lịch sử. Những bài viết của Nhật Nam đăng trên “Hà Nội ngàn năm” hoặc

<i>những bài của Nguyễn Đức Quỳnh đăng trên tạp chí Mỹ thuật khoảng chục </i>

năm trở lại đây cũng vẫn tập trung vào những khía cạnh này, là điều mà những người am hiểu, người chơi cổ vật cho đó là những kiến thức cơ bản để “nhập môn” đối với “chơi cổ vật”...

Có hai cơng trình nghiên cứu về cổ vật được tiếp cận ở góc độ văn

<i>hóa: Luận án Tiến sĩ về Gốm cổ trong đời sống văn hóa Việt Nam của Phạm </i>

Ngọc Dũng (2010),

<i>Với luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Hồng Lê (2015),Gốm cổ </i>

<i>Thăng long thời Lê sơ và vai trò của nó trong đời sống hồng cung, mục </i>

đích nghiên cứu của tác giả được thấy ở ngay tên gọi đề tài.

Về người chơi cổ vật, tuy có một số bài viết đề cập đến,như trong các bài viết của Đặng Vương Hạnh (2000), Hoàng Anh Sướng (2004), Hoàng Lâm (2005), Nguyễn Hải Yến (2010)...,

</div>

×